Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT QUA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.71 KB, 27 trang )

TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN KHÔNG
DÙNG TIỀN MẶT QUA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về thanh toán không dùng tiền mặt qua NHTM
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về thanh toán không dùng tiền mặt
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ thanh toán chi trả lẫn nhau phải dùng
hình thức tiền tệ, vì vậy, thanh toán tiền tệ là một yêu cầu khách quan, là điều cần thiết
phục cho quá trình tái sản xuất xã hội. Thanh toán tiền tệ được thực hiện dưới hai hình
thức là thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt. Thanh toán bằng
tiền mặt là việc chi trả trực tiếp bằng tiền mặt trong các quan hệ thanh toán thu chi giữa
nhân dân với nhau, giữa các xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cơ quan Nhà nước với nhân
dân…. Thanh toán bằng tiền hợp với vai trò của tiền tệ làm vật môi giới trong quá trình
lưu thông. Sau khi xuất chuyển hàng hoá hay cung ứng dịch vụ cho người mua, người
bán nhận được tiền ngay và quá trình thanh toán cũng chấm dứt ở đó. Nhưng khi sản
xuất và trao đổi hàng hoá phát triển đến một trình độ cao hơn, thì việc thanh toán trực
tiếp bằng tiền mặt không còn tỏ ra là một phương thức duy nhất nữa, lúc đó nó đòi hỏi
một phương thức hiện đại hơn, bên cạnh đó với sự phát triển vượt bậc của hệ thống
Ngân hàng, các dịch vụ, các công cụ thanh toán đã được Ngân hàng nghiên cứu đưa ra
để khách hàng lựa chọn cho mình một hình thức thanh toán thích hợp thay cho thanh
toán bằng tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt phát sinh từ đó. Thanh toán không
dùng tiền mặt là phương thức thanh toán "phi tiền mặt" thực chất là dùng các công cụ
khác để thay thế tiền mặt trong thanh toán.
Thanh toán không dùng tiền mặt là cách thức thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ
không có sự xuất hiện của tiền mặt mà vẫn được tiến hành bằng cách trích tiền từ tài
khoản của người chi trả chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng hoặc bằng cách bù
trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán
về mặt bản chất thì TTKDTM phản ánh sự vận động của vật tư hàng hoá, dịch vụ lưu
thông. Sự phát triển rộng khắp của TTKDTM trong nền kinh tế thị trường hiện đại là
yêu cầu tất yếu của sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế hàng hoá, do kinh tế hàng hoá
phát triển mạnh, khối lượng hàng hoá, dịch vụ trao đổi lớn, tất yếu phải có cách thức trả
tiền thuận tiện và an toàn hơn.
Các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, đoàn thể, công dân Việt Nam và nước ngoài


sống và hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam gọi chung là đơn vị và cá nhân có quyền lựa
chọn cho riêng mình Ngân hàng để mở tài khoản và thực hiện giao dịch phục vụ cho
nhu cầu của mình, các đơn vị và cá nhân có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng được gọi
chung là chủ tài khoản. Nếu như trong thanh toán sử dụng tiền mặt thì chỉ có sự tham
gia của người mua và người bán thì trong phương thức thanh toán không dùng tiền mặt
thì chủ thể tham gia còn bao gồm cả Ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác cung ứng
dịch vụ thanh toán.
