Tải bản đầy đủ (.docx) (129 trang)

Một số biện pháp tổ chức mối liên kết lực lượng giáo dục và lực lượng truyền hình nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông các chương trình truyền hình giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.69 KB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM

PHẠM NGỌC THẠCH

Một số biện pháp tổ chức mối liên kết lực lượng
giáo dục và lực lượng truyền hình nhằm nâng cao
hiệu quả truyền thông các chương trình truyền hình
giáo dục
LUẬN VĂN THẠC SỸ

Người hướng dẫn: PGS.TS. Đặng Quốc Bảo

Hà nội - 2004


PHẦN I
I/ ĐẶT VẤN ĐỀ .
Sự thay đổi của nền kinh tế đã kéo theo sự thay đổi trong xã hội và gia

đình .
Quá trình đô thị hóa nhanh chóng kèm theo sự thay đổi các thành phần
kinh tế đã khiến một số người rơi vào tình trạng thất nghiệp . Hiện tượng này
đã khiến cho trẻ em cũng buộc phải lao động kiếm sống phụ giúp gia đình .
Hiện tượng trẻ em lang thang từ các vùng nông thôn ra thành phố kiếm sống
ngày càng tăng . Nếu như năm 1996 ở Hà Nội có 14.596 trẻ lang thang thì đến
tháng 10 năm 1997 đã có 16.263 trẻ lang thang và đến năm 2000 thì con số này
đã lên tới 19.000 trẻ và đây chỉ là kết quả điều tra sơ bộ , con số thực tế còn có
thể lớn hơn nhiều .Vấn đề trẻ bỏ đi lang thang là một vấn đề bức xúc , là mối
quan tâm của toàn xã hội .Trẻ sống lang thang xa gia đình , thiếu sự kiểm soát
của cha mẹ, lại trong môi trường thường xuyên tiếp xúc với các tệ nạn xã hội ,


cùng với đặc diểm tâm lý dễ bị kích động , thích tỏ ra là người lớn, các em rất
dễ dàng bị lô i kéo vào việc tham gia các tệ nạn xã hội .Đánh giá về những tồn
tại ,yếu kém của 5 năm gần đây và của 15 năm đổi mới ,Đảng ta cũng chỉ rõ
"Các tệ nạn xã hội nhất là tệ nạn ma tuý và mại dâm lan rộng .Số người nhiễm
HIV và mắc bệnh AIDS tăng "(Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX,
tr.75).Các tổ chức , ủy ban bảo vệ chăm sóc trẻ em những năm gần đây đã có
chương trình hành động , các dự án hỗ trợ giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn .Tuy nhiên ranh giới giữa trẻ em lang thang và trẻ phạm pháp rất mỏng
manh .Theo thống kê của tổ chức UNICEF năm 1995 có 275 trẻ lang thang
phạm tội ở thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1997 trong số 16.263 trẻ lang thang
thì có tới 4000 trẻ nghiện ma túy , 8500 trẻ vi phạm pháp luật .

-1-


Trước tình hình trên Chính phủ đã có chương trình hành động Quốc gia
vì trẻ em , chương trình bảo vệ trẻ em trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ,
trong đó có đề án 3 là đề án phòng chống tệ nạn sử dụng ma tuý giao cho ủy
ban quốc gia phòng chống ma túy chủ trì , kết hợp với ủy ban bảo vệ chăm sóc
trẻ em thực hiện.
Mặc dù tình trạng trẻ em lang thang sử dụng

ma túy ngày càng tăng

, nhưng chưa có một nghiên cứu nào dưới góc độ tâm lý học nói chung , cũng
như chưa có một nghiên cứu nào nói riêng quan tâm tới thái độ của trẻ em lang
thang đối với việc sử dụng ma túy . Nghiên cứu thái độ của trẻ em lang thang
đối với việc sử dụng ma túy nhằm tìm hiểu nhận thức , xúc cảm tình cảm , hành
động của trẻ lang thang đối với việc sử dụng ma túy , xác định các yếu tố tác
động nhằm thay đổi thái độ . Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần cung cấp những

số liệu thực tế cho những người làm công tác chăm sóc , bảo vệ trẻ em .Trên cơ
sở đó giúp cho việc bảo vệ chăm sóc trẻ em có thêm những thông tin cập nhật
về thái độ của trẻ lang thang đối với việc sử dụng ma túy ,và là cơ sở khoa học
đề ra các biện pháp , kiến nghị cần thiết đối với Đảng , nhà nước , các tổ chức
xã hội , điều chỉnh hoạt động của mình trong việc giáo dục trẻ em nói chung ,
trẻ em lang thang nói riêng vì sự tiến bộ , phồn vinh hạnh phúc của đất nước
trong giai đoạn cách mạng mới .
II/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thái độ của trẻ em lang thang đối với việc sử dụng ma túy
nhằm tìm hiểu nhận thức , cảm xúc , hành động của trẻ lang thang đối với việc sử
dụng ma túy , xác định các yếu tố tác động dẫn tới sự thay đổi thái độ và trên cơ sở
đó đề ra các kiến nghị và giải pháp , góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận và những
số liệu thực tiễn cho người làm công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em , đặc

-2-


biệt là trẻ em lang thang , thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và nhà nước
ta hiện nay trong vấn đề này .
III/ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

_. Làm rõ thái độ của trẻ lang thang đối với việc sử dụng ma túy .Trên cơ
sở đó chỉ ra cấu trúc tâm lý của thái độ , các tác động xã hội -tâm lý thay đổi
thái độ của trẻ lang thang đối với việc sử dụng ma túy _Vạch ra bức tranh thực
trạng về trẻ lang thang trên địa bàn Hà Nội và vấn đề trẻ lang thang trên địa
bàn Hà Nội sử dụng ma túy hiện nay .
_Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu , chỉ ra một số giải pháp , kiến nghị cần

thiết nhằm giảm thiểu tình trạng trẻ lang thang nói chung và trẻ lang thang có sử
dụng ma túy nói chung và trên địa bàn Hà Nội nói riêng . .

