Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Thực trạng tình hình thu nộp BHXH ở Việt Nam trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.87 KB, 33 trang )

Thực trạng tình hình thu nộp BHXH ở Việt Nam trong thời gian qua
I. GIAI ĐOẠN TRƯỚC 1/10/1995
1.Tình hình thu nộp và quản lý quỹ BHXH do Liên đoàn Lao
động Việt Nam quản lý
Trong suốt gần 34 năm quản lý BHXH, Liên đoàn Lao động Việt
Nam thu không đủ bù chi, Nhà nước thường xuyên phải hộ trợ và đây
chính là gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước trong một thời gian dài.
Đặc điểm nổi bật của hoạt động BHXH trong giai đoạn này là tổng
thu BHXH đạt được rất thấp. Những năm trước 1987 tỷ lệ đóng
BHXH là 4,7% quỹ lương, trong đó tỷ lệ trích nộp chi trả lương hưu
chỉ là 1%, chính vì vậy tỷ trọng Ngân sách Nhà nước hỗ trợ cho chế
độ này là rất lớn. Trong thời kỳ này, phần thu dùng để chi trả cho
lương hưu luôn thấp hơn phần chi trả các chế độ BHXH tức thời (ốm
đau, thai sản...). Sau này việc nâng tỷ lệ nộp BHXH lên 15% tổng quỹ
lương thì phần dành cho chi trả lương hưu cũng đã tăng lên. Tuy vậy,
do số người được hưởng lương hưu tăng nhanh, cộng thêm vào đó là
khó khăn của nền kinh tể trong những năm bao cấp, tình trạng thiếu
việc làm diễn ra ở nhiều nơi nên kết quả thu nộp BHXH đạt được
thấp, Ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ ở mức cao, đặc biệt là từ năm
1990 với việc thực hiên Nghị định số 176/CP và 11/CP về giảm biên
chế.
Để phân tích cụ thể hơn tình hình thực tế công tác thu và quản lý
quỹ BHXH trong suốt thời kỳ trước năm 1995 khi Tổng Công đoàn
Việt Nam quản lý chia thành 3 giai đoạn sau:
- Giai đoạn từ 1962 đến 1963.
- Giai đoan từ 1964 đến 1986.
- Giai đoan từ 1987 đến tháng 9 năm 1995.
1.1. Giai đoạn 1962 - 1963
Ngày 27/12/1961 Chính phủ ban hành Nghị định số 218/CP
quyết định giao cho Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam (sau này là
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) quản lý các chế độ thu chi BHXH;


theo đó quy định mức thu BHXH là 4,7% tổng quỹ lương cán bộ công
nhân viên chức làm việc trong khu vực Nhà nước, riêng đối với công
nhân viên chức và quân nhân phục vụ trong lực lượng vũ trang thì
không thu BHXH nhưng vẫn thuộc diên hưởng các chế độ, chính sách
BHXH vì bộ phận này được Ngân sách Nhà nước đài thọ hoàn toàn.
Nguồn thu này dùng để chi trả trợ cấp cho 6 chế độ BHXH: ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, mất
sức lao động, khoản thiếu hụt sẽ được Ngân sách Nhà nước bù thiếu.
Trên cơ sở Nghị định 218/CP, Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam
đã ra quyết định số 364/CP ngày 2/4/1962 xây dựng các nguyên tắc
quản lý phân cấp thu chi các chế độ BHXH. Theo quyết định thì việc
quản lý quỹ BHXH được thực hiện ở 3 cấp quản lý:
- Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam là cấp tổng dự toán thu và
chi BHXH.
- Liên hiệp Công đoàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và
một số Công đoàn ngành là bộ phận dự toán cấp 1.
- Công đoàn cơ sở là đơn vị dự toán cấp 2.
Công tác quản lý thu chi được quy định cụ thể cho từng cấp theo
nguyên tắc cấp trên duyệt dự toán quý và năm cho cấp dưới. Việc thu
nộp BHXH từ các cấp công đoàn cơ sở lên các đơn vị dự toán cấp 1
được tính theo phương thức chênh lệch giữa số phải thu nộp với số
tạm ứng chi cho các chế độ BHXH tại các đơn vị dự toán cấp 2 theo
quy định. Cơ chế hạch toán trên đáp ứng được yêu cầu quản lý kinh
tế, phù hợp với tình hình tổ chức bộ máy và trình độ cán bộ ở các
thời điểm này và vì vậy công tác thu BHXH đã đạt được tỷ lệ khá so
với kế hoạch đề ra, ta có thể thấy điều đó qua bảng 1 sau:
Bảng 1: TÌNH HÌNH THU BHXH CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 1962 – 1963
Năm
Kế hoạch thu