1.1.2. Sự cần thiết của thanh toán không dùng tiền mặt
NHTM là Ngân hàng kinh doanh tiền tệ nhằm mục tiêu cơ bản là lợi nhuận, vì
vậy, nên mạng lưới Ngân hàng rộng khắp để đáp ứng nhu cầu tiền tệ - tín dụng và thanh
toán của nền kinh tế hàng hoá phát triển rộng khắp quốc gia và vươn ra thế giới. Nhìn
lại lịch sử hình thành ban đầu của Ngân hàng, chúng ta thấy dịch vụ ban đầu của Ngân
hàng mà cung cấp là dịch vụ quản lý vốn cho khách hàng, bên cạnh đó Ngân hàng còn
đảm bảo thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn thuận tiện cho khách hàng, do đó
tạo được sự tín nhiệm cho khách hàng, và Ngân hàng đã thu hút được nguồn vốn quan
trọng nhất cho hoạt động của mình. Ngân hàng là trung gian thanh toán cho khách hàng
làm cho quá trình lưu thông hàng hóa được tiến hành một cách có hiệu quả. Nền kinh tế
ngày càng phát triển thì tần số giao dịch ngày càng tăng và diễn ra nhanh; khối lượng
tiền tệ ngày càng nhiều, phạm vi đã mở rộng ra tận thế giới. Trong điều kiện đó các
doanh nghiệp không thể thanh toán trực tiếp với nhau mà cần có sự tham giam của
Ngân hàng, chính vì vậy Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán trong nền kinh tế.
Tiền mặt là phương tiện thanh toán không thể thiếu, song ngày nay thanh toán
dùng tiền mặt không còn là hình thức thanh toán tối ưu trong các giao dịch thương mại
dịch vụ nữa, đặc biệt là các giao dịch có giá trị và khối lượng lớn, trước đây trong nền
sản xuất hàng hoá còn nhỏ lẻ, khối lượng hàng hoá ít thì việc thanh toán sử dụng tiền
mặt là rất thuận tiện, nhưng trong nền kinh tế thị trường hiện nay sản xuất hàng hoá
phát triển ở trình độ cao, khối lượng hàng hoá vô cùng lớn, việc trao đổi hàng hoá đa
dạng và trên diện rộng, các hoạt động giao dịch thương mại, dịch vụ hàng hóa ngày nay
diễn ra mọi lúc, mọi nơi, vượt cả giới hạn về khoảng cách thì hình thức thanh toán bằng
tiền mặt không còn phù hợp nữa.

Xét trên nhiều góc độ, khi hoạt động thanh toán trong xã hội còn phổ biến bàng
hình thức tiền mặt nhất là trong thanh toán các khoản có giá trị lớn có thể dẫn đến một
số bất lợi như:
• Chi phí của xã hội để tổ chức hoạt động thanh toán (như chi phí của chính phủ cho việc
in ấn, chi phí vận chuyển, bảo quản, kiểm, đếm tiền của hệ thống ngân hàng, các chủ
thể tham gia giao dịch) là rất tốn kém.
• Việc thực hiện giao dịch thanh toán bằng tiền mặt với khối lượng lớn dễ bị các đối
tượng phạm pháp lợi dụng để gian lận, trốn thuế, trì hoãn hoặc không thực hiện nghĩa
vụ trả nợ đối với ngân hàng hoặc chủ nợ.
• Vấn đề an ninh trong thanh toán, bảo quản, vận chuyển tiền luôn luôn tiềm ẩn nhiều
nguy hiểm.
• Sử dụng nhiều tiền mặt trong giao dịch thanh toán của xã hội sẽ là môi trường thuận lợi
cho tội phạm lưu hành tiền giả, đe doạ trực tiếp tới lợi ích của các tổ chức, cá nhân và
tình hình an ninh quốc gia.
Các bất lợi và rủi ro trên đây là vấn đề xảy ra với bất kỳ quốc gia nào, song với
các nước mà thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến thì trong xã hội tình hình sẽ càng
phức tạp hơn và khó kiểm soát hơn. Mặt khác, khi nền kinh tế càng ngày càng phát triển
cả về chất lượng và số lượng thì việc thanh toán bằng tiền mặt không còn đủ khả năng
đáp ứng được nhu cầu thanh toán của toàn bộ nền kinh tế nữa. Từ thực tế đó thì đòi hỏi
phải có sự ra đời của một phương thức tiên tiến và hiện đại hơn để có thể đáp ứng được
nhu cầu thanh toán ngày càng cao của xã hội, do vậy, sự ra đời của phương thức thanh
toán không dùng tiền mặt là tất yếu.
