Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Chính sách kích cầu của Chính phủ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.12 KB, 27 trang )

: Chính sách kích cầu của Chính phủ Việt Nam.
I. Các chính sách và cơ cấu gói kích cầu.
1. Các chính sách ngăn chặn suy giảm kinh tế.
Nhằm đối phó với khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới,
đầu năm 2009, Việt Nam đã kịp thời triển khai chính sách kích cầu. Cụ thể,
Chính phủ đã dùng quỹ tài chính lớn, trực tiếp chi cho các hoạt động kích cầu
đầu tư và tiêu dùng, chống suy giảm kinh tế, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và
an sinh xã hội.
- Ngày 15/01/2009, Chính phủ đã quyết định các phương án sử dụng khoản kích
cầu 1 tỷ USD (17.000 tỷ VND) để hỗ trợ 4% lãi suất vốn vay cho các khoản vay
ngắn hạn trong thời gian tối đa là 8 tháng, kết thúc vào ngày 31/12/2009. Đối
tượng được hưởng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, có vốn điều lệ dưới 10 tỷ
đồng, sử dụng không quá 300 công nhân, không có nợ đọng thuế và không có
nợ tín dụng quá hạn.
- Ngày 04/04/2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định cho các tổ chức,
cá nhân vay vốn trung, dài hạn và sẽ được Nhà nước hỗ trợ lãi suất tiền vay
4%/năm trong khoảng thời gian tối đa 24 tháng, với tổng số lãi hỗ trợ là 20.000
tỷ VND. Việc hỗ trợ lãi suất này được thực hiện từ ngày 01/04/2009 đến hết
ngày 31/12/2011. Gói kích cầu thứ hai này có quy mô lớn hơn, thời hạn dài hơn
(tới 2 năm), điều kiện nới lỏng hơn (doanh nghiệp và cả hợp tác xã có vốn dưới
20 tỷ đồng, sử dụng dưới 500 lao động, có thể nợ thuế và tín dụng quá hạn
nhưng có dự án phù hợp vẫn được xét cho vay) và lĩnh vực cho vay cũng được
mở rộng hơn.
- Chính phủ cũng thiết lập cơ chế bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp. Ngân hàng
Phát triển Việt Nam (VDB) là đơn vị duy nhất được giao thực hiện giải pháp
bảo lãnh tín dụng cho đối tượng là các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế. VDB có thể đảm bảo 100% khoản vay bằng USD hay VND. Những doanh
nghiệp có vốn điều lệ 20 tỷ VND tương đương 1,1 triệu USD với số lao động
sử dụng không quá 500 người mới đủ điều kiện tham gia vào chương trình này.
Doanh nghiệp không được phép có khoản nợ ngân hàng hay nợ thuế nào quá
hạn. Không giống như chương trình hỗ trợ lãi suất, VDB có toàn quyền quyết


