Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

SKKN 2016“Dạy học tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu theo định hướng phát triển năng lực học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (417.13 KB, 60 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ TĨNH


SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM
Đề tài
DẠY HỌC TÁC PHẨM CHIẾC THUYỀN NGỒI XA
CỦA NGUYỄN MINH CHÂU THEO ĐỊNH HƯỚNG
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
Người thực hiện: NGUYỄN THỊ LỆ THANH
Đơn vị: Trường THPT Lê Quảng Chí

Năm học 2015 – 2016
1


MỤC LỤC
A – ĐẶT VẤN ĐỀ ……………………………………………………….
I – Lí do chọn đề tài ………………………………………………………
II – Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………………
III – Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài ……………………………………
IV – Giả thiết khoa học của đề tài ………………………………………..
V – Phương pháp nghiên cứu …………………………………………….
VI – Đóng góp mới của đề tài …………………………………………….
VII – Cấu trúc của đề tài ………………………………………………….
B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ……………………………………………..
CHƯƠNG I – CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI……
1.Cơ sở lí luận……………………………………………………………..
1.1 Vài nét cơ bản về dạy học theo định ……………………………………
1.2. Vài nét về văn học sau 1975 và truyện ngắn ………………………...
2. Cơ sở thực tiễn…………… ……………………………………………


2. 1. Thực tế dạy học theo định hướng phát triển năng lực ………………
2.2. Thực tế dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” …………………...
CHƯƠNG II – DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN “CHIẾC THUYỀN
NGOÀI XA” CỦA NGUYỄN MINH CHÂU …………………..............
1. Phương pháp dạy học tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa ………………
1. 1. Vận dụng phương pháp dạy học theo đặc thù bộ môn………………
1.2. Vận dụng phương pháp dạy học tích cực …………………………….
2. Thiết kế bài học Chiếc thuyền ngoài xa theo …………… ……………
3. Xây dựng hệ thống câu hỏi/bài tập để dạy học ………………..............
CHƯƠNG III – THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM…………………............
1.Thực nghiệm sư phạm…………………………………………………..
1. 1. Mục đích thực nghiệm………………………………………………
1.2. Đối tượng thực nghiệm……………………………………………….
1.3. Kế hoạch thực nghiệm………………………………………………..
1.4. Nội dung dạy học thực nghiệm……………………………………….
2. Đánh giá thực nghiệm ………………………………………………….
2.1. Các tiêu chí đánh giá …………………………………………………
2.2. Phương tiện đánh giá ………………………………………………...
2.3. Kết quả thực nghiệm …………………………………………………
2.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm ……………………………………….
C – KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ……………………………………...

2

Trang
2
2
2
2
3

3
3
3
4
4
4
4
11
15
15
16
17
17
17
25
28
34
38
38
38
38
38
38
49
49
50
50
50
52



A – ĐẶT VẤN ĐỀ
I – Lí do chọn đề tài
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân đang bước vào công cuộc đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục. Với tinh thần: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu
tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng
lực của người học”; “ Tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất,
năng lực của công dân, phát hiện, bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp
cho học sinh”. Hơn nữa, chương trình giáo dục hiện hành là chương trình giáo dục
định hướng nội dung nên rất khó phát huy được vai trò trung tâm của người học.
Chính vì vậy, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực học
sinh là một nhu cầu tất yếu của thời đại.
Tuy nhiên dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh không phải giáo
viên nào cũng có thể thích nghi và đáp ứng kịp thời được. Muốn làm tốt, đạt hiệu
quả cao thì người giáo viên phải hiểu và vận dụng phương pháp đó một cách linh
hoạt qua từng bài học, từng hoàn cảnh địa phương nhất định. Chính vì vậy, tôi chọn
vấn đề này, như một kinh nghiệm nhỏ cùng trao đổi với đồng nghiệp để hiểu hơn về
phương pháp mới, để việc dạy học đạt hiệu quả cao hơn.
Đối với môn Ngữ văn, đó là môn học có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ
thống chương trình giáo dục phổ thông. Đây cũng là môn học có nhiều sự đổi mới
trong cách dạy – học – kiểm tra đánh giá. Trong định hướng phát triển chương trình
sau 2015, môn Ngữ văn được coi là môn công cụ, chính vì vậy việc xác định dạy
và học những gì, như thế nào để đáp ứng được các năng lực cho học sinh là cực kì
quan trọng. Trong hệ thống kiến thức môn Ngữ văn hiện nay, có đưa vào chương
trình văn học sau 1975, văn học giai đoạn này mang hơi thở của cuộc sống đương
đại và có sự đổi mới rất lớn. Tuy nhiên, để giúp học sinh tiếp cận được kiến thức
phần văn học này cũng gặp rất nhiều khó khăn. Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
của nhà văn Nguyễn Minh Châu là một đại diện tiêu biểu cho sự đổi mới của văn
học giai đoạn này.
Từ tiếp cận xu hướng đổi mới, đến thực tế giảng dạy tôi quyết định chọn đề