Bảo hiểm xã
hội
(1000 đồng)
Số thu Bảo hiểm xã hội
(1000 đồng)
Thực hiện
so kế hoạch
(%)
Tổng số Thực thu
(Thu 4,7%)
NSNN hỗ
trợ
(1) (2) (3) (4) (5) (6)=(4): (2)
1962
1963
19.975
22.021
13.055
20.597
13.055
20.597
-
-
65,36
93,53
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Trong giai đoạn này, Ngân sách Nhà nước không phải hỗ trợ cho
việc chi trả các chế độ BHXH. Điều này là do việc thực hiên BHXH
đang ở trong giai đoạn đầu, nên việc chi trả thấp, chủ yếu là chi trả
cho những chế độ ngắn hạn. Tỷ lệ thu nộp BHXH đạt mức 65,36% và

93,53% tương ứng với các năm 1962 và 1963
1.2. Giai đoạn 1964 - 1986
Để phù hợp với yêu cầu quản lý mới theo Quyết định số 62/CP
ngày 10/4/1064 của Hội đồng Chính phủ (nay là Thủ tướng Chính
phủ) giao bớt nhiệm vụ quản lý một phần của quỹ BHXH cho Bộ Nội
vụ (sau này là Ngành lao động - Thương binh & Xã hội) với số thu 1%
trong số 4,7% quỹ lương. Trong đó, Tổng Công đoàn Lao động Việt
Nam quản lý ba chế độ BHXH ngắn hạn là: chế độ trợ cấp ốm đau, chế
độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp. Bộ Nội vụ quản lý ba chế độ BHXH dài hạn là: chế độ hưu trí,
chế độ tử tuất, chế độ mất sức lao động. Thực hiện Quyết định này,
Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam đã cùng Bộ Nội vụ ra Thông tư số
13-NV ngày 23/4/1964 hướng dẫn công tác bàn giao nhiệm vụ thu từ
quý III năm 1964 cho Bộ Nội vụ. Các khoản thu BHXH trong quý I và
quý II năm 1964 thuộc phần quản lý của Bộ Nội vụ sẽ được Tổng Công
đoàn Lao động Việt Nam bàn giao phần chênh lệch còn lại sau khi đã
trừ đi các khoản trợ cấp thuộc trách nhiệm thanh toán của Bộ Nội vụ.
Bảng 2: TÌNH HÌNH THU NỘP BHXH DO TỔNG CÔNG ĐOÀN LAO ĐỘNG
VIỆT NAM TỪ NĂM 1964 – 1986
Năm
Kế hoạch thu
Bảo hiểm xã
hội
(1000 đồng)
Số thu Bảo hiểm xã hội
(1000 đồng)
Thực hiện
so kế hoạch
(%)
Tổng số Thực thu

(Thu 3,7%)
NSNN hỗ
trợ
(1) (2) (3) (4) (5) (6)=(4): (2)
1964
1965
1966
1967
1968
1969
1970
1971
1972
1973
1974
1975
1976
1977
1978
1979
1980
1981
1982
1983
1984
1985
1986
20.806
22.692
26.000

28.030
29.721
33.086
34.151
35.779
34.398
36.216
43.290
42.376
53.650
63.684
73.402
76.082
79.160
121.474
239.499
294.693
410.261
203.315
812.900
19.915
18.590
21.149
26.294
27.364
37.044
49.310
57.639
48.659
51.946