IV/ ĐỐI TƢỢNG , KHÁCH THỂ , PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1.Đ ỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU ;

Thái độ - một hiện tượng tâm lý quan trọng của con người và
nhóm người. Đề tài làm rõ thái độ của trẻ lang thang trên địa bàn Hà Nội liên
quan đến việc sử dụng ma túy
4.2. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU

_Các nhóm trẻ lang thang trên địa bàn Hà Nội từ 10 đến 18 tuổi (Tại các
quận Hai Bà Trưng , Ba Đình , Thanh Xuân ) (200trẻ)
Nghiên cứu và so sánh trên nhóm trẻ sống cùng gia đình tại trường
THCS Kim Giang ,và trường THCS Kim liên .(200 trẻ )
Phỏng vấn sâu 05 trường hợp (Có hồ sơ tâm lý kèm theo ).
Nghiên các trên 100 người lớn sống xung quanh nơi trẻ làm việc để tìm
hiểu những yếu tố xã hội -tâm lý tác động tới thái độ của trẻ lang thang .
4.3 . PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu trên 200 trẻ lang thang trên địa bàn Hà Nội và 200 trẻ đối
chứng là học sinh các trường THCS tại Hà Nội .

-3-


V/ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÀI LIỆU ;

Tiếp thu các kết quả nghiên cứu từ hệ thống các tài liệu có sẵn, chúng tôi
khái quát làm rõ cơ sở lý luận của đề tài, làm rõ khái niệm có liên quan tới đề
tài nghiên cứu .
5.2 . PHƢƠNG PHÁP QUAN SÁT.

_Quan sát tìm hiểu cuộc sống lao động và sinh hoạt hàng ngày của trẻ
lang thang cũng như thái độ của chúng liên quan đến việc sử dụng ma túy
nhằm rút ra các kết luận cần thiết. .
5.3 PHƢƠNG PHÁP ĐIỀU TRA BẰNG BẢNG HỎI .
Dựa trên ý kiến thu thập được qua trò chuyện ,xây dựng bảng hỏi điều
tra tìm hiểu thái độ của trẻ lang thang đối với việc sử dụng ma túy .
5.4.PHƢƠNG PHÁP TOẠ ĐÀM, PHỎNG VẤN.
Tiến hành toạ đàm phỏng vấn với trẻ em lang thang để phát hiện những
khía cạnh tâm lý liên quan tới cấu trúc tâm lý của thái độ ,đến thái độ của trẻ
đối với việc sử dụng ma tuý.
Toạ đàm phỏng vấn đối với một số người lớn tuổi xung quanh khu vực
trẻ lang thang sinh sống nhằm tìm hiểu các khía cạnh tâm lý của trẻ trước Tiến
tác hại của tệ nạn xã hội .
Đặc biệt chúng tôi có tiến hành phỏng vấn sâu một số đối tượng (cả trẻ
em và người lớn ) trong khách thể nghiên cứu nhằm tìm ra những lời giải đáp
cần thiết minh hoạ thêm cho những con số thu được qua các khoả sát, điều tra
bằng bảng hỏi.
5.4. PHƢƠNG PHÁP THỐNG KÊ TOÁN HỌC
Sử dụng những tri thức về toán học thống kê để xử lý số liệu điều tra .

-4-


VI/ GIẢ THUYẾT KHOA HỌC .
Có thể giả định rằng thái độ của trẻ lang thang đối với việc sử dụng ma túy có
một cấu trúc tâm lý phức tạp bao gồm các thành tố nhận thức ,cảm xúc và ý chí . Nếu
chỉ ra các thành tố tâm lý này cũng như các yếu tố tham gia làm thay đổi thái độ của
trẻ (Các đặc điểm nhân cách liên quan ,môi trường ,hoàn cảnh kinh tế xã hội ,các
mối quan hệ nhóm xã hội .....) thì có cơ sở khoa học đề xuất


các giải pháp , kiến nghị nhằm giảm thiểu tình trạng trẻ lang thang sử dụng ma
túy trên địa bàn Hà Nội trong điều kiện hiện nay , góp phần to lớn vào việc
nâng cao hiệu quả các chương trình chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước
ta trong giai đoạn cách mạng mới .

-5-


PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ .

Thái độ và sự thay đổi thái độ là một trong những đề tài được
nghiên cứu nhiều nhất trong tâm lý học . Các nhà tâm lý học đã cố gắng nghiên
cứu nhằm đưa ra những định nghĩa , quan điểm , cấu trúc của thái độ và mối
quan hệ giữa thái độ và hành vi nhằm hiểu rõ , dự đoán , kiểm soát và thay đổi
hành vi của con người .
1.1.1 Các nghiên cứu liên quan đến thái độ.
Thái độ là một hiện tượng tâm lý khá phức tạp trong đời sống tâm lý
của con người và của các nhóm người ,và đã được các nhà tâm lý học phương
Tây quan tâm nghiên cứu từ rất sớm ;từ đầu thế kỷ XX gắn với tên tuổi của hai
nhà tâm lý học Mỹ là Thomas.W.I và Znaniecki. F một công trình nghiên cứu
về người nông dân Ba Lan sống ở Châu Âu và di cư sang Mỹ.Hai ông đã đặc
biệt chú ý đến sự thích ứng cũng như thái độ của những người nông dân này
trước những thay đổi về giá trị của cuộc sống và đưa đến nhận địmh :thái độ là
trạng thái tinh thần của cá nhân đối với một giá trị nào đó.
Về sau ,các công trình nghiên cứu về thái độ ngày càng nhiều gắn với tên tuổi
của nhiều nhà tâm lý học nổi tiếng như La Piere,G.W.Allport,Leon Festinger, Daryl

Bem ,W.Mc .Guire .... bởi lẽ hiện tượng này đã đụng chạm đến

nhiều hiện tượng khác của cuộc sống xã hội ,đụng chạm dến các quan hệ xã
hội như dư luận xã hội ,tâm trạng xã hội truyền thông đại chúng. ...
Năm 1934 ,La Piere trong một công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng
những điều con người nói và trên thực tế không phải lúc nào cũng luôn đồng nhất.

