Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

khái quát CHUNG Về BHXH Và QUỹ BHXH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.05 KB, 24 trang )

khái quát CHUNG Về BHXH Và QUỹ BHXH
I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN BHXH
1. Sự tồn tại khách quan của BHXH
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại
v.v... Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra
những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời
sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh
hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con
người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế,
không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và
mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó
khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất
thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay
bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và
khả năng tự phục vụ bị suy giảm v.v... Khi rơi vào những trường hợp này, các
nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn
tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám
chứa bệnh và điều trị ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm
sóc nuôi dưỡng v.v... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và
xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác
nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ công đồng; đi vay, đi xin hoặc
dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước v.v... Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ
động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên
phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã
phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định
để họ trang trải những nhu cu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tại nạn, thai
sản v.v... Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người
chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc
họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu
thuẫn chủ - thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện


cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều
mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và
điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà
nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất
định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra
đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ
tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách
Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp
phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi
ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và
gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và
được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo
trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày
càng lớn và nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày
càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên
được thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy BHXH ra đời
và phát triển là một tất yếu khách quan và ngày càng phát triển cùng với sự
phát triển của mỗi quốc gia, mọi thành viên trong xã hội đều thấy cần thiết
tham gia BHXH, nó trở thành quyền lợi và nhu cầu của người lao động và được
thừa nhận là nhu cầu tất yếu khách quan.
2. Quá trình phát triển của BHXH
2.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển chính sách về BHXH trên
thế giới
BHXH đã có từ lâu và thực sự trở thành hoạt động mang tính xã
hội từ đầu thế kỷ 19. Bộ luật đầu tiên về chế độ bảo hiểm được hình
thành ở Anh vào năm 1819 với tên gọi "Luật nhà máy" và tập trung
vào bảo hiểm cho người lao động làm việc trong các xưởng thợ. Vào
năm 1883, luật bảo hiểm ốm đau hình thành ở Đức. Cũng tại Đức,
một số các luật khác được hình thành, sau đó chẳng hạn luật tai nạn

lao động hình thành năm 1884; luật bảo hiểm người già và tàn tật do
lao động hình thành năm 1889. Đến nay BHXH được thực hiện trên
rất nhiều nước và trở thành một bộ phận quan trọng trong hoạt động
của Liên hợp quốc. Một tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới hiện nay.
Trong tuyên ngôn của Liên hợp quốc thông qua ngày 10 tháng 12
năm 1948 có ghi: "Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã
hội, có quyền hưởng BHXH. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các
quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do
phát triển con người".. Để thể chế hoá tinh thần đó, tổ chức lao động
quốc tế ILO (một tổ chức cơ cấu trong liên hợp quốc) đã đưa ra Công
ước 102 quy định về tiêu chuẩn tối thiểu của BHXH và những khuyến
nghị các nước thành viên về việc thực hiện các tiêu chuẩn này.
2.2. Khái quát về sự hình thành và phát triển chính sách
BHXH ở Việt Nam
Như ở phần trên, BHXH phát triển gắn liền với sự phát triển của nền kinh
tế hàng hoá, ở Việt Nam trong gần một thế kỷ cai trị, bọn thực dân Pháp hầu
như không đề ra được những gì để bảo vệ các quyền cơ bản của con người.
Không thực hiện được chế độ chính sách về BHXH đối với người lao động Việt
Nam. Ngay sau cách mạng tháng 8 thành công trên cơ sở Hiến pháp năm 1946
của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ đã ban hành một loạt các sắc
lệnh quy định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên
chức Nhà nước (có Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947; Sắc lệnh 76/SL ngày
20/5/1950 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950). Cơ sở pháp lý tiếp theo của
BHXH được thể hiện trong Hiến pháp năm 1959. Hiến pháp năm 1959 của nước
ta đã thừa nhận công nhân viên chức có quyền được trợ cấp BHXH. Quyền này
được cụ thể hoá trong Điều lệ tạm thời về BHXH đối với công nhân viên chức
Nhà nước, ban hành kèm theo Nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 và Điều lệ
đãi ngộ quân nhân ban hành kèm theo Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của
Chính phủ. Suốt trong những năm tháng kháng chiến chống xâm lược, chính
sách BHXH nước ta đã góp phần ổn định về mặt thu nhập, ổn định cuộc sống