54.180
65.884
69.199
85.764
59.019
92.112
96.547
163.417
240.878
380.303
497.857
227.547
1.050.842
19.915
18.590
21.149
23.294
21.364
25.044
29.310
30.639
31.159
34.946
39.180
42.884
47.199
64.764
73.019
79.112
81.547

127.417
219.878
310.303
445.857
208.147
940.842
-
-
-
3.000
6.000
12.000
20.000
27.000
17.500
17.000
15.000
23.000
22.000
21.000
22.000
13.000
15.000
36.000
21.000
70.000
52.000
19.400
110.000
95,72

81,92
81,34
83,10
71,88
75,69
85,82
85,63
90,58
96,49
90,51
101,20
87,98
101,70
99,48
103,98
103,02
104,89
91,81
105,30
108,68
102,38
115,74
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Trong quá trình bàn giao nhiệm vụ, Tổng Công đoàn Lao động
Việt Nam đã làm tốt nhiệm vụ hạch toán chi tiết từng khoản thu - chi
BHXH, tách từng phần thu 1% và 3,7% theo yêu cầu của Nghị định
218/CP nên việc bàn giao nhìn chung không gặp khó khăn. Trong năm
1964 Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam đã bàn giao cho Bộ Nội vụ 1
triệu đồng, với công tác chi cho ba chế độ từ khoản thu 1% tổng quỹ
lương công nhân viên chức Nhà nước. Việc thực hiện công tác thu của

Tổng Công đoàn Lao động Việt Nam đã gắn trách nhiệm chi cụ thể
cho các cơ sở được sử dụng quỹ BHXH để chi cho công tác quản lý. Vì
vậy, kết quả thu 3,7% đạt khá cao, năm thấp nhất về thu BHXH cũng
đạt 71,88% (1968) kế hoạch đặt ra, năm cao nhất đạt 115,74%
(1986) kế hoạch, bình quân cả giai đoạn (1964 - 1986) đạt 94,12% kế
hoạch thu hàng năm.
Qua bảng 2 ta có thể thấy, tình hình thu nộp BHXH so với kế
hoạch đặt ra được thực hiện khá tốt, hầu hết các năm đều đạt được ở
mức trên 90%, đặc biệt là những năm cuối thập niên 70 và đầu 80 có
nhiều năm vượt năm mức chỉ tiêu đặt ra (trên 100%). Tuy có những
năm vượt mức kế hoạch nhưng có thể thấy rõ là việc quy định tỷ lệ
đóng BHXH cho các chế độ ngắn hạn chưa hợp lý bởi những năm mà
vượt chỉ tiêu thu nộp BHXH cũng chính là những năm mà Ngân sách
Nhà nước phải hỗ trợ rất lớn. Đơn cử năm 1986 vượt mức kế hoạch
15,74% (là năm vượt mức kế hoạch cao nhất) nhưng cũng chính là
năm Ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ tới 110 triệu đồng. Thực tế này
đã đặt ra vấn đề phải thay đổi trong tỷ lệ đóng góp để giảm nhẹ gánh
nặng cho Ngân sách Nhà nước, đồng thời cần có sự tổ chức hợp lý
hơn để nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH.
1.3. Giai đoạn từ 1986 đến tháng 9/1995
Theo Quyết định số 181/HĐBT ngày 30/10/1986 của Hội đồng Bộ
trưởng, mức đóng góp vào quỹ BHXH nâng từ 3,7% lên 5% tổng quỹ
lương. Mục đích của việc tăng tỷ lệ thu BHXH nhằm giảm bớt phần
trợ cấp của Ngân sách Nhà nước cho Tổng Công đoàn Lao động Việt
Nam trong việc thực hiện các chế độ BHXH cho người lao động.
Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm đóng góp BHXH của các đơn
vị tham gia BHXH, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã có công văn
ra ngày 26/4/1989 về việc phân cấp quản lý quỹ BHXH. Trên cơ sở
công văn này, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã giao quyền chủ
động cho công đoàn cơ sở trong việc quyết định chi các chế độ BHXH.