-6-


Kết luận này sau này được mang tên là "nghịch lý LaPiere".Điều này đã cho con
người ta suy nghĩ về mối quan hệ giữa thái độ bên trong và hành vi biểu hiện ra bên
ngoài.Việc giải quyết về mối quan hệ này có ý nghĩa to lớn cho giáo dục đạo đức và
điều chỉnh hành vi của con người trong cuộc sống cộng đồng. Điều này cho đến nay
vẫn được nhiều nhà tâm lý học của nhiều nước trên thế giới tiếp tục khám phá. Về
sau này ,vào năm 1957 Leon Festinger với thuyết " Bất đồng nhận thức " đã đi đến
quan điểm cho rằng con người có thể xuất hiện trạng thái khó chịu ,căng thẳng khi
thái độ và hành vi của bản thân có sự mâu thuẫn.Cần phải nhận thấy là theo ý hướng
của Festinger đã có rất nhiều các công trình trong nhiều năm từ thập kỷ 60 đến 80
của thế kỷ tập trung vào làm rõ thêm vấn đề này:

Các nghiên cứu về những " công nhân quý tộc "ở Anh doGoldthorpe và
Lockwood tiến hành đã cho thấy thái độ trong công việc của người công nhân
liên quan đến các định hướng mà người công nhân này đem đến lao động của
họ. Các định hướng có thể được biến đổi từ người này sang người khác trong
cùng một công việc ,theo một cung cách mà nếu chỉ quy chiếu vào những
chỉnh hợp kỹ thuật và các điều kiện lao động khác thì sẽ không đủ để giải thích
sự thoả mãn hay bất mãn của người công nhân đối với lao động nghề nghiệp
mà họ thực hiện hàng ngày.
Năm 1985, William MC Guire cũng đi sâu nghiên cứu về "thái độ và sự

thay đổi thái độ "và đã đi đến nhận định rằng thái độ và và các vấn đề liên quan
đến sự thay đổi thái độ ,kiểm soát và thay đổi hành vi người thuộc loại đề tài
được quan tâm nhiều nhất trong tâm lý học nói chung và tâm lý học xã hội nói
riêng. Đây là vấn đề rất khó vì bản thân phạm trù này còn nhiều khía cạnh cần
phải tiếp tục bàn cãi.
Nghiên cứu về thái độ ở Liên Xô trước đây chủ yếu dựa trên nền tảng của tâm
lý học hoạt động và trường phái tâm thế ,hoặc trong tâm lý học nhân cách .

-7-


Khái niệm thái độ chủ quan của cá nhân lần đầu tiên được đặt ra trong tâm lý học
A.F.Laguski đề xuất khi nghiên cứu tính cách .Trong những bài viết năm 1909 - 1910
về năng lực và trong những cuốn sách sau đó của ông như ""Công trình nghiên cứu
nhân cách trong quan hệ với môi trường""(1912)và trong cuốn" Phân loại nhân cách
" (1917-1924) ,"Bút ký khoa học về tính cách "(1916) ông đã đưa ra quan niệm về
thái độ chủ quan của con người với môi trường .Theo ông khi phân tích nhân cách
không chỉ dừng lại ở góc độ tâm lý tâm sinh lý mà còn phải lưu ý cả góc độ tâm lý
-xã hội. Ông cho rằng thái độ là khía cạnh quan trọng của nhân cách .Ông đặc biệt
quan tâm tới thái độ của cá nhân đối với nghề nghiệp với sở hữu và với người khác ,
với xã hội . Sau này dựa trên tư tưởng của ông và xuất phát từ lập trường Mác xit
nhà tâm lý học V.N.Miasixex đã đề ra học thuyết "Thái độ nhân cách " .Từ đó vấn đề
thái độ của con người trong xã hội được nhiều nhà tâm lý học khác chú ý nghiên cứu
và đề cao như: A.I.Gecxen, N.G.Checnưsevski,N.A.Đobrôliubôv,I.M.Xechenov,
V.M.Becherev.
Nghiên cứu của trường phái tâm thế. Người mở đầu là D. N.Udơnate đã đưa
vào những thực nghiệm để đề ra thuyết tâm thế nhằm khắc phục tính đơn giản, cơ
học và quan điểm tính trực tiếp của hành vi. Theo ông tâm thế là cơ sở của tính tích
cực có chọn lọc, có định hướng của chủ thể là trạng thái trọn vẹn của chủ thể, sẵn
sàng tri giác các sự kiện và thực hiện các hành động theo hướng xác định. Tâm thế là

trạng thái vô thức xuất hiện khi có sự gặp gỡ của nhu cầu và tình huống thoả mãn
nhu cầu, quy định mọi biểu hiện của tâm lý và hành vi của các nhân, giúp cá nhân
thích ứng với điều kiện bên ngoài. Sau này, thuyết tâm thế đã được các đồng nghiệp
khác của ông phát triển, ứng dụng trong Tâm lý học tuyên truyền. Dựa vào đó, người
ta đưa ra khái niệm Tâm thế xã hội tương đương với khái niệm Thái độ - Attitude để
giải thích hành vi xã hội của con người.

-8-


Ngoài trường phái tâm thế, thái độ còn được nghiên cứu trong tâm lý học
nhân cách và đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nhà tâm lý học MỹV.N.Miasiev đã
đưa ra thuyết thái độ nhân cách coi nhân cách là một hệ thống thái độ. Ông là một
trong những người đặt nền móng cho Tâm lý học thái độ theo quan điểm Macxit.
Ông đã khẳng định cơ sở sinh lý học của thái độ có ý thức của con người hiện thực là
phản xạ có điều kiện. Dưới góc độ Tâm lý học,thì theo ông thái độ là một trong
những hình thức thể hiện tâm lý người, là điều kiện khái quát bên trong các hành
động của con người. Ông quy nhu cầu, hứng thú, tình cảm, tính cách, sự đánh giá..
đều là thái độ. Ông coi tất cả các dạng hoạt động tâm lý hiểu theo nghĩa rộng có thể
xem là một dạng nào đó của thái độ như vậy điểm hạn chế của thuyết này chính là
chỗ xếp ngang hàng quan hệ xã hội với thái độ và nhận thức, xúc cảm ý chí, thị hiếu,
nét tính cách.
Nhà tâm lý hoc V.A. Iadov đã phát triển khái niệm tâm thế, đưa ra lý thuyết hệ
thống định vị điều chỉnh hoạt động xã hội của cá nhân , khắc phục các sai lầm của
các phương pháp nghiên cứu thái độ và tâm thế như chỉ nghiên cứu trong phòng thí
nghiệm, trong nhóm nhỏ. Thuyết này đã đưa ra cách tiếp cận hệ thống vào các công
trình nghiên cứu thái độ . Theo thuyết này thì hành vi xã hội của cá nhân dược điều
chỉnh bởi hệ thống định vị (Tâm thế, tâm thế xã hội , xu hướng cơ bản của hứng thú,
hệ thống định hướng giá trị). Hệ thống định vị này được xếp theo thứ bậc từ thấp đến
cao, điều chỉnh hành vi xã hội của cá nhân tương ứng với các điều kiện hoạt động

ngày càng được mở rộng và ổn định như các định vị ở thứ bậc cao hơn sẽ quy định
các định vị ở thứ bậc thấp hơn.