tài “Dạy học tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu theo định
hướng phát triển năng lực học sinh”. Thông qua đề tài này, tôi muốn đánh giá lại
nhận thức của mình về phương pháp dạy học mới, cách thức tổ chức dạy học mới,
cũng như trao đổi kinh nghiệm để dạy tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa nói riêng và
văn học sau 1975 nói chung được tốt hơn, hướng tới mục tiêu phát triển năng lực
cho học sinh.
II – Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực học
sinh
2. Phạm vi nghiên cứu: tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
3


III – Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
1. Mục tiêu của đề tài: Đề tài đặt ra vấn đề phương pháp để dạy học theo
hướng phát triển năng lực của học sinh. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, qua truyện
ngắn Chiếc thuyền ngoài xa người viết muốn rút ra một số kinh nghiệm để giảng
dạy phần văn học sau 1975 tốt hơn, đặc biệt hình thành được cho học sinh các năng
lực cơ bản như:
+ Năng lực giải quyết vấn đề.
+ Năng lực sáng tạo.
+ Năng lực hợp tác.
+ Năng lực tự quản bản thân.
+ Năng lực giao tiếp tiếng Việt.
+ Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mỹ.
2. Nhiệm vụ của đề tài
- Xây dựng hệ thống phương pháp để dạy tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa
của Nguyễn Minh Châu theo hướng phát triển năng lực học sinh.
- Thiết kế, tổ chức dạy học bài học Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh
Châu theo hướng phát triển năng lực

- Tiến hành thực nghiệm sư phạm
IV – Giả thiết khoa học của đề tài
Nếu những phương pháp dạy học mà tôi đã vận dụng để tổ chức dạy bài
Chiếc thuyền ngoài được sử dụng linh hoạt, tùy vào đối tượng học sinh và điều
kiện của từng địa phương, đơn vị thì sẽ góp phần thúc đẩy, nâng cao chất lượng dạy
học văn trong nhà trường THPT. Đặc biệt là hình thành cho HS các năng lực cơ bản
để đáp ứng được những yêu cầu của thực tế.
V – Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: phân tích, tổng hợp lí luận nhằm tìm
hiểu cơ sở lí luận của đề tài
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, khảo sát, thống kê, thực
nghiệm sư phạm...
VI – Đóng góp mới của đề tài
Đề tài có sự nghiên cứu các phương pháp, định hướng thiết kế giáo án, tổ
chức dạy học và hệ thống câu hỏi để dạy bài Chiếc thuyền ngoài xa nhằm phát triển
năng lực học sinh. Đây là vấn đề khá mới mẻ và còn nhiều bỡ ngỡ trong quá trình
tiếp cận xu hướng dạy học mới hiện nay. Vì vậy, đề tài sẽ là một trong những tài
liệu tham khảo tốt cho giáo viên trong việc đổi mới phương pháp dạy học.
VII – Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm những nội dung chính sau:
Chương I – Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài

4


Chương II – Dạy học tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa theo định hướng phát
triển năng lực học sinh.
Chương III – Thực nghiệm sư phạm

5



B – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
CHƯƠNG I – CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận
1.1. Vài nét cơ bản về dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh
1.1.1. Khái niệm năng lực
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên(NXB Đà Nẵng. 1998) có giải
thích: Năng lực là: “Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực
hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng
hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”
Trong tài liệu tập huấn việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định
hướng phát triển năng lực của học sinh do Bộ giáo dục và Đào tạo phát hành năm
2014 thì “Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức
kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân,… nhằm đáp ứng
hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Năng lực
thể hiện sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố (phẩm chất của người lao động, kiến
thức và kỹ năng) được thể hiện thông qua các hoạt động của cá nhân nhằm thực
hiện một loại công việc nào đó. Năng lực bao gồm các yếu tố cơ bản mà mọi người
lao động, mọi công dân đều cần phải có, đó là các năng lực chung, cốt lõi”. Định
hướng chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) sau năm 2015 đã xác định một số
năng lực những năng lực cốt lõi mà học sinh Việt Nam cần phải có như:
– Năng lực làm chủ và phát triển bản thân, bao gồm: Năng lực tự học; Năng
lực giải quyết vấn đề; Năng lực sáng tạo; Năng lực quản lí bản thân.
– Năng lực xã hội, bao gồm: Năng lực giao tiếp; Năng lực hợp tác.
– Năng lực công cụ, bao gồm: Năng lực tính toán; Năng lực sử dụng ngôn
ngữ; Năng lực ứng dụng công nghệ thông tin (ITC)
Như vậy có thể hiểu một cách ngắn gọn năng lực là khả năng vận dụng tất cả
những yếu tố chủ quan (mà bản thân có sẵn hoặc được hình thành qua học tập) để
giải quyết các vấn đề trong học tập, công tác và cuộc sống.