Thông qua phân cấp quản lý tỷ lệ chi các chế độ BHXH nên đã quy
định cụ thể việc quản lý quỹ BHXH, xây dựng các định mức trích nộp
kinh phí BHXH lên công đoàn cấp trên. Hơn thế nữa, để khuyến khích
các công đoàn cơ sở trong việc thực hiện thu nộp BHXH nhanh chóng
kịp thời, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã đề ra chế độ trích
thưởng 1% số thu được để làm quỹ khen thưởng cho đơn vị cơ sở đã
thực hiện tốt công tác thu nộp BHXH. Tình hình thu BHXH trong giai
đoạn này được thể hiên qua bảng 3:
Bảng 3: TÌNH HÌNH THU BHXH HÀNG NĂM CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO
ĐỘNG VIỆT NAM TỪ NĂM 1987 ĐẾN THÁNG 9/1995
Năm
Kế hoạch thu
Bảo hiểm xã
hội
(1000 đồng)
Số thu Bảo hiểm xã hội
(1000 đồng)
Thực
hiện so
kế hoạch
(%)
Tổng số Thực thu
(Thu 5%)
NSNN hỗ
trợ
(1) (2) (3) (4) (5) (6)=(4):
(2)
1987
1988
1989

1990
1991
1992
1993
1994
9-
1995
4.354.431
22.476.380
66.328.865
68.328.865
66.545.000
21.011.9000
212.073.000
280.797.000
180.007.000
4.847.600
16.572.170
56.738.666
58.638.660
60.130.000
159.736.000
201.395.000
250.395.000
152.530.000
4.742.600
16.427.170
56.738.666
58.638.660
60.130.000

159.736.000
196.019.000
250.395.000
152.530.000
105.000
100.000
-
-
-
-
5.376.000
-
-
108,91
73,08
85,54
85,82
90,36
76,02
92,43
89,17
84,74
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng trên ta thấy, việc nâng mức thu từ 3,7% lên 5% tổng
quỹ lương trong giai đoạn này do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
quản lý đã có những kết quả bước đầu. Nếu như trong giai đoạn 1964
- 1986 Ngân sách Nhà nước thường xuyên phải cấp bù với số tiền
không nhỏ thì đến giai đoạn 1987 - 1995 sự hỗ trợ của Ngân sách
Nhà nước đã giảm, mặc dù phần trăm hoàn thành chỉ tiêu thu nộp
còn ở mức khiêm tốn. Thực tế này cho thấy, trong các giai đoạn công

tác kế hoạch thu dường như chưa sát với thực tế (năm có tỷ lệ thu
cao thì Ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ nhiều và ngược lại). Cụ thể,
năm 1987 thu BHXH đạt 108,91% kế hoạch, Ngân sách Nhà nước hỗ
trợ 105 triệu đồng trong khi đó năm 1989 thu đạt 85,54% kế hoạch
nhưng Ngân sách Nhà nước không phải hỗ trợ.
Bảng 4: TỔNG HỢP TÌNH HÌNH THU BHXH DO TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO
ĐỘNG VIỆT NAM QUẢN LÝ TỪ 1962 – 1995
Năm Thực thu Tỷ lệ thu so với chi Cân đối thu - chi
(1000 đồng) (%) (1000 đồng)
1962
1965
1970
1975
1980
1985
1990
1991
1992
1993
1994
9-1995
13.055
18.590
29.310
42.884
81.847
208.147
58.638.660
60.130.000
159.736.000

196.019.000
250.395.000
152.530.000
87,62
97,36
58,51
68,06
84,28
115,08
158,63
68,67
113,36
92,47
84,34
90,11
-1.845
-504
-20.785
-20.121
-15.267
27.283
21.673.232
-27.435.033
18.827.672
-15.970.616
-46.945.810
-16.740.891
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng 4 trên ta có thể dễ dàng nhận thấy tình hình thu BHXH
trong thời kỳ 1962 – 1995 thường không đủ bù chi; đặc biệt là những

năm 1991 và 1994 số thu chỉ đạt tương ứng là 68,67% và 84,34% so
với số chi. Kết quả trên cũng có nghĩa là trong các năm đó Ngân sách
Nhà nước đã phải chuyển sang cho chi trả các chế độ BHXH những
khoản tiền không nhỏ.