Gần đây khi nghiên cứu nhân cách như một phạm trù cơ bản của tâm lý
học, các nhà tâm lý học Xô viết đã đề cập tới thái độ sử dụng chủ quan của
nhân cách, sự hình thành thái độ chủ quan qua hoạt động và giao tiếp.

-9-




Việt Nam cũng có các công trình nghiên cứu về thái độ . Thái độ là khái

niệm tâm lý khó xác định và gây nhiều tranh cãi, do đó cũng là khái niệm được quan
tâm nghiên cứu nhiều. Các tác giả đã nghiên cứu theo nhiều quan điểm và hướng đi
khác nhau nhằm : chỉ ra cấu trúc tâm lý của thái độ , mối quan hệ giữa thái độ và
hành vi, những yếu tố tác động tới thái độ,tuy nhiên phần lớn lại tập trung nghiên
cứu thái độ học tập của học sinh , sinh viên.Những nghiên cứu này đã xác định được
một số quan hệ cơ bản về vị trí vai trò của thái độ trong hoạt động dạy và học tại các
nhà trường . Đồng thời cũng đã khẳng định thái độ học tập là bộ phận cấu thành ,
cũng là thuộc tính cơ bản của ý thức học tập , là yếu tố qui định tính tự giác học tập
và biểu hiện bằng cảm xúc và hành động tương ứng. Có thể kể tới một số đề tài
nghiên cứuvề thái độ như :

+

Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Hoa :"Nghiên cứu thái độ đối

với việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên cao đẳng mầm non Thanh

Hoá." Trong luận án , ngoài việc chỉ ra thái độ của sinh viên đối với việc rèn
luyện nghiệp vụ sư phạm , tác giả đã làm rõ các mối quan hệ của thái độ và các
thuộc tính tâm lí khác của nhân cách như : ý thức , nhu cầu , hứng thú ..... và
đặc biệt là với hoạt động.
+

Tác giả Lê Ngọc Lan đã có nghiên cứu về :"Quan hệ giữa khả năng tự

đánh giá phù hợp của học sinh với thái độ học tập và động cơ hoạt động."Trong
đó tác giả nêu lên mối quan hệ chặt chẽ giữa khả năng tự đánh giá năng lực với
thái độ học tập. Khả năng đánh giá đúng sẽ dẫn tới một thái độ và động cơ học
tập đúng đắn. Thái độ , quan niệm của gia đình đối với việc học tập của con
cũng có ảnh hưởng nhiều tới thái độ và động cơ học tập.
+

Luận văn thạc sỹ của tác gỉa Lâm Thị Sang nghiên cứu :" Thực trạng thái độ

đối với việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên cao đẳng sư phạm Bạc Liêu."
Bên cạnh việc chỉ ra thực trạng thái độ của sinh viên với việc rèn luyện

-10-


nghiệp vụ sư phạm, tác giả đã tập hợp được nhiều quan hệ khác nhau về thái
độ , chỉ ra được những đặc điểm , chức năng của thái độ.Ngoài ra còn có một
số nghiên cứu về thái độ học tập như :Tác giả Lê Thị Bừng với đề tài :"Tự
đánh giá thái độ học tập của sinh viên sư phạm trong điều kiện có phân cấp học
bổng'. Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Đức Hưởng ."Nghiên cứu thái độ
học tập của sinh viên đại học an ninh nhân dân"." Nghiên cứu về tính tích cực
nhận thức như là thái độ" của tác giả Nguyễn Ngọc Bảo . Ngoài ra còn có

nghiên cứu :"vận dụng các chỉ báo của Frank nghiên cứu tự đánh giá thái độ
học tập môn Toán của sinh viên sư phạm" của tác giả Đào Lan Hương.
Về phương pháp nghiên cứu thái độ , tác giả Trần Trọng Thuỷ có
nghiên cứu :" Phương pháp đo thái độ ,tinh thần trách nhiệm đối với lao động,
sự thống nhất về định hướng giá trị của tập thể học sinh"
Tóm lại: Đã có một số công trình nghiên cứu về thái độ ở Việt Nam,
nhưng phần lớn tập trung vào nghiên cứu thái độ học tập của học sinh ,sinh
viên . Điều đáng lưu ý ở đây là chưa có nghiên cứu nào đề cập tới thái độ đối
với hiện tượng sử dụng ma tuý nói chung và của trẻ em lang thang nói riêng.
Vì vậy việc chọn đề tài nghiên cứu thái độ đối với việc dùng ma tuý ở trẻ lang
thang là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn đặc biệt trong điều kiện hiện nay .
1.1.2 Nghiên cứu về vấn đề trẻ lang thang .
Đề tài của luận văn là nghiên cứu của trẻ lang thang trên địa bàn Hà nội
đối với vấn dề sử dụng ma tuý, do đó ngoài việc tìm hiểu về lịch sử nghiên cứu
thái độ, cũng cần làm rõ các nghiên cứu vấn đề trẻ lang thang và thái độ của trẻ
lang thang đối với việc sử dụng ma tuý.
Đã có rất nhiều nghiên cứu, khảo sát về vấn đề trẻ lang thang của các tổ chức
phi chính phủ như UNICEF. Plan.. của các cơ quan làm công tác chăm sóc, bảo vệ
trẻ em của các viện nghiên cứu như viện nghiên cứu Thanh niên... Như