1.1.3. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt
TTKDTM được tổ chức thành một hệ thống thống nhất, trong hệ thống này thì
Ngân hàng là một trung tâm thanh toán. Mọi hoạt động trao đổi về hàng hóa và dịch vụ
đều được kết thúc bằng thanh toán, quan hệ thanh toán liên quan đến mọi hoạt động
trong xã hội, vì vậy, việc tổ chức tốt công tác thanh toán đặc biệt là TTKDTM có ý
nghĩa kinh tế rất lớn, ý nghĩa này được thể hiện qua các mặt sau:
TTKDTM góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. Ta biết
rằng thanh toán vừa là khâu mở đầu và cũng là khâu kết thúc của một chu kỳ sản xuất

kinh doanh, do vậy nếu tổ chức tốt công tác thanh toán sẽ góp phần tăng nhanh sự vận
động của vật tư, tiền vốn giúp cho các doanh nghiệp thu hồi được vốn nhanh để phục
vụ cho chu kỳ sản xuất sau, cũng tức là phục vụ cho quá trình tái sản xuất không ngừng
phát triển. Nhờ công tác thanh toán không dùng tiền mặt mà các khách hàng ở xa vẫn có
thể thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ nhanh chóng thay vì phải mất nhiều thời gian để
vận chuyển tiền mặt, có thể nói thanh toán không dùng tiền mặt đã rút nhanh vòng quay
vốn của khách hàng.
Thúc đẩy hoạt động thanh toán trong nền kinh tế với những ưu điểm như: an toàn,
nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí. Phương thức thanh toán không dùng tiền mặt
ra đời đã làm giảm được chi phí in ấn, bảo quản, vận chuyển.
Thông qua công tác thanh toán không dùng tiền mặt, Ngân hàng có thể biết được
phần nào hoạt động thanh toán của khách hàng từ đó tổng hợp số liệu để biết được hoạt
động thanh toán vốn chung cho cả nền kinh tế. Thông qua tình hình biến động số dư
trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng, Ngân hàng sẽ thu thập được những
thông tin cần thiết về tình hình kinh tế - tài chính của khách hàng như thông tin về dòng
lưu chuyển tiền tệ, doanh thu…. Từ đó, Ngân hàng gián tiếp đánh giá được tình hình
kinh doanh, tình hình tài chính, khả năng thanh toán… của khách hàng, để thực hiện
kiểm soát đồng tiền thông qua việc có các chính sách kịp thời, hợp lý đối với các quyết
định về huy động vốn, cho vay và thực hiện các dịch vụ khác của Ngân hàng.
Góp phần tạo thêm nguồn vốn đầu tư: đối với Ngân hàng thì thanh toán qua Ngân
hàng làm tăng thêm nguồn vốn vì nó sử dụng được số tiền tạm thời nhàn rỗi của khách
hàng gửi vào để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Mỗi một doanh nghiệp, cá nhân đều giữ
một lượng tiền mặt nhất định để chờ sử dụng. Nếu khách hàng gửi tiền vào ngân hàng
để thanh toán bằng chuyển khoản thì số tiền này sẽ giảm, Ngân hàng sẽ huy động thêm
nhiều nguồn vốn để đầu tư cho nền kinh tế. Như vậy, việc thanh toán qua Ngân hàng sẽ
giúp cho khả năng tạo tiền của NHTM, đảm bảo được nhu cầu thanh toán ngày càng
tăng trong nền kinh tế. Mặt khác ngân hàng thu phí dịch vụ do thực hiện nghiệp vụ
thanh toán giữa các khách hàng.