định doanh nghiệp nào sẽ được nhận bảo lãnh tín dụng.
- Chính phủ thực hiện miễn, giảm, giãn một số loại thuế, và kéo dài thời hạn nộp
thuế xuất nhập khẩu, ước tính có khoảng 28.000 tỷ đồng để kích cầu nhờ thực
hiện chính sách giảm thuế. Giảm 50% thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với 19
nhóm mặt hàng tiêu thụ nội địa (Quyết định 16/2009/QĐ-TTg) và hoãn thu thuế
thu nhập cá nhân trong 5 tháng đầu năm 2009. Tạm hoàn 90% số thuế GTGT
đầu vào khi chưa có chứng từ và hoàn tiếp 10% khi có chứng từ thanh toán.
Giãn thời hạn nộp thuế GTGT đến 180 ngày đối với hàng nhập khẩu là thiết bị,
máy móc trong nước chưa sản xuất được, phải nhập khẩu để tạo tài sản cố định
của doanh nghiệp. Đối với thuế nhập khẩu, thực hiện giảm thuế cho nhiều mặt
hàng là nguyên liệu đầu vào và hàng tiêu dùng.
- Để thực hiện chính sách kích cầu, Chính phủ đã cho phép giảm 30% số thuế thu
nhập doanh nghiệp (TNDN) phải nộp của quý IV/2008 và cả năm 2009 của DN
nhỏ và vừa. Đồng thời, giãn thời hạn nộp thuế TNDN trong thời gian 9 tháng
của năm 2009 đối với thu nhập từ các hoạt động: sản xuất sản phẩm cơ khí là tư
liệu sản xuất, sản xuất vật liệu xây dựng, dịch vụ du lịch, kinh doanh lương
thực, phân bón,...
- Đẩy mạnh, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, đồng thời phát triển mạng lưới phân
phối, hệ thống bán lẻ, nhất là ở vùng sâu vùng xa để cung cấp vật tư và hàng
tiêu dùng thiết yếu.
- Về chính sách tài chính, tiền tệ, sẽ tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn tín
dụng cho các doanh nghiệp. Tiếp tục hạ lãi suất cơ bản và cho phép các tổ chức
tín dụng, các quỹ tín dụng nhân dân cho vay theo lãi suất thỏa thuận.
- Chính phủ sẽ điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ theo nguyên tắc linh hoạt, nhằm khuyến
khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.
2. Cơ cấu gói kích cầu 8 tỷ USD của chính phủ Việt Nam.
Gói kích cầu tương đương 8 tỷ USD được chia thành 8 phần có các giá trị
khác nhau. Cụ thể các phần của gói kích cầu này bao gồm:
Thứ nhất, hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng khoảng 17.000 tỷ đồng.
Thứ hai, tạm thu hồi vốn đầu tư xây dựng cơ bản ứng trước khoảng 3.400

tỷ đồng.
Thứ ba, ứng trước ngân sách nhà nước để thực hiện một số dự án cấp
bách khoảng 37.200 tỷ đồng.
Thứ tư, chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang năm 2009
khoảng 30.200 tỷ đồng.
Thứ năm, phát hành thêm trái phiếu Chính phủ khoảng 20.000 tỷ đồng.
Thứ sáu, thực hiện chính sách giảm thuế khoảng 28.000 tỷ đồng.
Thứ bảy, tăng thêm dư nợ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp khoảng
17.000 tỷ đồng (không phải là khoản chi).
Thứ tám, các khoản chi kích cầu khác nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế,
đảm bảo an sinh xã hội khoảng 7.200 tỷ đồng.
Như vậy, tổng nguồn lực sử dụng để kích cầu đầu tư và tiêu dùng của
Việt Nam là rất lớn, nếu tính thêm cả 17.000 tỷ đồng tăng thêm dư nợ bảo lãnh
tín dụng cho DN thì tổng giá trị các gói kích cầu của Chính phủ Việt Nam hiện
nay lên đến 160.000 tỷ đồng, tương đương 9 tỷ USD, chiếm gần 10% GDP của
Việt Nam hiện nay.
II. Tình hình thực hiện gói kích cầu
- Về các gói hỗ trợ lãi xuất.
Tính đến 24-9-2009, vốn tín dụng theo Quyết định 131 ngày 23-1-2009
của Thủ tướng (gói hỗ trợ lãi suất 4%) đã giải ngân trên 405.000 tỉ đồng (95%),
tín dụng theo Quyết định 443 (hỗ trợ lãi suất 4% cho vay trung và dài hạn) và
Quyết định 497 (hỗ trợ lãi suất cho nông nghiệp nông thôn) trên 34.000 tỉ đồng,
giải ngân tín dụng bảo lãnh qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam trên 10.000 tỉ
đồng (59%). Tổng số tiền hỗ trợ lãi suất chuyển cho các tổ chức tín dụng ước
thực hiện năm 2009 khoảng 10.000 tỉ đồng (59%).
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT), gói hỗ trợ lãi suất đã tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận lãi suất thấp, thông qua đó, hạ giá thành sản
phẩm, duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động,
tuy nhiên lại không có số liệu chứng minh cụ thể. Thực tế cho thấy đã có sự
trùng lắp về đối tượng hỗ trợ lãi suất, việc triển khai nhiều cơ chế hỗ trợ lãi suất