-11-


nghiên cứu về đặc điểm của trẻ lao động sớm tại Thành phố Hồ Chí Minh của
Viện nghiên cứu Thanh niên, trong đó đã đề cập tới nguyên nhân, hoàn cảnh,
kinh tế xã hội và điều kiện lao động của trẻ lang thang lao động sớm.
Nghiên cứu về hành vi giao tiếp của trẻ lang thang do nhóm tác giả Viện
Khoa học Giáo dục kết hợp với Uỷ ban chăm sóc – bảo vệ trẻ em Hà Nội tiến
hành. Nghiên cứu này đã chỉ ra những đặc điểm trong quan hệ giao tiếp của trẻ
lang thang. Trên cơ sở đó đề ra những nội dung và biện pháp giáo dục hành vi

giao tiếp có văn hoá cho trẻ lang thang. Từ nghiên cứu này tác giả Hoàng Bích
Hường – chuyên viên UB bảo vệ chăm sóc trẻ em Hà Nội đã phát triển và bảo
vệ thành công Luận án tiến sĩ của mình.
Khảo sát về thực trang trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội do Unicep
tài trợ kinh phí năm 1998. Khảo sát này đã đợc tổng kết số trẻ, độ tuổi, trình độ
văn hoá, quê quán, giới tính, nghề nghiệp…. của trẻ lang thang tại địa bàn Hà
Nội.
Nghiên cứu xã hội học về tình trạng trẻ em lang thang sử dụng ma tuý
do Viện Nghiên cứu thanh niên tiến hành.
Khảo sát về tình trạng trẻ em lang thang và lao động sớm trên địa bàn Quận
Hai Bà Trưng do UB dân số – gia đình và trẻ em Quận Hai Bà Trưng thực hiện với
sự giúp đỡ về kinh phí của tổ chức nhân đạo Quốc tế Plan International . Khảo sát
này đã chỉ ra thực trạng về số trẻ em lang thang và lao động sớm trên đại bàn Quận
Hai Bà Trưng ( về độ tuổi, giới tính, trình độ văn hoá, nghề nghiệp).

Tuy nhiên, các nghiên cứu này chủ yếu chỉ tập trung tìm hiểu nguyên
nhân để trẻ đi lang thang , đặc điểm tâm lý của trẻ lang thang và tình trạng trẻ
lang thang phải lao động sớm hoặc có nguy cơ vướng vào các TNXH chứ chưa
đề cập tới thái độ của trẻ lang thang đối với vấn đề sử dụng ma tuý.

-12-


1.2.TÌNH TRẠNG TRẺ LANG THANG VÀ TRẺ LANG THANG TRÊN ĐỊA
BÀN HÀ NỘI CÓ SỬ DỤNG MA TUÝ .

1.2.1.Một số vấn đề khái quát về tình hình trẻ lang thang trên địa
bàn Hà Nội .
Khái niệm trẻ lang thang thường được coi là những trẻ em phải kiếm
tiền bằng các hoạt động thường xuyên trên đường phố như đánh giày , bán

báo , nhặt rác ...trẻ lang thang là hậu quả của sự phân hoá giàu nghèo và quá trình đô
thị hoá nhanh chóng .Thực trạng trẻ lang thang ở nước ta ngày càng tănng với tốc độ
chóng mặt . Năm 1996 cả nước có 14.596 trẻ lang thang , tới năm 1997 đã có 16.263
em và tới năm 2000 đã có khoảng 50 000 trẻ lang thang . Số trẻ lang thang chủ yếu
tập trung ở những thành phố lớn .Theo số liệu

khảo sát của Bộ lao động thương binh và xã hội và UB Bảo vệ và chăm sóc trẻ
em thành phố Hà Nội thì số trẻ lang thang tại Hà Nội ngày càng tăng theo cấp
số nhân . Năm 1996 cả thành phố có 1054 em thì năm 1997 đã là 2772 em , và
tới năm 1999 là 4558 em và năm 2000 con số này đã là khoảng 6000 em .
Qua khảo sát số trẻ lang thang kiếm sống do nghèo đói là 46,2% ,do bố
mẹ ly dị , bạn bè rủ rê , do gia đình bỏ rơi là 53,8% .Số trẻ lang thang ở Hà Nội
chủ yếu có nguồn gốc xuất thân từ các tỉnh Thanh Hoá (21%), Hà tây(14%)và
Nam Định (9,4%), trong đó có hơn 27.000em liên tục ở Hà Nội .
-Xét về cơ cấu giới và độ tuổi thì số trẻ nam gần bằng số trẻ em nữ (nam
59%, nữ 47%) và độ tuổi chủ yếu là từ 12 đến16 tuổi (65,3%).
-Xét về trình độ văn hóa , đa số các em đều có trình độ văn hoá thấp, chỉ học
hết câp I (34%), cấp II(58%)và cá biệt có 4,7% trẻ mù trữ. Tuy nhiên 80% số trẻ lang
thang đã bỏ học hẳn, số còn lại được học trong các lớp học linh hoạt.

-13-


-

Về cơ cấu nghề nghiệp có 24.2% giúp việc gia đình, có 24.2% làm

nghề đánh giầy, 11.2% bán hàng rong, 2.3% ăn xin (có giảm 3.9% so với năm
1997). Số trẻ bán hàng rong và giúp việc gia đình, bán hàng chủ yếu là trẻ gái.
-


Tỷ lệ trẻ em lang thang làm việc quá sức mình khá lớn:46.4% trẻ làm

việc trên 8 giờ/ngày, tập trung ở nhóm trẻ ngủ vỉa hè, chợ, bến xe. Tuy phải lao
động vất vả, nặng nhọc như vậy nhưng thu nhập của các em lại không cao,
khoảng 44.2% có thu nhập thấp hơn 5.000 đồng/ngày. Mức thu nhập từ 5.00010.000 đồng/ngày khoảng 41.2%, từ 10.000-20.000 đồng/ngày khoảng 6.1%,
trên 20.000 đồng/ngày khoảng 0.8%. Tuy thu nhập của các em còn quá ít ỏi
nhưng do nhu cầu sinh hoạt thấp nên đa phần các em đủ ăn và một số còn để
dành tiền giúp đỡ gia đình. Phần đông các em có thu nhập sau khi đã trừ ăn
uống còn lại 500 0đồng/ngày. Đây là mức thu nhập các em chấp nhận vì dẫu
sao cũng không thể có thu nhập như thể ở quê. Vì vậy khi hỏi nguyện vọng đã
có 94.3% trẻ em muốn ở lại Hà Nội và có việc làm ổn định.
Các em sống xa gia đình, ban ngày lang thang kiếm sống bằng đủ mọi nghề
trên đường phố, buổi tối thì ngủ ở nhà trọ, hoặc ngủ ở vỉa hè, bến tàu bến xe. Đa số
các em ngủ ở nhà trọ hay nhà chủ thuê làm việc (76.6%) số trẻ được thu hút vào các
mái ấm tình thương chỉ có 5.1%. Trẻ lang thang và trẻ vi phạm pháp luật có ranh giới
rất mỏng manh. Tuy nhiên theo thống kê, tỷ lệ trẻ em lang thang bị mắc các tệ nạn xã
hội chưa nhiều (11%) song cũng đáng báo động do môi trường sống và làm việc của
trẻ luôn tiếp xúc với các tệ nạn xã hội. Số trẻ hút thuốc lá là 8,6%, đánh cờ bạc
1,39%, sử dụng ma tuý: 0,4%, trộm cắp: 0,5%, số trẻ vi phạm pháp luật và đã bị xử
phạt như cảnh cáo, phạt tiền, giam giữ là 3,3%.
Tóm lại số trẻ lang thang ở Hà nội ngày càng gia tăng và tập trung chủ yếu là
các nghề như đánh giầy, bán báo, bán hàng rong, giúp việc. Các em đều có trình độ
văn hoá thấp và có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Các em thường trọ và