TTKDTM có vai trò làm giảm khối lượng tiền mặt, hỗ trợ cung ứng tiền mặt, điều
hoà lưu thông tiền tệ của NHNN: khối lượng tiền mặt và khối lượng tiền ghi sổ được

quyết định bởi tổng giá cả hàng hoá - dịch vụ và tốc độ lưu thông tiền tệ bình quân. Vì
vậy, sự vận động của tiền tệ trong nền kinh tế sẽ bao gồm sự vận động của tiền mặt và
thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng, tức là thanh toán không dùng tiền mặt
tăng thì lưu thông tiền mặt giảm và ngược lại, do NHNN là cơ quan duy nhất phát hành,
kiểm soát và cung ứng tiền mặt cho nền kinh tế thông qua các kênh như nghiệp vụ
thanh toán thị trường mở, tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc, từ đó điều tiết khối lượng tiền
ghi sổ tại các NHTM.
TTKDTM gắn với sự phát triển của hệ thống tài chính – tín dụng, đặc biệt là sự
phát triển của hệ thống Ngân hàng. Sự tồn tại và phát triển của hệ thống này tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và cá nhân mở tài
khoản tiền gửi và thanh toán tiền hàng dịch vụ thông qua việc trích chuyển tài khoản
trong hệ thống này.
Như vậy, TTKDTM giữ một vai trò hết sức quan trọng. Đứng trên giác độ của
ngành Ngân hàng, nó phản ánh khá trung thực trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật nghiệp
vụ của Ngân hàng, cũng như sự tín nhiệm của khách hàng. Trong nội bộ một Ngân
hàng, TTKDTM không chỉ tác động đến nghiệp vụ thanh toán mà còn tác động đến các
nghiệp vụ khác của Ngân hàng như nghiệp vụ tín dụng, nếu làm tốt công tác TTKDTM
thì sẽ thúc đẩy nghiệp vụ tín dụng phát triển và ngược lại. Đi đôi với sự phát triển kỹ
thuật tin học, ngày nay Ngân hàng hiện đại cũng chyển hướng kinh doanh bằng cách
mở rộng các dịch vụ tín dụng, chứ không chỉ là kinh doanh chênh lệch lãi suất tiền gửi
và cho vay là chủ yếu trước đây, trong đó dịch vụ thanh toán đóng vai trò trung tâm và
đặc biệt quan trọng.
1.1.4. Điều kiện để khách hàng tham gia vào thanh toán không dùng tiền
mặt
Khi tham gia vào thanh toán không dùng tiền mặt thì mọi khách hàng đều phải
thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh các quy định của Ngân hàng về các thủ tục giao dịch,
các giấy tờ thanh toán. Ngân hàng sẽ cung cấp các mẫu giấy tờ cần thiết theo nhu cầu
của khách hàng để họ có thể tham gia vào phương thức thanh toán này. Đối với các
chứng từ này thì cần được viết theo các mẫu có sẵn của Ngân hàng và phải được ghi rõ
ràng, chính xác, không được tẩy xoá, viết bằng mực không phai….

Đối với các khách hàng thường xuyên tham gia thanh toán qua Ngân hàng thì phải
có tài khoản tại Ngân hàng và phải có số dư đủ để đảm bảo thanh toán và đảm bảo duy
trì tài khoản.
1.1.4.1. Mở và sử dụng tài khoản thanh toán
Các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân sử dụng dịch vụ thanh toán (sau đây gọi
chung là khách hàng) có quyền lựa chọn Ngân hàng làm dịch vụ thanh toán để mở tài
khoản. Khi quyết định mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại các Ngân hàng, khách hàng
thường quan tâm đến các yếu tố sau:
• Thuận tiện trong giao dịch, tốc độ nhanh
• Đảm bảo an toàn tài sản
• Chi phí giao dịch hợp lý
a, Mở tài khoản
Theo thông tư số 08/TT-NH2, ngày 21/02/1994 của NHNN Việt Nam, hướng dẫn
về thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt thì việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi phải
chấp hành đúng những quy định sau:
- Đối với khách hàng là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức đoàn thể, đơn vị vũ trang:
+ Giấy đăng ký mở tài khoản do chủ tài khoản (Tổng Giám đốc, Giám đốc, thủ
trưởng đơn vị, chủ doanh nghiệp) ký tên đóng dấu trong đó phải ghi rõ:
• Tên đơn vị
• Họ tên chủ tài khoản
• Địa chỉ giao dịch của đơn vị
• Mã số thuế, giấy phép đăng ký kinh doanh của đơn vị.