Nhận xét:
Qua các số liệu tình hình thu BHXH do Tổng Liên đoàn Lao động
Việt Nam quản lý ta có một số nhận xét sau:
- Công tác thu BHXH do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
trong thời gian dài có kết quả tương đối tốt (trong thời kỳ 1964 -
1986 đều đạt kết quả ở mức khá cao, trong đó có những năm vượt kế
hoạch đặt ra). Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận một thực tế là những
năm có tỷ lệ thu cao so với kế hoạch đề ra cũng lại là những năm
Ngân sách Nhà nước phải trợ cấp lớn do quy định về tỷ lệ đóng BHXH
trên tổng quỹ lương cho các chế độ ngắn hạn chưa hợp lý và vì vậy
việc thay đổi tỷ lệ đóng BHXH cho các chế độ trên là một thực tế
khách quan.
- Chúng ta nên ghi nhận tính chủ động của Tổng Liên đoàn Lao
động Việt Nam trong việc kiến nghị với Nhà nước về vấn đề nâng mức
thu BHXH từ 3,7% lên 5% tổng quỹ lương để bảo đảm cân đối thu -
chi cho quỹ BHXH. Kết quả thu BHXH trong giai đoạn 1987 đến
9/1995 đã được cải thiện rõ rệt thể hiện ở con số trợ cấp từ Ngân
sách Nhà nước đã giảm đi đáng kể.
2. Tình hình thu nộp và quản lý quỹ BHXH do Ngành Lao
động - Thương binh & Xã hội quản lý
Để phù hợp với mục tiêu và yêu cầu quản lý mới, ngày 10/4/1964
Hội đồng Chính phủ (nay là Thủ tướng Chính phủ) đã có Quyết định
số 62/CP giao cho Bộ Nội vụ (sau này là Bộ Lao động -Thương binh &
Xã hội) quản lý một phần quỹ BHXH, cụ thể là quản lý 3 chế độ dài
hạn:

- Chế độ hưu trí
- Chế độ tử tuất
- Chế độ mất sức lao động
Trong giai đoạn này, tỷ lệ thu nộp BHXH được quy định ở mức
thấp là 1% tổng quỹ lương, hơn nữa còn thực hiện trong một thời
gian dài (từ năm 1964 đến giữa năm 1986) vì vậy việc chi trả trợ cấp
BHXH cho ba chế độ trên thực sự trở thành gánh nặng cho Ngân sách
Nhà nước. Nhận thức được vấn đề không hợp lý trong việc quy định
tỷ lệ đóng 1% tổng quỹ lương cho các chế độ dài hạn (hưu trí, tử
tuất, mất sức lao động) và không có ý nghĩa thực tiễn trong cân đối
thu - chi và đặc biệt không nâng cao được vai trò, trách nhiệm của
các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh. Hội đồng Bộ trưởng đã
sửa đổi tỷ lệ trích nộp BHXH do Ngành Lao động - Thương binh & Xã
hội quản lý từ 1% lên 10% tổng quỹ lương, trong đó 2% dành để lại
cơ sở làm trợ cấp khó khăn cho công nhân viên chức. Như vậy, con số
chính thức mà Bộ Lao động - Thương binh & Xã hội thu là 8% tổng
quỹ lương, song trên thực tế mức thu này đạt tỷ lệ thấp hơn mà
nguyên nhân là do tình hình sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp
gặp nhiều khó khăn và do ý thức đóng BHXH của các đơn vị và doanh
nghiệp chưa cao.
Sau Đại hội VII của Đảng, đi đôi với cải cách một bước chế độ
tiền lương, chế độ chính sách về BHXH, ngày 22/6/1993 Chính phủ đã
ra Nghị định 43/CP nâng mức thu BHXH do Bộ lao động - Thương
binh & Xã hội quản lý từ 8% lên 15% tổng quỹ lương. Trong gần 32
năm quản lý 3 chế độ BHXH, Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội
thu BHXH đạt tỷ lệ thấp và ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ với số
tiền lớn, với mức trợ cấp bình quân hàng năm chiếm 74,74% so với
chi.
Thời gian Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội quản lý, tình
hình thực tế công tác thu và quản lý quỹ BHXH được chia thành 2 giai