1.1.2. Chương trình giáo dục định hướng năng lực
Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực (định hướng phát triển
năng lực) nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ
những năm 90 của thế kỷ 20 và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế.
Giáo dục định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người
học.
Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định
hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là
“sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng dạy học

6


chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học
tập của HS.
Bảng so sánh một số đặc trưng cơ bản của chương trình định hướng nội dung
và chương trình định hướng phát triển năng lực sẽ cho chúng ta thấy ưu điểm của
chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực:
Chương trình định hướng Chương trình định hướng phát
nội dung
triển năng lực
Mục tiêu Mục tiêu dạy học được mô tả Kết quả học tập cần đạt được mô tả
giáo dục
không chi tiết và không nhất chi tiết và có thể quan sát, đánh giá
thiết phải quan sát, đánh giá được; thể hiện được mức độ tiến bộ
được
của HS một cách liên tục
Nội dung Việc lựa chọn nội dung dựa Lựa chọn những nội dung nhằm đạt
giáo dục
vào các khoa học chuyên được kết quả đầu ra đã quy định, gắn

môn, không gắn với các tình với các tình huống thực tiễn. Chương
huống thực tiễn. Nội dung trình chỉ quy định những nội dung
được quy định chi tiết trong chính, không quy định chi tiết.
chương trình.
Phương
GV là người truyền thụ tri – GV chủ yếu là người tổ chức, hỗ trợ
pháp dạy thức, là trung tâm của quá HS tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức.
học
trình dạy học. HS tiếp thu thụ Chú trọng sự phát triển khả năng giải
động những tri thức được quyết vấn đề, khả năng giao tiếp,…;
quy định sẵn.
– Chú trọng sử dụng các quan điểm,
phương pháp và kỹ thuật dạy học tích
cực; các phương pháp dạy học thí
nghiệm, thực hành
Hình thức Chủ yếu dạy học lý thuyết Tổ chức hình thức học tập đa dạng;
dạy học
trên lớp học
chú ý các hoạt động xã hội, ngoại
khóa, nghiên cứu khoa học, trải
nghiệm sáng tạo; đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông
trong dạy và học
Đánh giá Tiêu chí đánh giá được xây Tiêu chí đánh giá dựa vào năng lực
kết quả học dựng chủ yếu dựa trên sự ghi đầu ra, có tính đến sự tiến bộ trong
tập của HS nhớ và tái hiện nội dung đã quá trình học tập, chú trọng khả năng
học.
vận dụng trong các tình huống thực
tiễn.
1.1.3. Các năng lực mà môn học Ngữ văn hướng đến