cùng với chính sách nới lỏng tiền tệ làm tổng phương tiện thanh toán và tín
dụng tăng ở mức cao, gây sức ép tăng lãi suất và lạm phát.
Theo các đánh giá khác nhau, có tới 80-92% số doanh nghiệp không được
hưởng chính sách ưu đãi này và tổng tín dụng ưu đãi lãi suất cũng chỉ chiếm
khoảng 80% tổng tín dụng. Mức hỗ trợ lãi suất tiền vay 4% là quá lớn, nên kéo
dài sẽ phát sinh tâm lý ỷ lại sự hỗ trợ của Nhà nước. Đến nay, hiệu quả thật sự
của gói hỗ trợ lãi suất 4% chưa được chứng minh trong khi những hệ lụy tiêu
cực của nó là rất lớn, làm “méo mó” thị trường tín dụng đang tăng trưởng quá
nóng.
Tín dụng đối với nền kinh tế ươ
́
c đê
́
n cuô
́
i tháng 10 đã tăng 33,29%,
trong khi huy động vốn chỉ tăng 25,72%. Theo dự báo của IMF, từ đầu năm
2009, tín dụng chỉ cần tăng 12,9% đã đảm bảo cho Việt Nam tăng trưởng kinh
tế khoảng 4%. Tăng trưởng tín dụng nhanh đã gây sức ép tăng lãi suất, dẫn đến
hệ quả là tăng chi phí vốn, làm tăng giá thành sản xuất, khiến việc huy động vốn
trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó khăn.
Đồ thị 3: Dư nợ cho vay kích cầu qua từng tháng năm 2009.
Nguồn CTCK Bảo Việt.
Vốn kích cầu đầu tư tư nhân ở nông thôn được thực hiện qua quyết định
497 đạt được 330,364 tỷ đồng. Tới ngày 27/8/2009 theo tài liệu báo cáo Chính
phủ tại phiên họp tháng 9 của Bộ công thương, dư nợ cho vay theo quyết định
này ước đạt 818.72 tỉ đồng, chiếm 0,21% trong tổng dư nợ. Trong khi đây là
khoản vay nhằm tăng đầu tư tư nhân trong lĩnh vực có hệ số lan toả mạnh và có
khả năng tạo nhiều việc làm.
- Về kích cầu đầu tư Chính phủ.