đoạn lớn sau:
- Giai đoạn từ 1964 đến 1987
- Giai đoàn từ 1988 đến tháng 9/1995
2.1. Giai đoạn 1964 - 1987
Trong giai đoạn từ 1964 đến 1987 áp dụng mức thu 1% tổng quỹ
lương cho các chế độ: trợ cấp hưu trí, tử tuất, mất sức lao động. Khi
đi vào hoạt động ngành đã nhận bàn giao kinh phí từ Tổng Công đoàn
Lao đông Việt Nam chuyển sang là 1 triệu đồng của năm 1963 và năm
1964 đã thu được 4,418 triệu đồng. Trong 2 năm đầu thu BHXH theo
quy định của Nhà nước đã đảm bảo chi trả gần đủ cho 14.933 đối
tượng được hưởng lương hưu, chi trả trợ cấp mất sức lao động và
trợ cấp tuất cho công nhân viên chức từ trần. Trong những năm tiếp
theo, số thu từ khoản trích nộp 1% tổng quỹ lương của các đơn vị
tăng rất chậm, việc thực hiện nộp tiền BHXH theo quy định không
được chấp hành nghiêm chỉnh, đồng thời số người được hưởng các
chế độ BHXH ngày càng tăng. Chính vì vậy, phần hỗ trợ của Ngân
sách Nhà nước cũng ngày càng tăng lên. Để phân tích cụ thể hơn ta
xem xét các thời kỳ sau:
2.1.1. Thời kỳ 1964 - 1975
BHXH được thực hiện trong giai đoạn này với ý nghĩa nhằm bảo
đảm các chính sách xã hội của hậu phương lớn để thực hiện nhiệm vụ
giải phóng Miền nam thống nhất đất nước, số thu BHXH so với mức
dự kiến thu từ tổng quỹ lương đạt kết quả khá, có những năm như
1975 đạt 93,46% kế hoạch thu. Đạt được kết quả này là do Ngân sách
Nhà nước bao cấp về tiền lương, về cung cấp vật tư và tiêu thụ sản
phẩm, số thu 1% không đáng kể và được Nhà nước cho phép tính vào
chi phí sản xuất nên các đơn vị sản xuất kinh doanh đều có điều kiện
thực hiện. Ngoài ra, đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp việc
kiểm soát chi chặt chẽ, việc chấp hành các chế độ tài chính được thực
hiện nghiêm túc, các khoản chi tiền lương do Bộ Tài chính duyệt và