• Số chứng minh thư, ngày tháng năm cấp, nơi cấp của chủ tài khoản.
• Tên NH nơi mở tài khoản
+ Bảng đăng ký mẫu dấu chữ ký để giao dịch với NH
• Chữ ký mẫu của chủ tài khoản và người được uỷ quyền
• Chữ ký mẫu của kế toán trưởng và người được uỷ quyền
• Mẫu dấu của đơn vị
- Đối với khách hàng là cá nhân
+ Giấy đăng ký mở tài khoản của chủ tài khoản, trong đó ghi rõ: Họ tên của chủ

tài khoản; Địa chỉ giao dịch của chủ tài khoản; Số, ngày tháng năm, nơi cấp chứng
minh thư của chủ tài khoản; Tên NH nơi mở tài khoản.
+ Bảng đăng ký mẫu chữ ký của chủ tài khoản để giao dịch với NH. Đối với tài
khoản là cá nhân thì không được uỷ quyền, tất cả các giấy tờ thanh toán, giao dịch với
NH buộc phải là chữ ký của chủ tài khoản.
Sau khi chấp nhận mở tài khoản cho khách hàng thì NH thông báo cho khách hàng
biết số hiệu tài khoản, ngày bắt đầu hoạt động của tài khoản.
b, Sử dụng tài khoản thanh toán
- Chủ tài khoản phải đảm bảo có đủ tiền trên tài khoản thanh toán tại thời điểm
giao dịch thanh toán phải được thực hiện, Chịu trách nhiệm về việc chi trả vượt quá số
dư Có trên tài khoản. Trừ trường hợp NH cho phép thấu chi. Ngân hàng là tổ chức tín
dụng có nhận thanh toán phải duy trì trên tài khoản tiền gửi tại NHNN số dư bình quân
không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc do NHNN quy định.
- Chủ tài khoản được toàn quyền sử dụng số dư tài khoản tiền gửi tại NH thông
qua các lệnh thanh toán phù hợp với quy định của Ngân hàng Trung Ương. Chịu trách
nhiệm về những sai sót hay hành vi lợi dụng, lừa đảo khi sử dụng dịch vụ thanh toán
qua tài khoản do lỗi của mình.
- Được hưởng lãi suất cho số tiền gửi trên tài khoản theo mức lãi suất do NH quy
định tùy theo đặc điểm của chủ tài khoản, số dư tài khoản và phù hợp với quy chế quản
lý lãi suất của NHNN ban hành trong từng thời kỳ.
- Được yêu cầu NH cung cấp các thông tin về những giao dịch và số dư trên tài
khoản của mình.
- Tuân thủ các hướng dẫn của NH nơi mở tài khoản về việc lập các lệnh thanh
toán và sử dụng các phương tiện thanh toán, thực hiện giao dịch thanh toán qua tài
khoản: sử dụng, luân chuyển, lưu trữ chứng từ giao dịch, đảm bảo các biện pháp an
toàn trong thanh toán do NH quy định.
- Chủ tài khoản được uỷ quyền cho người khác bằng văn bản sử dụng tài khoản
theo quy định của pháp luật. Người được uỷ quyền có quyền hạn và nghĩa vụ như chủ
tài khoản trong phạm vi được uỷ quyền và không được uỷ quyền lại cho người thứ ba.
- Không được cho thuê, cho mượn hoặc sử dụng tài khoản của mình cho các giao

dịch thanh toán đối với những khoản tiền đã có bằng chứng về nguồn gốc bất hợp pháp.
- Thông báo kịp thời cho NH nơi mở tài khoản khi phát hiện khi thấy sai sót,
nhẫm lẫn trên tài khoản của mình hoặc tài khoản của mình bị lợi dụng. Cung cấp thông
tin chính xác khi yêu cầu sử dụng dịch vụ thanh toán hoặc trong quá trình sử dụng dịch
vụ thanh toán qua tài khoản.