cho công nhân viên chức, quân nhân và gia đình họ, góp phần rất lớn trong việc
động viên sức người sức của cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống xâm
lược thống nhất đất nước.
Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi
nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường.
Sự thay đổi về cơ chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về
chính sách xã hội nói chung và chính sách BHXH nói riêng. Hiến pháp
năm 1992 đã nêu rõ: "Nhà nước thực hiện chế độ BHXH đối với công
chức Nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển
các hình thức BHXH khác đối với người lao động". Trong văn kiện Đại
hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ, cần đổi mới chính
sách BHXH theo hướng mọi người lao động và các đơn vị kinh tế
thuộc các thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng góp BHXH, thống
nhất tách quỹ BHXH ra khỏi ngân sách. Tiếp đến Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ VIII cũng đã nêu lên "Mở rộng chế độ BHXH đối với
người lao động thuộc các thành phần kinh tế". Như vậy, các văn bản
trên của Đảng và Nhà nước là những cơ sở pháp lý quan trọng cho
việc đổi mới chính sách BHXH nước ta theo cơ chế thị trường. Ngay
sau khi Bộ luật lao động có hiệu lực từ ngày 1/1/1995, Chính phủ đã
ban hành Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 về Điều lệ BHXH đối với
người lao động trong các thành phần kinh tế. Nội dung của bản điều
lệ này góp phần thực hiện mục tiêu của Đảng và Nhà nước đề ra, góp
phần thực hiện công bằng và sự tiến bộ xã hội, góp phần làm lành
mạnh hoá thị trường lao động và đồng thời đáp ứng được sự mong
mỏi của đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế của
cả nước.
II. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA BHXH
1. Khái niệm BHXH
Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách xã hội quan trọng của
Đảng và Nhà nước. Chính sách BHXH đã được thể chế hoá và thực hiện theo

Luật. BHXH là sự chia sẻ rủi ro và các nguồn quỹ nhằm bảo vệ người lao động
khi họ không còn khả năng làm việc.
"Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp do
bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm do những rủi ro xã hội
thông qua việc hình thành, sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các
bên tham gia BHXH, nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao
động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội". Chính vì vậy,
đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm
hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những
người lao động tham gia BHXH.
Đồi tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động.
Tuy vậy, tuỳ theo sự phát triển kinh tế – xã hội cuả mỗi nước mà đối tượng này
có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
Dưới giác độ pháp lý, BHXH là một loại chế độ pháp định bảo vệ người lao
động, sử dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao
động và sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người
được bảo hiểm và gia đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình
thường do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp,
hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật, hoặc chết.
Quỹ bảo hiểm xã hội dành chi trả các chế độ trợ cấp và quản lý phí được
hình thành từ đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và nguồn hỗ
trợ của Nhà nước.
Quỹ BHXH được Nhà nước bảo hộ để tồn tại và phát triển. Mục
đích chính của các chế độ BHXH là trợ cấp vật chất cho người bảo
hiểm khi gặp rủi ro đã được quy định trong luật.
2. Những nguyên tắc của BHXH
2.1. BHXH là sự bảo đảm về mặt xã hội để người lao động có thể duy trì
và ổn định cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời (ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động v.v... ).

Đây là nguyên tắc đảm bảo ý nghĩa và tính chất của bảo hiểm. Nó vừa
mang giá trị vật chất, vừa mang tính xã hội. Điểm này được thể hiện trước hết
là sự bảo đảm bằng vật chất (qua các chế độ BHXH). Mức bảo đảm về vật chất
cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới yếu tố tham gia vào BHXH và vì vậy
ảnh hưởng đến sự phát triển của sự nghiệp này. Về mặt xã hội, theo nguyên tắc
này, BHXH lấy số đông bù số ít, lấy quãng đời lao động thực tế có thu nhập là
cơ số để bảo đảm cho quãng đời không tham gia vào lao động (mất sức lao
động hay cao tuổi).
2.2. BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện
Tính bắt buộc thể hiện ở nghĩa vụ tham gia tối thiểu (thời gian mức đóng
bảo hiểm v.v...). Như vậy, Nhà nước đóng vai trò tổ chức, định hướng để người
lao động và người sử dụng lao động hiểu được nghĩa vụ và trách nhiệm hợp lý
tham gia vào các quan hệ về BHXH. Điều này được thể chế hoá trong Bộ luật
Lao động và các văn bản pháp quy khác về BHXH. Tính tự nguyện có ý nghĩa
khuyến khích mức tham gia, các loạI hình và chế độ bảo hiểm, mà người lao
động có thể tham gia trên cơ sở sự phát triển của hệ thống BHXH của một số
nước trong từng giai đoạn nhất định. Nguyên tắc này cho phép BHXH có điều
kiện để phát triển và mở rộng hơn.
2.3. Xác định đúng đắn mức tối thiểu của các chế độ BHXH
Vấn đề này có quan hệ trực tiếp đến các khía cạnh có liên quan đến việc
thiết kế các chính sách và nội dung cụ thể của từng chế độ BHXH. Mức tối thiểu
của các chế độ BHXH là mức đóng định kỳ (hàng tháng), mức thời gian tối thiểu
để tham gia và được hưởng các chế độ BHXH cụ thể. Các mức tối thiểu này, khi
thiết kế thường dựa vào tiền lương tối thiểu, tiền lương bình quân, quảng đời
lao động v.v... Mặt khác, mức tối thiểu còn phải tính đến giá trị của các chế độ
BHXH mà người tham gia được hưởng. Nguyên tắc này liên quan trức tiếp đến
việc tạo nguồn, xây dựng quỹ BHXH, và khuyến khích người lao động và các
tầng lớp xã hội tham gia.
2.4. BHXH phải đảm bảo sự thống nhất và liên tục cả về mức tham gia
và thời gian thức hiện, đảm bảo quyền lợi của người lao động