cấp phát theo từng khoản mục chi cụ thể nên khoản thu 1% cơ bản
đạt yêu cầu đề ra.
2.1.2. Thời kỳ 1976 - 1987
Sau khi đất nước thống nhất, Miền bắc tiếp tục thực hiện mức
thu BHXH bằng 1% tổng quỹ lương, nguồn thu này vẫn được nộp vào
quỹ BHXH của Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội. Miền nam
trong giai đoạn này thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa, về cơ bản các
doanh nghiệp quốc doanh không thực hiện việc thu nộp BHXH theo
quy định, chỉ đến những năm đầu thập kỷ 80 mới thực hiện công việc
này.
Từ năm 1981, tình hình kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn,
mức thu BHXH giảm hàng năm: năm 1981 đạt 79,65%, 1987 chỉ còn
33,18% so với kế hoạch thu BHXH. Do thu nộp BHXH đạt kết quả thấp,
trong khi đó mức trợ cấp BHXH ngày càng tăng, vì vậy năm 1976
Ngân sách Nhà nước phải hỗ trợ cho quỹ BHXH là 83,16% và đến năm
1987 mức hỗ trợ này lên tới 97,66% tổng số chi.
Trong một thời gian dài áp dụng tỷ lệ thu 1% không phù hợp nên
năm 1973 Bộ Nội vụ đã có tờ trình số 988/NV đề nghị nâng mức thu
từ 1% lên 7% tổng quỹ lương nhưng không được Nhà nước chấp
thuận vì có những quan điển cho rằng cơ quan hành chính sự nghiệp,
đơn vị kinh doanh vẫn được Nhà nước bao cấp. Ngành tài chính thì
quan niệm cho rằng chế độ BHXH như một chế độ tiền lương do Nhà
nước bảo đảm nên đã có những văn bản quy định chi BHXH theo chế
độ cấp phát dự toán hàng tháng, hàng quý như đối với cơ quan hành
chính sự nghiệp khác. Với cơ chế cấp phát kinh phí BHXH mang nặng
tính bao cấp, ỷ lại vào Ngân sách Nhà nước nên hạn chế tính tích cực
trong việc thực hiện thu BHXH của Ngành Lao động - Thương binh &
Xã hội. Tuy vậy, những tồn tại trên không thể duy trì lâu dài và đến
cuối thập kỷ 80 Nhà nước đã quyết định sửa đổi lại các quy định về
hoạt động BHXH.

2.2. Giai đoạn từ 1988 đến tháng 9/1995
Trước những tồn tại trong công tác thu BHXH, năm 1988 Chính
phủ quy định mức thu BHXH bằng 10% quỹ tiền lương do cơ quan, xí
nghiệp Nhà nước trích nộp. Tuy vậy, do cuộc sống của công nhân viên
chức gặp nhiều khó khăn nên trích lại 2% trong số 10% tổng quỹ
lương để chi trợ cấp khó khăn cho công nhân viên chức Nhà nước. Do
tình hình kinh tế Việt Nam trong những năm cuối thập kỷ 80 gặp
khủng hoảng, mức lạm phát cao vì vậy thu BHXH luôn đạt thấp hơn
so với chi. Đến năm 1993 Chính phủ phải tăng mức thu BHXH từ 8%
lên 15% quỹ tiền lương, trong đó:
- Cơ quan, xí nghiệp trích nộp vào quỹ BHXH 10% quỹ tiền lương.
- Cán bộ công nhân viên chức phải nộp BHXH là 5% tiền lương
của bản thân.
Việc quy định người lao động phải nộp BHXH từ tiền lương của
bản thân mình là một bước ngoặt trong thực hiện các chế dộ BHXH
của Nhà nước, giúp cho công tác BHXH của chúng ta có thể hoà nhập
với các nước khác trên thế giới. Tổ chức thu và quản lý thu BHXH
trong giai đoạn này được thể hiện bởi các tổ chức sau:
2.2.1. Từ năm 1988 đến tháng 6/1989
Trong thời gian này hoạt động sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp Nhà nước gặp rất nhiều khó khăn và ý thức chấp hành
nộp BHXH chưa nghiêm túc, Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội
không đủ điều kiện đôn đốc, kiểm tra thu nộp nên số thu BHXH mức
8% tổng quỹ lương đạt rất thấp. Tình hình trên đã gây ảnh hưởng rất
nhiều đến nguồn kinh phí chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH bởi
vì Bộ Tài chính chỉ thực hiện hỗ trợ phần chênh lệch sau khi đã trừ đi
kế hoạch giao cho Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội. Trước
tình hình đó Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội đã phải vay
ngân hàng với lãi suất cao dưới sự bảo lãnh của Bộ Tài chính và hậu
quả là các khoản nợ tồn đọng nhiều năm mới thanh toán được.