* Năng lực giải quyết vấn đề

7


Trên thực tế, có nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về năng lực giải
quyết vấn đề (GQVĐ). Tuy nhiên, các ý kiến và quan niệm đều thống nhất cho rằng
GQVĐ là một NL chung, thể hiện khả năng của mỗi người trong việc nhận thức,
khám phá được những tình huống có vấn đề trong học tập và cuộc sống mà không
có định hướng trước về kết quả, và tìm các giải pháp để giải quyết những vấn đề
đặt ra trong tình huống đó, qua đó thể hiện khả năng tư duy, hợp tác trong việc lựa
chọn và quyết định giải pháp tối ưu.
Với môn học Ngữ văn, năng lực này cũng cần được hướng đến khi triển khai
các nội dung dạy học của bộ môn, do tính ứng dụng thực tiễn và quy trình hình
thành năng lực có thể gắn với các bối cảnh học tập (tiếp nhận và tạo lập văn bản)
của môn học, khi nảy sinh những tình huống có vấn đề. Với một số nội dung dạy
học trong môn Ngữ văn như: xây dựng kế hoạch cho một hoạt động tập thể, tiếp
nhận một thể loại văn học mới, viết một kiểu loại văn bản, lí giải các hiện tượng
đời sống được thể hiện qua văn bản, thể hiện quan điểm của cá nhân khi đánh giá
các hiện tượng văn học,… quá trình học tập các nội dung trên là quá trình giải
quyết vấn đề theo quy trình đã xác định. Quá trình giải quyết vấn đề trong môn
Ngữ văn có thể được vận dụng trong một tình huống dạy học cụ thể hoặc trong một
chủ đề dạy học.
* Năng lực sáng tạo
Năng lực sáng tạo được hiểu là sự thể hiện khả năng của học sinh trong việc
suy nghĩ và tìm tòi, phát hiện những ý tưởng mới nảy sinh trong học tập và cuộc
sống, từ đó đề xuất được các giải pháp mới một cách thiết thực, hiệu quả để thực
hiện ý tưởng. Trong việc đề xuất và thực hiện ý tưởng, học sinh bộc lộ óc tò mò,
niềm say mê tìm hiểu khám phá.
Việc hình thành và phát triển năng lực sáng tạo cũng là một mục tiêu mà

môn học Ngữ văn hướng tới. Năng lực này được thể hiện trong việc xác định các
tình huống và những ý tưởng, đặc biệt những ý tưởng được gửi gắm trong các văn
bản văn học, trong việc tìm hiểu, xem xét các sự vật, hiện tượng từ những góc nhìn
khác nhau, trong cách trình bày quá trình suy nghĩ và cảm xúc của HS trước một vẻ
đẹp, một giá trị của cuộc sống. Năng lực suy nghĩ sáng tạo bộc lộ thái độ đam mê
và khát khao được tìm hiểu của HS, không suy nghĩ theo lối mòn, theo công thức.
Trong các giờ đọc hiểu văn bản, một trong những yêu cầu cao là HS, với tư cách là
người đọc, phải trở thành người đồng sáng tạo với tác phẩm (khi có được những
cách cảm nhận riêng, độc đáo về nhân vật, về hình ảnh, ngôn từ của tác phẩm; có
cách trình bày, diễn đạt giàu sắc thái cá nhân trước một vấn đề,…).
* Năng lực hợp tác
Học hợp tác là hình thức học sinh làm việc cùng nhau trong nhóm nhỏ để
hoàn thành công việc chung và các thành viên trong nhóm có quan hệ phụ thuộc
lẫn nhau, giúp đỡ nhau để giải quyết các vấn đề khó khăn của nhau. Khi làm việc
8


cùng nhau, học sinh học cách làm việc chung, cho và nhận sự giúp đỡ, lắng nghe
người khác, hoà giải bất đồng và giải quyết vấn đề theo hướng dân chủ. Đây là hình
thức học tập giúp học sinh ở mọi cấp học phát triển cả về quan hệ xã hội lẫn thành
tích học tập.
Năng lực hợp tác được hiểu là khả năng tương tác của cá nhân với cá nhân
và tập thể trong học tập và cuộc sống. Năng lực hợp tác cho thấy khả năng làm việc
hiệu quả của cá nhân trong mối quan hệ với tập thể, trong mối quan hệ tương trợ
lẫn nhau để cùng hướng tới một mục đích chung. Đây là một năng lực rất cần thiết
trong xã hội hiện đại, khi chúng ta đang sống trong một môi trường, một không
gian rộng mở của quá trình hội nhập.
Trong môn học Ngữ văn, năng lực hợp tác thể hiện ở việc HS cùng chia sẻ,
phối hợp với nhau trong các hoạt động học tập qua việc thực hiện các nhiệm vụ học
tập diễn ra trong giờ học. Thông qua các hoạt động nhóm, cặp, học sinh thể hiện

những suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về những vấn đề đặt ra, đồng thời lắng nghe
những ý kiến trao đổi thảo luận của nhóm để tự điều chỉnh cá nhân mình. Đây là
những yếu tố rất quan trọng góp phần hình thành nhân cách của người học sinh
trong bối cảnh mới.
* Năng lực tự quản bản thân
Năng lực này thể hiện ở khả năng của mỗi con người trong việc kiểm soát
cảm xúc, hành vi của bản thân trong các tình huống của cuộc sống, ở việc biết lập
kế hoạch và làm việc theo kế hoạch, ở khả năng nhận ra và tự điều chỉnh hành vi
của cá nhân trong các bối cảnh khác nhau. Khả năng tự quản bản thân giúp mỗi
người luôn chủ động và có trách nhiệm đối với những suy nghĩ, việc làm của mình,
sống có kỉ luật, biết tôn trọng người khác và tôn trọng chính bản thân mình.
Cũng như các môn học khác, môn Ngữ văn cũng cần hướng đến việc rèn
luyện và phát triển ở HS năng lực tự quản bản thân. Trong các bài học, HS cần biết
xác định các kế hoạch hành động cho cá nhân và chủ động điều chỉnh kế hoạch để
đạt được mục tiêu đặt ra, nhận biết những tác động của ngoại cảnh đến việc tiếp thu
kiến thức và rèn luyện kĩ năng của cá nhân để khai thác, phát huy những yếu tố tích
cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực, từ đó xác định được các hành vi đúng đắn, cần
thiết trong những tình huống của cuộc sống.
* Năng lực giao tiếp tiếng Việt
Giao tiếp là hoạt động trao đổi thông tin giữa người nói và người nghe, nhằm
đạt được một mục đích nào đó. Việc trao đổi thông tin được thực hiện bằng nhiều
phương tiện, tuy nhiên, phương tiện sử dụng quan trọng nhất trong giao tiếp là
ngôn ngữ. Năng lực giao tiếp do đó được hiểu là khả năng sử dụng các quy tắc của
hệ thống ngôn ngữ để chuyển tải, trao đổi thông tin về các phương diện của đời
sống xã hội, trong từng bối cảnh/ngữ cảnh cụ thể, nhằm đạt đến một mục đích nhất
định trong việc thiết lập mối quan hệ giữa những con người với nhau trong xã hội.
9


Năng lực giao tiếp bao gồm các thành tố: sự hiểu biết và khả năng sử dụng ngôn

ngữ, sự hiểu biết về các tri thức của đời sống xã hội, sự vận dụng phù hợp những
hiểu biết trên vào các tình huống phù hợp để đạt được mục đích.
Trong môn học Ngữ văn, việc hình thành và phát triển cho HS năng lực giao
tiếp ngôn ngữ là một mục tiêu quan trọng, cũng là mục tiêu thế mạnh mang tính đặc
thù của môn học. Thông qua những bài học về sử dụng tiếng Việt, HS được hiểu về
các quy tắc của hệ thống ngôn ngữ và cách sử dụng phù hợp, hiệu quả trong các
tình huống giao tiếp cụ thể, HS được luyện tập những tình huống hội thoại theo
nghi thức và không nghi thức, các phương châm hội thoại, từng bước làm chủ tiếng
Việt trong các hoạt động giao tiếp. Các bài đọc hiểu văn bản cũng tạo môi trường,
bối cảnh để HS được giao tiếp cùng tác giả và môi trường sống xung quanh, được
hiểu và nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt văn hóa, văn học. Đây cũng là mục
tiêu chi phối trong việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn là dạy học theo
quan điểm giao tiếp, coi trọng khả năng thực hành, vận dụng những kiến thức tiếng
Việt trong những bối cảnh giao tiếp đa dạng của cuộc sống.
Năng lực giao tiếp trong các nội dung dạy học tiếng Việt được thể hiện ở 4 kĩ
năng cơ bản: nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng dụng các kiến thức và kĩ năng ấy
vào các tình huống giao tiếp khác nhau trong cuộc sống.
* Năng lực thưởng thức văn học/cảm thụ thẩm mi
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ thể hiện khả năng của mỗi cá nhân trong việc
nhận ra được các giá trị thẩm mĩ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc sống,
thông qua những cảm nhận, rung động trước cái đẹp và cái thiện, từ đó biết hướng
những suy nghĩ, hành vi của mình theo cái đẹp, cái thiện. Như vậy, năng lực cảm
thụ (hay năng lực trí tuệ xúc cảm) thường dùng với hàm nghĩa nói về các chỉ số
cảm xúc của mỗi cá nhân. Chỉ số này mô tả khả năng tự nhận thức để xác định,
đánh giá và điều tiết cảm xúc của chính mỗi người, của người khác, của các nhóm
cảm xúc.
Năng lực cảm thụ thẩm mĩ là năng lực đặc thù của môn học Ngữ văn, gắn
với tư duy hình tượng trong việc tiếp nhận văn bản văn học. Quá trình tiếp xúc với
tác phẩm văn chương là quá trình người đọc bước vào thế giới hình tượng của tác
phẩm và thế giới tâm hồn của tác giả từ chính cánh cửa tâm hồn của mình. Năng