-14-


làm việc ở những môi trường có nguy cơ cao, mắc phải các tệ nạn xã hội. Mặt
khác, các em ít có cơ hội tiếp xúc với các thông tin tuyên truyền, giáo dục về

quyền trẻ em, và về các tệ nạn xâm hại đến trẻ em. Vì vậy đã có một số các em
đã tham gia vào các tệ nạn xã hội như trộm cắp, cờ bạc và đặc biệt là sử dụng,
vận chuyển, mua bán chất ma tuý.
2.2.2 Những kết luận bƣớc đầu:
-

Tình hình trẻ lang thang kiếm sống ngày càng gia tăng theo cấp số

nhân. Các trẻ em lang thang trên dịa bàn Hà Nội chủ yếu sống và làm việc
trong những môi trường có nguy cơ cao tham gia vào các tệ nạn xã hội.
-

Tình hình thanh thiếu niên sử dụng ma tuý ngày càng gia tăng và đã có

một số trẻ lang thang tham gia vào việc sử dụng, mua bán, vận chuyển ma tuý.
1.3. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.3.1 Khái niệm về thái độ:
A. Một số khái niệm về thái độ:
Ngay từ năm 1935, trong "Sổ tay Tâm lý học xã hội", G.W. Allport đã
cho rằng khái niệm thái độ là khái niệm phân biệt nhất và quan trọng nhất
trong tâm lý học hiện đại Mỹ.
Có rất nhiều định nghĩa về thái độ. Năm 1935 trong một bài viết tổng kết các
nghiên cứu về thái độ, Allport đã liệt kê ra 17 định nghĩa về thái độ trong tiếng Anh
từ "thái độ" là Attitude và được dịch là tư thế - thái độ. Trong đời thường khái niệm:
"thái độ" được dùng gần với nghĩa" mối quan hệ" dùng để dự báo hay giải thích hành
vi của con người như " thái độ học tập"," Thái độ nghiêm túc". Trong tâm lý học khái
niệm "thái độ" có một ý nghĩa chặt chẽ hơn và có lịch sử nghiên cứu khá lâu. Sự cố
gắng của các nhà tâm lý học trong các nghiên cứu về thái độ nhằm hiểu rõ, dự đoán,
kiểm soát và thay đổi thái độ, hành vi của con người. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng

thái độ là một khái niệm tâm lý học khó xác định một cách chính xác. Chính vì vậy
mặc dù được nghiên cứu nhiều, nhất là

-15-


về mặt xã hội nhưng những thang bậc đo lường thái độ còn gây ra nhiều tranh
cãi.G.W.Allport cho rằng"Thái độ là trạng thái sẵn sàng về mặt tinh thần và
thần kinh được tổ chức thông qua kinh nghiệm, sử dụng sự điều chỉnh hoặc ảnh
hưởng năng động trong phản ứng của cá nhân với tất cả các khách thể và tình
huống mà nó có mối quan hệ".
Như vậy trong định nghĩa này Allport đã quy thái độ về trạng thái sẵn
sàn g về mặt tâm thần kinh cho hoạt động của chủ thể, thái độ là sự định
hướng, chuẩn bị cho hoạt động của chủ thể? Theo quan niệm này thì một thái
độ tích cực đối với việc phòng tránh ma tuý của một cá nhân sẽ làm cho cá
nhân đó có thiên hướng tham gia tích cực vào các hoạt động mà ở đó thái độ
tích cực trên được thể hiện.
Đồng tình với quan niệm trên, Newcome cho rằng thái độ bao giờ cũng
có đối tượng cụ thể. Thái độ của một cá nhân là “thiên hướng, hành động, nhận
thức, tư duy, cảm nhận của chủ thể với khách thể có liên quan”. Định nghĩa
này cũng quy thái độ về sự sẵn sàng phản ứng.
Uznatze cũng cho rằng thái độ là trạng thái sẵn sàng hướng tới một hoạt
động nhất định, là cơ sở của tính tích cực có sự lựa chọn của chủ thể. Theo ông
thái độ là phản ứng cơ bản đầu tiên của chủ thể đối với tác động của tình
huống, trong đó chủ thể phải đặt ta và giải quyết nhiệm vụ. Thái độ là trạng
thái toàn vẹn nhất định của chủ thể, không phải là nội dung riêng nào đó của
tâm lý bị tách rời khỏi các trạng thái tâm lý khác. Theo ông, tâm thế hay thái
độ chỉ xuất hiện khi có nhu cầu và hoàn cảnh thoả mãn nhu cầu. Cá nhân chỉ
có thái độ đối với một đối tượng nào đó khi anh ta có nhu cầu với đối tượng đó
và ở trong hoàn cảnh có thể thoả mãn nhu cầu đó.

Cho dù có nhiều định nghĩa khác nhau về thái độ do sự khác nhau khi
xuất phát, nhưng những quan điểm trên đều khẳng định:

-16-


*Thái độ là trạng thái tinh thần có tính chất đặc trưng của con người.
*Thái độ thể hiện sự sẵn sàng phản ứng và là trạng thái luôn gắn bó với
một đối tượng, một tình huống nào đó có liên quan tới chủ thể.
* Thái độ có được dựa trên kinh nghiệm có trước.
*Thái độ có chức năng điều khiển, tác động tới hành vi con người.
Qua những quan điểm ,định nghĩa nói trên theo chúng tôi quan niệm thì thái
độ là trạng thái tâm lý của cá nhân về một đối tượng nào đó quy định tình sẵn
sàng biểu hiện hành động của cá nhân theo một hướng nhất định nào đó .