Nguyên tắc này đảm bảo sự thích hợp của BHXH trong cơ chế thị
trường, trong đó sự di chuyển và biến động lao động có thể xảy ra,
thậm trí mang tính thường xuyên. Sự thay đổi nơI làm việc và thay
đổi hợp đồng lao động cả vể nội dung đối, tác v.v… tạo ra những giai
đoạn có thể vệ thời gian và không gian của quá trình làm việc. Điều
này có thể xảy ra trong cả các quan hệ về BHXH. Việc đảm bảo cho
người tham gia BHXH có thể duy trì quan hệ một cách liên tục theo
thời gian có tham gia và thống nhất về các chế độ sẽ tạo ra sự linh
hoạt cần thiết và thuận tiên cho người lao động tham gia vào các
quan hệ BHXH tốt hơn, đầy đủ và tích cực hơn. Do vậy, mức tham gia
và thời gian thực tế tham gia là căn cứ chủ yếu nhất đẻ duy trì quan
hệ BHXH đối với người lao động.
2.5. Công bằng trong BHXH
Đây là nguyên tắc rất quan trọng songcũng rất phức tạp trong chính
sách BHXH. Quan hệ BHXH được thực hiên trong một thời gian dài, cả trong và
ngoài quá trình lao động. Trong quá trình đó có thể có sự thay đổi diễn ra. Mức
và thời gian tham gia của từng người và mức hưởng lương của họ cũng có thể
không giống nhau. Việc theo rõi và ghi nhận các vấn đề này không đơn giản
nhất là trong điều kiện một hệ thống BHXH đang còn có những khác biệt về đối
tượng thành phần và khu vực tham gia ở nước ta hiện nay. Do vậy đảm bảo
công bằng trong BHXH là rất cần thiết nhưng rất khó đảm bảo tính tuyệt đối .
Sự công bằng, trước hết là phải đặt trong trong quan hệ giữa đóng góp và
được hưởng. Điều này được thể hiên trong nội dung và điều kiên tham gia
trong từng chế độ về BHXH. Xét trên góc độ khác, công bằng còn đặt trongcác
quan hệ xã hội giữa những người tham gia BHXH trong từng khu vực hay giữa
các vùng, địa bàn, ngành nghề khác nhau v.v… dựa trên nguyên tắc tính xã hội
của bảo hiểm.
Trên đây là những nguyên tắc phải tính đến khi thiết kếvà thực hiện các
quan hệ và các chế độ về BHXH.
3. Bản chất của BHXH

Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là
trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan
hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát
triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng
của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao
động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH.
Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và
người sử dụng lao động. Bên BHXH (Bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là
cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người
lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong
BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con
người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... Hoặc cũng có thể là
những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản
v.v.... Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải
những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ
tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là
chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người
lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu
này đã được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo
nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoản và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu
đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con

người và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn
Nhân quyền ngày 10/12/1948 rằng: "Tất cả mọi người với tư cách là thành
viên của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội, quyền đó được đặt cơ sở trên
sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách và
sự tự do phát triển con người".
Ở nước ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm xã
hội. Ngoài BHXH, chính sách bảo đảm xã hội còn có cứu trợ xã hội và ưu đãi xã
hội.
Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các
điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên trong xãhội, trong nhưng
trường hợp bị bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, khôngđủ khả năng để tự lo cuộc sống
tối thiểu của bản thânvà gia đình. Sự giúp đỡ này dược thể hiện bằng các
nguồn quỹ dự phòng của Nhà nước, bằng tiền hoặc hiện vật đíng góp của các tổ
chức xã hội và những người hảo tâm.
Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt về cả vật chất và tinh thần của Nhà
nước, của xã hội nhằm đền đáp công lao đối với những người hay một bộ phận
xã hội có nhiều cống hiến cho xã hội. Chẳng hạn những người có công với nước,
liệt sỹ và thân nhân liệt sỹ, thương binh,bệnh binh v.v... đều là những đối tượng
được hưởng sự đãi ngộ của Nhà nước, của xã hội, ưu đãi xã hội tuyệt nhiên
không phải là sự bố thí, ban ơn, mà nó là một chính sách xã hội có mục tiêu
chính trị - kinh tế - xã hội, góp phần củng cố thể chế chính trị của Nhà nước
trước mắt và lâu dài, đảm bảo sự công bằng xã hội.
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về đối tượng và phạm vi, song
BHXH, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội đều là những chính sách xã hội
không thể thiếu được trong một quốc gia. Những chính sách này luôn
bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau và tất cả đề góp phần đảm bảo an
toàn xã hội.
4. Chức năng của BHXH
BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia

bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc
mất việc làm. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy
cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết
tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất
khả năng lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ
thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng
quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính
chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham
gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử
dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này
dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất
thu nhập. Số lượng những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số
những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH
thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối
lại giữa những người lao động có thu nhập cao và thấp, giữa những người khoẻ
mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc v.v... Thực hiện
chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao
năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham
gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương
hoặc tiền công. Khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có
BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia
đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn
yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực
lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng
này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng
suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa
người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và

×