lực cảm xúc, như trên đã nói, được thể hiện ở nhiều khía cạnh; trong quá trình
người học tiếp nhận tác phẩm văn chương năng lực cảm xúc được thể hiện ở những
phương diện sau:
– Cảm nhận vẻ đẹp của ngôn ngữ văn học, biết rung động trước những hình
ảnh, hình tượng được khơi gợi trong tác phẩm về thiên nhiên, con người, cuộc sống
qua ngôn ngữ nghệ thuật.
– Nhận ra được những giá trị thẩm mĩ được thể hiện trong tác phẩm văn học:
cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi, cái cao cả, cái thấp hèn,….từ đó cảm nhận được
10


những giá trị tư tưởng và cảm hứng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện qua tác
phẩm.
– Cảm hiểu được những giá trị của bản thân qua việc cảm hiểu tác phẩm văn
học; hình thành và nâng cao nhận thức và xúc cảm thẩm mĩ của cá nhân; biết cảm
nhận và rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người, cuộc sống; có những
hành vi đẹp đối với bản thân và các mối quan hệ xã hội; hình thành thế giới quan
thẩm mĩ cho bản thân qua việc tiếp nhận tác phẩm văn chương.
Từ việc tiếp xúc với các văn bản văn học, HS sẽ biết rung động trước cái
đẹp, biết sống và hành động vì cái đẹp, nhận ra cái xấu và phê phán những hình
tượng, biểu hiện không đẹp trong cuộc sống, biết đam mê và mơ ước cho cuộc sống
tốt đẹp hơn.
Như vậy, quá trình dạy học Ngữ văn đồng thời giúp HS hình thành và phát
triển các năng lực đáp ứng với yêu cầu phát triển của xã hội, thông qua việc rèn
luyện và phát triển các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói. Trong quá trình hướng dẫn HS
tiếp xúc với văn bản, môn Ngữ văn còn giúp HS từng bước hình thành và nâng cao
các năng lực học tập của môn học, cụ thể là năng lực tiếp nhận văn bản (gồm kĩ
năng nghe và đọc) và năng lực tạo lập văn bản (gồm kĩ năng nói và viết).
1.1.4. Phương pháp dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực
a) Các phương pháp dạy học đặc thù của bộ môn

* Dạy học đọc hiểu:
Môn Ngữ văn được coi là môn học công cụ, môn học bắt buộc ở cả 3 cấp,
hướng tới việc hình thành và phát triến các năng lực đọc, viết tiếng Việt (năng lực
tiếp nhận và xử lí thông tin, năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực trình bày, tạo lập
các kiểu loại văn bản cần thiết trong cuộc sống). Để phát huy vai trò công cụ của
môn học, một trong những điểm nhấn quan trọng khi vận dụng các PPDH bộ môn
là cần có quan niệm mới hơn về việc dạy đọc – hiểu trong môn học Ngữ văn.
Dạy học đọc hiểu là một trong những nội dung cơ bản của đổi mới phương
pháp dạy học Ngữ văn trong việc tiếp nhận văn bản. Nếu như trước đây chúng ta
coi phân tích tác phẩm hay giảng văn là một phương pháp đặc thù của dạy văn thì
hiện nay đã có những thay đổi trong cách tiếp cận vấn đề này của chương trình và
SGK Ngữ văn mới. Cách dạy đọc – hiểu không nhằm truyền thụ một chiều cho học
sinh những cảm nhận của giáo viên về văn bản được học, mà hướng đến việc cung
cấp cho học sinh cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề nội dung và nghệ
thuật của văn bản, từ đó hình thành cho HS năng lực tự đọc một cách tích cực, chủ
động, có sắc thái cá nhân. Hoạt động đọc – hiểu của HS cần được thực hiện theo
một trình tự từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, trải qua các giai đoạn từ đọc đúng, đọc
thông đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo. Khi hình thành năng lực đọc
– hiểu của học sinh cũng chính là hình thành năng lực cảm thụ thẩm mĩ, khơi gợi
liên tưởng, tưởng tượng và tư duy. Năng lực đọc - hiểu của học sinh còn được hiểu
11


là sự tích hợp những kiến thức và kĩ năng của các phân môn cũng như toàn bộ kĩ
năng và kinh nghiệm sống của học sinh.
Mặt khác, môn Ngữ văn không chỉ nhằm giúp HS hình thành và phát triển
năng lực đọc – hiểu các văn bản theo thể loại với phương tiện biểu đạt là ngôn ngữ,
mà còn hướng dẫn học sinh cách đọc và tìm hiểu các loại văn bản với các phương
tiện biểu đạt đa dạng, sử dụng nhiều yếu tố phi ngôn ngữ (sơ đồ, bản đồ, biểu bảng,
hình ảnh,…). Nội dung thông tin trong các văn đọc hết sức phong phú, có liên quan