B. Những đặc điểm cơ bản của thái độ:
Theo các nhà tâm lý học, không phải tất cả các thái độ đều giống nhau
mà giữa các chủ thể khác nhau có thái độ khác nhau về cùng một đối tượng,
hoặc cùng một chủ thể nhưng lại có thái độ rất khác nhau về các đối tượng
khác nhau. Tuy nhiên mỗi thái độ đều có những đặc điểm quan trọng như sau:
Tính phân cực: Thái độ với cùng một đối tượng nhưng với các chủ thể
khác nhau, mỗi người có thể có thái độ hoặc tiêu cực, ủng hộ hay phản đối.
Tính mức độ: ủng hộ hay phản ứng đối nhiều hay ít. Một nhóm chủ thể
cùng có thái độ ủng hộ với đối tượng nào đó, nhưng mức độ nhiều hay ít ở một
chủ thể lại rất khác nhau.
Cƣờng độ: Có liên quan tới tính mức độ và sự thể hiện hành vi. Một
chủ thể có cường độ thể hiện thái độ tích cực đối với đối tượng càng nhiều thì
mức độ ủng hộ anh ta càng lớn.
Tính vững chắc: Nhiều nghiên cứu cho thấy các thành tố (nhận thức,
cảm xúc, hành vi) có sự liên hệ khá vững chắc với nhau về mặt trị số.

Tính nổi trội: Mỗi chủ thể có nhiều thái độ với các đối tượng khác nhau.
Tuy nhiên có những thái độ về đối tượng nào đó nổi trội hẳn lên và khiến chủ thể

-17-


đó luôn có xu hướng thể hiện thái độ đó ra ngay cả trong hoàn cảnh không có
liên quan tới đối tượng.

-18-


1.3.2. Khái niệm trẻ lang thang.
A. Khái niệm trẻ em:
Theo công ước quốc tế về quyền trẻ em được liên hợp quốc thông qua
năm 1959 thì trẻ em được quy định là “ những người dưới 18 tuổi, trừ trường
hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi vị thành niên sớm hơn”.
Luật pháp củaViệt Nam quy định trẻ em là những công dân Việt Nam dưới

16 tuổi.
a. Khái niệm trẻ lang thang: Trẻ lang thang được hiểu là trẻ em phải kiếm
sống hàng ngày trên đường phố như bán báo, đánh giầy, nhặt rác, ăn xin...

Trẻ lang thang bao gồm 3 nhóm:
• Các em bị bỏ rơi, không bố mẹ, gia đình. Các em sống theo băng
nhóm,

ăn ngủ trên đường phố.
• Có em hàng ngày kiếm sống trên đường phố, song vẫn có liên hệ
với

gia đình.
• Có em ban ngày lang thang trên đường phố, tối lại về với gia
đình.
1.3.3. Khái niệm về ma tuý và các chất gây nghiện
Ma tuý là một chât độc gây nghiện tác hại tới hệ thần kinh, tạm thời gây
kích thích tạo cảm giác sảng khoái, kích động tình dục, nhưng sau đó suy kiệt,
khép kín cảm giác, tri giác, cản trở học tập và phát triển trí tuệ... cuối cùng
thường là dẫn chủ thể tới tai nạn, phạm tội.
Các chất ma túy thƣờng gặp là :
+Heroin : hay bạch phiến , chất bột trắng kết tinh gây nghiện ,chiết xuất
từ cây thuốc phiện (morphin) đầu tiên được dùng để giảm đau và an thần . Bắt
nguồn từ chữ Hi Lạp Hero nghĩa là anh hùng ,vì nó tạo cảm giác hùng mạnh
hân hoan .


-19-


+Cocain: chất kết tinh có vị đắng lấy từ lá cây Coca có tác dụng gây tê
cục bộ và gây kích thích . Ngày nay còn được điều chế thành Crack ,một chất
ma túy có tác dụng cao hơn gây nghiện rất mạnh đang lan tràn trong khắp
thành phố Mĩ .Cocain có tác dụng mạnh ,gây nghịên hơn Heroin.
+Cần sa: lá và hoa cây cần sa được quấn hút như thuốc lá, có tác dụng gây ảo
giác ,được ưa chuộng trong giới sinh viên đại học các nước ,cũng như ở nước

ta các quầy rong đã bán thuốc hút bồ đà cho học sinh phổ thông và cả trẻ nhỏ
dưới 15 tuổi .
+Bụi thiên thần: tiếng lóng của Phecyclidine, một loại an thần dùng cho
gia súc và cũng dùng cho người để gây ảo giác .
+LSD: viết tắt của Lyergic Acia Điethylamie, là một chất kết tinh cho

cảm giác lâng lâng rất mạnh ,gây ảo giác và tâm thần hoang tưởng .
Các chất ma túy trực tiếp hoặc gián tiếp gây hại cho não và thần kinh ,
riêng Methadone ,chất cùng họ với Heroin còn gây tác hại cho xương ,tủy
xương gây tình trạng suy kiệt Canxy nghiêm trọng .Các chất ma túy có tác
dụng gây nghiện rất mạnh , chỉ dùng một vài lần đã có thể mắc nghiện và rất
khó cai . Một số thuốc an thần, giảm đau ,gây ngủ ,xoa dịu lo lắng căng thẳng
thần kinh, tâm thần được sử dụng một cách phổ biến lâu dài ,hoặc lạm dụng
đều có thể mắc nghiện và gây hại không kém gì ma túy . Có một số loại còn
được

dùng

chung với ma túy để tăng cảm giác mạnh. Có thể kể như:

Valium, Diazepam, Librum, Phenobarbital, Binoctal, Imenoctal.
1.3.4 Khái niệm sử dụng ma tuý
Khi nói về việc sử dụng ma tuý người ta thường nói tới ba cấp độ như
sau : Sử dụng ma tuý với mục đích chữa bệnh theo sự chỉ dẫn kê đơn của bác
sỹ ,lạm dụng ma tuý , nghiện ma tuý .