Vốn kích cầu đầu tư chính phủ không đạt kế hoạch mong muốn. Theo số
liệu báo cáo Chính Phủ tại phiên họp thứ 24 Uỷ ban thường vụ quốc hội, vốn
đầu tư trái phiếu chính phủ ước thực hiện trong kế hoạch 2009 là 45 nghìn tỷ
đồng, đạt 80,4% kế hoạch giao; về giải ngân, nguồn vốn trái phiếu chính phủ
dành cho giao thông thuỷ lợi tính đến nay chỉ đạt 45,1% kế hoạch, cho y tế chỉ
đạt 35,2% kế hoạch, giáo dục 60%.
Nguồn vốn ngân sách Nhà nước kế hoạch năm 2008 được kéo dài giải
ngân đến hết tháng 6-2009 thực hiện khoảng 22.000 tỉ đồng (97,8%). Vốn trái
phiếu chính phủ chuyển nguồn sang năm 2009 giải ngân đến hết tháng 8-2009
đạt 4.500 tỉ đồng (60%). Vốn phát hành bổ sung trái phiếu chính phủ, ước đến
hết tháng 9-2009 giải ngân được khoảng 10.000 tỉ đồng (50%). Ủy ban Kinh tế
Quốc hội cho biết có tới 36/40 đợt phát hành trái phiếu không thành công. Tính
đến đầu tháng 10-2009, tổng số vốn ngân sách nhà nước đã ứng trước kế hoạch
năm 2009 được hoãn thu hồi là 3.400 tỉ đồng (100%). Vốn ứng trước kế hoạch
2010-2011 cho các chương trình dự án đến ngày 30-6-2009 là 15.492 tỉ đồng;
vốn ứng trước năm 2010-2011 để bổ sung cho các dự án quan trọng cấp bách là
12.627 tỉ đồng (47%); tổng vốn ứng trước cho kiên cố hóa kênh mương, cấp bù
chênh lệch lãi suất, hỗ trợ doanh nghiệp duy trì lao động... khoảng 37.100 tỉ
đồng (99,7%).
- Về việc miễn, giảm, giãn thuế.
Tình hình thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế, theo thống kê, đến
ngày 31/8/2009 đã có trên 125.500 lượt doanh nghiệp và khoảng 937.000 đối
tượng nộp thuế thu nhập cá nhân được hưởng các ưu đãi về chính sách thuế,
trong đó có trên 36.000 doanh nghiệp được giảm 30% thuế thu nhập doanh
nghiệp, 42.000 doanh nghiệp được giãn thuế thu nhập doanh nghiệp, 47.000
doanh nghiệp được giảm 50% thuế giá trị gia tăng…
Tổng thu ngân sách được miễn, giảm, giãn đến hết 7/2009 khoảng 14.700
tỉ đồng, ước cả năm khoảng 20.000 tỉ đồng (71%), trong đó giảm, giãn thuế thu
nhập doanh nghiệp khoảng 9.900 tỉ đồng; giảm thuế giá trị gia tăng khoảng
4.470 tỉ đồng; miễn thuế thu nhập cá nhân khoảng 4.507 tỉ đồng; giảm thu lệ phí

trước bạ khoảng 1.140 tỉ đồng. Ngoài ra, giảm và giãn thời hạn nộp thuế giá trị
gia tăng đối với hàng hóa xuất nhập khẩu năm 2009 khoảng 7.000 tỉ đồng, trong
đó giảm thu do giảm thuế 50% tại khâu nhập khẩu ước khoảng 5.000 tỉ đồng;
giãn nộp thuế 180 ngày cho máy móc thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng
ước khoảng 2.000 tỉ đồng. Mặc dù thực hiện miễn giảm thuế như vậy nhưng Ủy
ban Tài chính ngân sách Quốc hội vẫn đánh giá thu ngân sách Nhà nước năm
2009 vẫn vượt khoảng 2,9% so với dự toán.
Bộ KH&ĐT đánh giá, việc thực hiện các ưu đãi về thuế là khẩn trương,
đúng đối tượng, góp phần giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh, tạo
chuyển biến tích cực cho nền kinh tế. Tuy vậy cũng không có số liệu cụ thể
chứng minh cho nhận định này.
- Về hỗ trợ đảm bảo an sinh xã hội.
Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chính sách giảm
nghèo, trong đó có chính sách hỗ trợ cho các hộ nghèo xây nhà ở, vay vốn sản
xuất, kinh doanh, cho vay học sinh, sinh viên, mua thẻ bảo hiểm y tế. Đồng
thời, chính phủ cũng triển khai công tác hỗ trợ các hộ nghèo, hộ bị ảnh hưởng
thiên tai, bị thiệt hại về gia súc, gia cầm, vật nuôi để ổn định sản xuất và đời
sống. Ngoài ra, chính phủ cũng đã tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết
30a/2008/NQ-CP của Chính phủ gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới;
tổ chức, động viên các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân hỗ trợ các huyện
nghèo thực hiện chương trình này; ứng trước vốn cho các huyện; triển khai các
chính sách mới, trong đó có chính sách cấp gạo cho hộ nghèo ở biên giới, thực
hiện mức khoán mới về bảo vệ rừng, hỗ trợ học nghề, xuất khẩu lao động và tăng
cường cán bộ cho các huyện nghèo. Hoạt động chăm sóc người có công và các
đối tượng chính sách tiếp tục được duy trì và mở rộng.
Năm 2009 tổng số chi cho an sinh xã hội ước khoảng 22.470 tỷ đồng,
tăng 62% so với năm 2008, trong đó chi điều chỉnh tiền lương, trợ cấp, phụ cấp
khoảng 36.700 tỷ đồng; trợ cấp cứu đói giáp hạt và khắc phục thiên tai 41.580
tấn gạo (riêng số gạo cứu trợ đợt đầu khắc phục hậu quả bão số 9 là 10.300 tấn).
Tổng dư nợ của 18 chương trình cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách

do Ngân hàng Chính sách xã hội thực hiện ước đến cuối năm đạt 76 nghìn tỷ
đồng, tăng 45,3% so với năm 2008. Các doanh nghiệp đã hỗ trợ 62 huyện nghèo
trên 1.600 tỷ đồng. Kết quả các nỗ lực chung đó đã góp phần ổn định và cải
thiện đời sống nhân dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
xa, các đối tượng chính sách, góp phần xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm
và giữ vững ổn định chính trị, xã hội, đặc biệt là đối với người nghèo. Tỷ lệ hộ
nghèo đến cuối năm 2009 giảm còn khoảng 11%. Tuy nhiên, tình hình suy giảm
kinh tế đã ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng giải quyết việc làm cho người lao
động. Dự kiến đến cuối năm 2009, có khoảng 1,51 triệu lượt lao động được giải
quyết việc làm, đạt 88,5% kế hoạch năm và bằng 93,2% so với thực hiện năm
2008. Số lao động đi làm việc ở nước ngoài năm 2009 ước đạt 7 vạn người,
giảm đáng kể so với con số 8,5 vạn người của năm 2008.
- Tình hình thâm hụt ngân sách.
Nới lỏng chính sách tài khóa đã dẫn tới hệ quả trực tiếp là bội chi ngân
sách lên đến 6,9% GDP chưa tính đến các khoản chi từ nguồn trái phiếu chính
phủ, các khoản Chính phủ vay về cho doanh nghiệp vay lại. Nợ chính phủ cũng
tăng mạnh từ 36,5% GDP năm 2008 lên đến 40% GDP năm 2009 và năm 2010
dự kiến khoảng 44% GDP.
III. Mức độ đáp ứng các nguyên tắc cơ bản của gói kích cầu.
1. Tính kịp thời của gói kích cầu.
Việc đánh giá tính kịp thời của kích cầu thường được dựa vào việc chính
phủ can thiệp vào nền kinh tế ngay khi có nguy cơ suy thoái, đồng thời , việc
can thiệp của chính phủ sẽ có tác động kích thích ngay tổng cầu trong thời gian
ngắn. Rất khó lượng hoá để đánh giá tính kịp thời trong việc thực hiện kích cầu.
Chính vì vậy trong bài viết này, để đánh giá tính kịp thời ta có thể dựa vào việc
so sánh thời điểm suy thoái kinh tế và thời điểm chính sách được ban hành; thời
điểm ban hành và thời điểm thực thi chính sách cũng như đem ra những nhận
định về độ tác động kích thích ngay lên tổng cầu.
Dưới đây chúng ta sẽ khảo sát tác động của khủng hoảng tài chính đến
xuất khẩu và đây là lĩnh vực nhạy cảm nhất đối với biến động trên thị trường thế