đến nhiều lĩnh vực cuộc sống và nhiều môn học khác, do vậy, cần chú ý đến những
vấn đề liên môn trong việc dạy đọc – hiểu, đồng thời cần giúp HS có phương pháp
đọc, khả năng tự tìm kiếm nguồn thông tin đã dạng của cuộc sống để đáp ứng năng
lực, sở thích của cá nhân.
Đọc hiểu bất kì một văn bản nào, người đọc cũng phải thực hiện các nhiệm
vụ sau đây:
- Tìm kiếm thông tin từ văn bản.
- Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, kết nối… thông tin để tạo nên hiểu
biết chung về văn bản.
- Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản.
- Vận dụng những hiểu biết về các văn bản đã đọc vào việc đọc các loại văn
bản khác nhau, đáp ứng những mục đích học tập và đời sống.
* Dạy học tích hợp
Để đáp ứng với yêu cầu dạy học Ngữ văn theo hướng hình thành và phát
triển năng lực, cần chú ý đến việc tổ chức dạy học môn Ngữ văn theo hướng tích
hợp. Quá trình dạy học tích hợp lấy chủ thể người học làm xuất phát điểm và đích
đến, trong đó tích hợp là việc tổ chức nội dung dạy học của GV sao cho học sinh có
thể huy động nội dung, kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm
giải quyết các nhiệm vụ học tập, thông qua đó lại hình thành những kiến thức, kĩ
năng mới, từ đó phát triển được những năng lực cần thiết. Trong môn học Ngữ văn,
dạy học tích hợp là việc tổ chức các nội dung của các phân môn văn học, tiếng Việt,
làm văn trong các bài học, giúp HS từng bước nâng cao năng lực sử dụng tiếng Việt
trong việc tiếp nhận và tạo lập các văn bản thuộc các kiểu loại và phương thức biểu
đạt.
Mặt khác, tính tích hợp của CT và SGK Ngữ văn còn thể hiện ở mối liên
thông giữa kiến thức sách vở và kiến thức đời sống (qua việc tìm hiểu các văn bản
văn học, đặc biệt là các văn bản nhật dụng, văn bản hành chính, qua chương trình
dành cho địa phương), liên thông giữa kiến thức, kĩ năng của môn Ngữ văn với các
môn học thuộc ngành khoa học xã hội nhân văn và các ngành học khác, nhằm giúp
HS có được kiến thức và kĩ năng thực hành toàn diện, góp phần giáo dục đạo đức

công dân, kĩ năng sống, hiểu biết xã hội,... Như vậy, tích hợp trong môn học Ngữ
văn không chỉ là phối hợp các kiến thức và kĩ năng của tiếng Việt và văn học mà
12


còn là sự tích hợp liên ngành để hình thành một “phông” văn hoá cho HS trong việc
đọc - hiểu tác phẩm văn học và tạo lập những văn bản theo các phương thức biểu
đạt khác nhau, có nghĩa là để thực hiện các mục tiêu đặt ra trong môn học Ngữ văn,
HS cần vận dụng tổng hợp những hiểu biết về ngôn ngữ, văn hoá, văn học, lịch sử,
địa lí, phong tục, vốn sống, vốn tri thức và kinh nghiệm của bản thân. Điều này
cũng thể hiện rõ một trong những nhiệm vụ của môn học là hướng đến việc cá thể
hoá người học.
b) Các phương pháp dạy học tích cực
Bên cạnh những phương pháp dạy học theo đặc trưng của bộ môn, việc phát
huy các phương pháp dạy học tích cực cũng góp phần vào việc đổi mới phương
pháp dạy học Ngữ văn đạt hiệu quả : Thảo luận nhóm, Đóng vai, Dạy học dự án…
*Thảo luận nhóm:
Thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học tạo được sự tham
gia tích cực của học sinh trong học tập. Trong thảo luận nhóm, HS được tham gia
trao đổi, bàn bạc, chia sẻ ý kiến về một vấn đề mà cả nhóm cùng quan tâm. Thảo
luận nhóm còn là phương tiện học hỏi có tính cách dân chủ, mọi cá nhân được tự
do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan điểm
bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giải quyết
vấn đề khó khăn.
* Đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành để trình bày những
suy nghĩ, cảm nhận và ứng xử theo một “vai giả định”. Đây là phương pháp giảng
dạy nhằm giúp học sinh suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách đứng từ chỗ
đứng, góc nhìn của người trong cuộc, tập trung vào một sự kiện cụ thể mà các em
quan sát được từ vai của mình.