-20-


Sử dụng ma tuý là việc dùng ma tuý với mục đích chữa bệnh, đúng liều
lượng, đúng lúc theo sự chỉ định chặt chẽ của bác sĩ. Việc sử dụng như vậy có
lợi cho sức khoẻ người dùng.
Lạm dụng ma tuý là sự sử dụng ma tuý một cách quá liều vào mục đích
tiêu khiển
Nghiện ma tuý là hiện tượng phụ thuộc cả về thể xác và tinh thần vào ma
tuý do sử dụng thường xuyên với liều lượng ngày càng tăng dẫn đến mất khả

năng kiểm soát bản thân ở người nghiện, gây hại cho cá nhân và xã hội.
Trong luận văn này chúng tôi đề cập tới việc dùng ma tuý theo nghĩa là
sử dụng ma tuý với mục đích tiêu khiển và gây nghiện .
1.4. CẤU TRÚC TÂM LÝ CỦA THÁI ĐỘ

1.4.1 Thành tố nhận thức
Nhận thức là kiến thức của cá nhân về đối tượng của thái độ, cho dù kiến
thức đó có đúng hay không.
Nhận thức bao gồm quan điểm và lòng tin của chính ta về đối tượng, cho phép
ta xác định trước mặt ta là gì. Nhận thức là một quá trình và quá trình này thường
gắn với một mục đích nào đó. Vì vậy có thể nói nhận thức là một hoạt động, và là
hoạt động phản ánh hiện thực khách quan. Hoạt động nhận thức trải qua 2 giai đoạn:
nhận thức cảm tính (cảm giác, tri giác) và nhận thức lý trí (tư duy, tưởng tượng).
Nhận thức cảm tính cho ta biết về những thuộc tính bên ngoài của sự vật. Nhận thức
lý tính cho ta biết bản chất của sự vật. Trí nhớ là quá trình trung gian giữa 2 quá trình
nhận thức. Trí nhớ lưu giữ các kết quả của cảm giác và tri giác. Nhờ đó nhận thức
phân biệt được các tác động trước và sau để có thể ứng xử thích hợp tức thì với hoàn
cảnh sống. Nhận thức đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thái độ. Có thể
nói thái độ được hình thành trên cơ sở nhận

-21-


thức đối tượng. Người ta sẽ không có thái độ đối với một đối tượng nào đó nếu
như không có những hiểu biết về đối tượng đó.
Nhận thức về thực chất là quá trình lĩnh hội ,ở đây không đơn giản là sự
tiếp nhận mà còn có cả quá trình nhận biết điều tra, khám phá ra bản chất của
vấn đề. Nhờ những tri thức có được về đối tượng mà chủ thể có cảm xúc, đánh
giá về đối tượng đó. Từ những nhận thức và tình cảm đó, chủ thể sẽ xác định
được cách ứng xử với đối tượng. Quá trình lĩnh hội này phụ thuộc rất nhiều

vào các đặc điểm nhân cách của cá nhân. Loại hình thần kinh, khả năng tư duy,
ghi nhớ tái hiện, khả năng phân tích logic của mỗi người đều khác nhau và dẫn
tới sự sâu sắc của bản chất sự vật hay chỉ là nhận thức cảm tình bề ngoài trước
cùng một sự vật hiện tượng.
Những đặc điểm khác nhau về khí chất cũng sẽ tạo nên sự khác nhau
trong hứng thú hoạt động, hứng thú tìm hiểu khám phá ra bản chất sự vật, hiện
tượng. Người có hứng thú sẽ có sự tìm tòi khám phá ra bản chất sự vật hiện
tưượng. Như vậy họ sẽ nhận thức sâu và đúng đắn hơn về sự vật, hiện tượng.
Thái độ được hình thành bởi các thông tin. Muốn có nhận thức về một đối
tượng nào đó thì chủ thể phải có những thông tin về đối tượng đó. Một người sẽ
không thể có thái độ về đối tuợng nào đó nếu người đó không biết được hoặc biết rất
ít về khách thể đó. Nếu một người chưa có hiểu biết gì về tác hại của ma tuý hoặc
chưa bao giờ được tiếp xúc với các thông tin tuyên truyền về tác hại của ma tuý thì
anh ta sẽ không có thái độ với nó. Nhưng khi anh ta được cung cấp thông tin về tác
hại của ma tuý và căn bệnh này tức là đã có nhận thức về nó, thì anh ta sẽ có thái độ
đúng trong việc quyết tâm tự ngăn cản mình không bị lôi kéo các tác động xấu của
ma tuý. Thái độ này có thể là tích cực hay tiêu cực, nhưng rõ ràng đã có sự nhận
thức, đánh giá - tức là đã có thái độ với vấn đề này.

-22-


Đối với mọi người nguồn thông tin chính thức qua các phương tiện thông tin
đại chúng có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành thái độ, dư luận xã hội cũng như
thay đổi hành vi. Những thông tin cung cấp cho chủ thể sự nhận thức về khách thể,
từ đó xuất hiện những tình cảm, sự đánh giá, có định hướng ban đầu vào khách thể
và từ đó có thái độ tích cực hay tiêu cực. Tác động của thông tin tới việc thay đổi thái
độ và hành vi của mỗi cá nhân phụ thuộc rất nhiều vào nguồn thông tin ,cách thức
mà nó được truyền đi cũng như đối tượng thông tin


.......nhiều người nhất trí cho rằng các thông tin được thiết kế cho các nhóm đối
tượng nhất định thường là có hiệu quả hơn so với khi nó dành cho cá nhóm đối
tượng chung chung .Để có thái độ với việc sử dụng ma tuý, nhóm trẻ lang
thang trên địa bàn Hà Nội có thể sử dụng những nguồn thông tin sau:
• Nguồn thông tin phổ thông đại chúng (báo, đài, ti vi)


Nguồn thông tin tuyên truyền, cổ động (tờ rơi, áp phích, panô quảng

cáo, các buổi tuyên truyền).
• Nguồn thông tin cá nhân (gia đình, bạn bè, người quen)
• Nguồn thông tin kinh nghiệm thực tế (cá nhân đã sử dụng ma
tuý)
Từ các nguồn thông tin, cá nhân có nhận thức rõ hơn về việc sử dụng ma
tuý và có thái độ đối với việc sử dụng ma tuý.
1.4.2.Thành tố xúc cảm, tình cảm
Xúc cảm, tình cảm là một hình thức đặc thù của sự phản ánh hiện thực khách
quan vào trong não con người qua các thể nghiệm biểu hiện thái độ của chủ thể đối
với các sự vật và hiện tượng của hiện thực xung quanh đối với cái mà họ nhận thức
và hành động. Xúc cảm và tình cảm đều là những thể nghiệm có liên quan qua lại
mật thiết, song giữa xúc cảm và tình cảm có những điểm khác nhau.

-23-


×