Trong trường hợp có đóng chủ tài khoản thì mọi giao dịch thanh toán trên tài
khoản chỉ được thực hiện khi có sự chấp thuận của những người đồng chủ tài khoản.
1.1.4.2. Quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng và khách hàng sử dụng dịch
vụ thanh toán
Quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng
Ngân hàng cung ứng dịch vụ thanh toán có quyền quy định khách hàng phải nộp
phí khi nhận dịch vụ thanh toán, quy định hạn mức thấu chi đối với từng khách hàng.
Yêu cầu khách hàng cung cấp các thông tin có liên quan trong quá trình sử dụng dịch vụ
thanh toán, từ chối thanh toán khi khách hàng không đáp ứng đủ để sử dụng dịch vụ
thanh toán, hoặc vi phạm nguyên tắc thanh toán.
Ngân hàng cung ứng dịch vụ thanh toán có nghĩa vụ thanh toán chính xác, kịp thời
và an toàn tài sản theo yêu cầu của khách hàng. Niêm yết công khai phí dịch vụ thanh
toán, giữ bí mật về số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng theo đúng quy định của
pháp luật. Từ chối thực hiện các giao dịch thanh toán đã có bằng chứng về nguồn gốc
bất hợp pháp. Cung cấp thông tin định kỳ hoặc đột xuất (nếu cần) cho chủ tài khoản về
số dư tài khoản và các giao dịch thanh toán trên tài khoản của chủ tài khoản.
Ngân hàng chủ động trích tài khoản của khách hàng trong các trường hợp sau:
• Các khoản nợ đến hạn, quá hạn, các khoản lãi, chi phí hợp lệ khác phát sinh trong quá
trình quản lý tài khoản và cung ứng dịch vụ thanh toán theo quy định.
• Các nghĩa vụ thanh toán theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc
chủ tài khoản phải thanh toán.
• Các trường hợp khác theo thỏa thuận giữa NH và khách hàng.
NH có trách nhiệm phát hiện và điều chỉnh kịp thời các tài khoản mở sai hoặc sử
dụng chưa chính xác. NH phải thực hiện đầy đủ, kịp thời các lệnh thanh toán, các yêu
cầu sử dụng tài khoản của khách hàng phù hợp với hoặc thỏa thuận giữa NH và khách

hàng. Kiểm soát các lệnh thanh toán của khách hàng, đảm bảo lập đúng thủ tục quy
định, hợp pháp, hợp lệ, và khớp với đúng các yếu tố đã đăng ký; cung cấp đầy đủ, kịp
thời các loại dịch vụ, phương tiện thanh toán cần thiết phục vụ nhu cầu giao dịch của
khách hàng qua Ngân hàng.
Thực hiện hạch toán theo các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trên cơ sở các chứng từ kế
toán hợp lệ, hợp pháp nhận được. Điều chỉnh các khoản mục bị hạch toán sai, hạch toán
không đúng bản chất hoặc không phù hợp với nội dung sử dụng của tài khoản theo quy
định.
Quyền và nghĩa vụ của khách hàng
Khách hàng có quyền yêu cầu ngân hàng phục vụ cung cấp thông tin về số dư tài
khoản và các giao dịch thanh toán của chủ tài khoản. Khiếu nại và đòi bồi thường thiệt
hại do ngân hàng vi phạm các thoả thuận khi thực hiện dịch vụ thanh toán (thanh toán
chậm, hoặc thanh toán không đúng số tiền, hoặc thu phí thanh toán không đúng theo
quy định). Ngân hàng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách hàng theo mức
phạt chậm trả tối đa bằng mức lãi suất quá hạn của loại cho vay cao nhất mà Ngân hàng
đang áp dụng. Số tiền phạt được tính như sau:
Số tiền phạt = Số tiền tính phạt x Số ngày phạt x Lãi suất nợ quá hạn
Nếu thanh toán chậm, số ngày phạt tính từ thời điểm kết thúc thời hạn quy định
cho hình thức thanh toán đến ngày tài khoản của khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán
được ghi có đủ số tiền.