2.2.2. Từ tháng 6/1989 đến tháng 9/1995
Thực hiện Thông tư liên Bộ Tài chính - Bộ Lao động - Thương
binh & Xã hội số 22TT/LB, Bộ Tài chính nhận trách nhiệm thu BHXH
là 8% trên tổng quỹ lương. Mục đích của việc chuyển đổi cơ chế quản
lý thu BHXH này là nhằm gắn trách nhiệm của Bộ Tài chính trong việc
đảm bảo kinh phí chi trả các chế độ BHXH cho đối tượng được hưởng
một cách kịp thời. Chính phủ phân cấp nhiệm vụ thu BHXH cho Bộ Tài
chính như sau:
- Bộ Tài chính trực tiếp trích nộp vào quỹ BHXH số phải nộp
BHXH cho các cơ quan, đơn vị hành chính do Trung ương quản lý.
- Sở Tài chính vật giá các tỉnh, thành phố trích nộp vào quỹ
BHXH của các đơn vị hành chính sự nghiệp do địa phương quản lý.
- Các cục, các vụ quản lý thu các doanh nghiệp quốc doanh Trung
ương và địa phương đóng trên địa bàn. Từ năm 1993, Bộ Tài chính
lại giao nhiệm vụ thu BHXH cho Tổng cục thuế nhằm gắn trách nhiệm
vừa đôn đốc thu nộp thuế, vừa đôn đốc giám sát thu BHXH.
Sự thay đổi tổ chức thu BHXH như trên, đã giúp công tác thu
BHXH đạt hiệu quả cao hơn. Cụ thể, sau khi bàn giao nhiệm vụ thu
BHXH trong quý III năm 1989 Bộ Tài chính đã thực hiện tương đối tốt
công tác thu: kết quả thu cả năm đạt 85,15% kế hoạch trong khi năm
1988 Ngành Lao động - Thương binh & Xã hội quản lý chỉ đạt 40,43%
kế hoạch thu.
Bảng 5: TÌNH HÌNH THU BHXH DO NGÀNH LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH &
XÃ HỘI QUẢN LÝ TỪ NĂM 1964 ĐẾN THÁNG 9/1995
Năm
Số thu Bảo hiểm xã hội Ngân sách Nhà nước cấp
Thực thu
(1000 đồng)
So với chi
(%)

Thực cấp
(1000đồng)
So với chi
(%)
1964
1965
1966
1967
1968
1969
1970
1971
1972
1973
1974
1975
1976
1977
1978
1979
1980
1981
1982
1983
1984
1985
1986
1987
1988
1989

1990
1991
1992
1993
1994
9-1995
4.418
4.586
5.680
5.979
6.765
7.699
7.955
8.636
7.987
9.016
9.885
10.705
12.521
13.749
19.192
20.560
23.125
30.796
40.661
54.632
78.936
153.417
98.555
306.400

14.686.000
90.403.000
95.259.000
117.963.000
205.143.000
279.079.000
1.294.000.000
1.294.000.000
100,00
62,60
58,44
52,54
45,20
41,24
29,72
19,65
15,63
15,70
15,82
15,48
16,84
16,76
20,96
17,87
15,80
10,80
8,09
6,05
6,43
3,03

3,22
2,34
29,04
32,60
24,93
23,34
28,88
12,13
29,41
27,91
-
2.740
4.039
5.400
8.202
10.971
18.813
35.323
43.117
48.409
52.592
58.469
61.819
68.304
72.393
94.499
123.246
254.375
462.006
848.037

1.148.988
4.916.266
2.959.122
12.770.000
35.891.000
186.877.000
286.877.000
387.420.000
505.203.000
2.020.921.000
3.106.000.000
3.342.186.000
0,00
37,40
41,56
47,46
54,80
58,76
70,28
80,35
84,37
84,30
84,18
84,52
83,16
83,24
79,04
82,13
84,20
89,20

91,91
93,95
93,57
96,97
96,78
97,66
70,96
67,40
75,07
76,66
71,12
87,87
70,59
72,09
Qua bảng 5 ta có thể thấy, tình hình thu BHXH của Ngành Lao
động - Thương binh & Xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu chi trả cho
các chế độ BHXH mà ngành quản lý. Số thu BHXH hàng năm luôn nhỏ

×