giới.
Bảng 3: Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam từ 01/2007 đến 10/2009
(đơn vị: tỷ đô la)
Tháng 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12
2007
Xuất khẩu 3.76 2.89 3.86 3.64 4.08 4.17 4.25 4.3 3.77 4.3 4.5 4.68
Nhập khẩu 4.33 3.44 4.43 4.45 5.28 4.96 5.22 5.29 4.9 5.6 6 4.33
Cán cân
thương mại
-0.57 -0.55 -0.57 -0.8 -1.2 -0.8 -1 -1 -1.1 -1.3 -2 0.35
2008
Xuất khẩu 4.91 3.33 4.83 5 5.75 6.2 6.55 6 5.27 5.04 4.8 4.67
Nhập khẩu 7.2 6.04 8.07 8.24 7.67 6.93 7.3 6.28 5.51 5.71 5.3 -
Cán cân
thương mại
-2.29 -2.71 -3.24 -3.2 -1.9 -0.7 -0.8 -0.3 -0.2 -0.7 -1 -
2009
Xuất khẩu 3.7 5.02 5.3 4.28 4.41 4.74 4.81 4.52 4.56 5.03
Nhập khẩu 3.3 4.18 5.04 5.46 5.57 5.9 6.32 5.85 6.37 6.62
Cán cân
thương mại
0.4 0.84 0.26 -1.18 -1.25 -1.16 -1.52 -1.32 -1.81 -1.59
Số liệu thống kê cho thấy xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2007 tăng
đều qua các tháng (Bảng 1), nhưng qua năm 2008, chỉ tăng đến tháng 7/2008,
sau đó giảm dần, sang năm 2009, kim ngạch xuất khẩu có tăng trong hai tháng
đầu năm nhưng vẫn chưa bằng trước lúc giảm năm 2008, cán cân thương mại
thăng dư trong ba tháng đầu năm. Số liệu về kim ngạch xuất khẩu cho thấy một
số dấu hiệu tích cực, nhưng về bản chất, việc cải thiện này chỉ là vẻ bề ngoài,
kim ngạch xuất khẩu tăng chủ yếu do xuất khẩu vàng. So với cùng kỳ năm
2008, kim ngạch xuất khẩu giảm nhanh: kim ngạch xuất khẩu trong ba tháng

đầu năm, sáu tháng đầu năm và 9 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước giảm
lần lượt là 24%, 24.4% và 20.5%.
Như vậy có thể xem thời điểm bắt đầu chị tác động của cuộc khủng
hoảng là tháng 8/2008.
Trong cuộc khủng hoảng năm 1997, Chính phủ không đánh giá đúng mức
ảnh hưởng của chính phủ đến nền kinh tế Việt Nam dẫn đến khong kịp thời đối
phó làm cho nền kinh tế, đặc biệt là xuất khẩu bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Với
cuộc khủng hoảng lần này Chính phủ đã đánh giá vấn đề rất nhanh nhạy . So
sánh với diễn biến hành động của chính phủ Mỹ trong bảng 4, có thể thấy chính
phủ Việt Nam đã nhân thức về tác động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế
Việt Nam và hoạch định chính sách nhằm giảm bớt tác động rất sớm, sớm hơn
cả Mỹ.
Bảng 4: Các hành động của Chính Phủ Mỹ và Chính phủ Việt Nam
Hành động Mỹ Việt nam
Nhận thức tác
động
17/09/2008:FED phải cho AIG vay 85 tỷ
USD để giúp công ty này không phs sản.
Ý tưởng gói kích
cầu
1-2/12/2008, Chính phủ công bố sử dụng
1 tỷ USD để kích cầu đầu tư và tiêu dùng
Đề suất kế
hoạch
03/01/2009, Tổng thống
Mỹ đề xuất kế hoạc kích
thích kinh tế
Quốc hội thông
qua kế hoạch
29/01/2009, Quốc hội Mỹ

thông qua kế hoạch kích
thích kinh tế
Bắt đầu triển
khai thực hiện
18/02/2009, Tổng thống
Mỹ ký thông qua kế hoạch
kích thích kinh tế
13/01/2009, thủ tướng ban hành quyết
định 131/QĐ-Ttg; ngày 03/02/2009
Thống đốc NHNN ban hành thông tư
02/2009/TT-NHNN triển khai gói kích
cầu lần 1
Kế hoạch cụ thể 27/11/2008, Tổng thống
Mỹ họp báo giới thiệu
chính sách kích cầu
12/5/2009, Bộ kế hoạch và đầu tư công
bố gói kích cầu có trị giá 160.000 tỷ đồng
(9 tỷ USD) bao gồm cả 17000 tỷ đồng (1

×