Nếu ghi nợ sai tài khoản hoặc ghi nợ thừa số tiền thanh toán, thì số ngày phạt tính
từ thời điểm tài khoản bị ghi sai cho đến khi ngân hàng trả đủ tiền vào tài khoản của
khách hàng tính trên số tiền sai thừa.
Nếu ghi sai tài khoản hoặc ghi có thiếu số tiền thanh toán, thì số ngày phạt tính từ
thời điểm kết thúc quy định cho hình thức thanh toán đó đến khi tài khoản đúng hoặc số
tiền sai thiếu được ghi có đủ sau khi điều chỉnh sai sót, tính trên số tiền sai thiếu.
Khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán có nghĩa vụ phải trả phí đầy đủ, đúng hạn
và thực hiện đầy đủ các quy định khác của Ngân hàng. Hoàn trả Ngân hàng trong
trường hợp thụ hưởng số tiền không có căn cứ pháp luật thông qua dịch vụ thanh toán
do Ngân hàng thực hiện.

1.2. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt
1.2.1. Thanh toán bằng Séc
1.2.1.1. Khái niệm
Séc là phương tiện thanh toán do người ký phát lập dưới hình thức chứng từ theo
mẫu in sẵn, nó là một tờ lệnh vô điều kiện do khách hàng của Ngân hàng ký phát, ra
lệnh cho Ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho người
thụ hưởng.
Séc do Ngân hàng cung ứng và được thiết kế theo đúng yêu cầu của pháp luật, các
ngân hàng sẽ chọn mẫu séc riêng cho hệ thông ngân hàng của mình và đăng ký in ấn
với nhà in của NHNN, các chi nhánh sử dụng Séc để cung ứng cho khách hàng do Hội
sở chính thống nhất in ấn và phân phối. Khách hàng mở tài khoản tiền gửi tại Ngân
hàng nào thì sẽ được Ngân hàng đó nhượng Séc lại để sử dụng.
Điều kiện khách hàng được cung ứng Séc đó là: đang được sử dụng tài khoản tiền
gửi thanh toán (Current Account - AC) tại Ngân hàng; không thuộc đối tượng bị cấm sử
dụng hoặc không đang trong thời gian bị đình chỉ quyền ký phát Séc; khách hàng có
nhu cầu sử dụng Séc lần đầu hoặc khách hàng đã được cung ứng Séc của Ngân hàng
nhưng có số lượng tờ Séc chưa thanh toán ít hơn 10 tờ/ 01 tài khoản tiền gửi thanh toán.
Séc được sử dụng để thanh toán tiền hàng, dịch vụ nộp thuế, trả nợ…. hoặc rút
tiền tại các chi nhánh Ngân hàng. Trong hình thức thanh toán bằng séc, việc trả tiền do
người trả tiền khởi sướng và kết thúc bằng việc ghi số tiền trên tờ séc vào tài khoản của
người nhận tiền.
Thời hạn xuất trình của tờ séc là trong vòng 30 ngày kể từ ngày ký phát và thời
gian thanh toán séc là 6 tháng kể từ ngày ký phát séc. Nếu ngày kết thúc của thời hạn là
ngày chủ nhật hoặc ngày lễ tết thì thời hạn được lùi vào ngày làm việc tiếp theo sau
ngày chủ nhật hoặc lễ tết đó.
Quy định cho sử dụng séc: tờ séc cần phải điền đầy đủ các yếu tố, viết bằng mực
không phai, không tẩy xoá, sửa chữa, chữ ký của chủ tài khoản phải giống chữ ký đã
đăng ký với Ngân hàng; Chủ tài khoản không được ký khống trên tờ séc; Chủ tài khoản

×