Trong môn học Ngữ văn, phương pháp đóng vai được thực hiện trong một số
nội dung học tập sau: vào vai một nhân vật kể lại câu chuyện đã học; chuyển thể
một văn bản văn học thành kịch bản sân khấu, xử lí một tình huống giao tiếp giả
định, trình bày một vấn đề, một ý kiến từ các góc nhìn khác nhau...
*Dạy học theo dự án
Dạy học theo dự án là một phương pháp hay một hình thức dạy học, trong đó
người học thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết hợp giữa lý thuyết
và thực tiễn, thực hành. Nhiệm vụ này được người học thực hiện với tính tự lực cao
trong toàn bộ quá trình học tập, từ việc xác định mục đích, lập kế họach, đến việc
thực hiện dự án, kiểm tra, điều chỉnh, đánh giá quá trình và kết quả thực hiện.
Phương pháp dạy học dự án có một số đặc điểm nổi bật như sau:
- Định hướng thực tiễn.
- Có ý nghĩa thực tiễn xã hội
- Định hướng hứng thú người học
13


- Dự án học tập mang nội dung tích hợp
- Định hướng hành động
- Tính tự lực cao của người học
- Tinh thần cộng tác làm việc
- Tạo ra sản phẩm:
1.2. Vài nét về văn học sau 1975 và truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
của Nguyễn Minh Châu.
1.2.1. Đặc điểm cơ bản của văn học sau 1975
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nước bước vào một kỷ nguyên mới:
độc lập – thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Trong mười năm đầu xây dựng chủ nghĩa
xã hội, đất nước gặp những khó khăn, thử thách mới. Từ sau 1986, nền kinh tế, văn
hóa có bước chuyển mình dưới sự lãnh đạo của Đảng, có sự mở rộng giao lưu văn
hóa thế giới. Trong bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội ấy, văn học có những đặc điểm

riêng:
- Văn học vận động và phát triển qua hai chặng:
+ Từ 1975 đến 1985: Đây là giai đoạn văn học chuyển mình, tìm kiếm con
đường đổi mới phù hợp với yêu cầu của xã hội sau chiến tranh. Đa phần các sáng
tác văn học có sự chuyển đổi về nội dung từ đề tài sử thi sang đề tài đời tư thế sự,
nhưng giọng điệu và phương thức thể hiện vẫn chưa thay đổi: TP vẫn chưa thoát
khỏi “từ trường” của cách viết sử thi ở giai đoạn trước.
+ Từ 1986 đến hết thế kỉ XX: Văn học chặng đường này đã hòa vào nhịp độ
hối hả của sự phát triển xã hội. Cuộc sống mới với không khí dân chủ trong đời
sống xã hội và “cơn gió” thị trường đã thổi vào văn học, làm xuất hiện hai xu
hướng chống tiêu cực và ngợi ca những nhân cách cao đẹp.
- Trong quá trình vận động và phát triển, văn học giai đoạn này đã bộc lộ
những đặc điểm cơ bản:
+ Văn học vận động theo hướng dân chủ hóa với sự ý thức của chủ thể sáng
tạo, từ đó tạo điều kiện cho văn học phát triển phong phú, đa dạng, hướng tới tính
hiện đại.
+ Văn học chịu sự chi phối của qui luật đời thường: Văn học giai đoạn này
khơi sâu vào cuộc sống đa chiều, đi vào những cái nhỏ nhặt thường ngày, về những
con người nhỏ bé có tên hoặc không tên. Đưa cái đời thường vào tác phẩm, các nhà
văn đã mở rộng tối đa khả năng tiếp xúc của văn học đối với đời sống. Quan tâm
đến vấn đề xã hội, các nhà văn đề cao khát vọng về đạo đức tốt đẹp, về sự hoàn
thiện nhân cách con người. Văn học bắt đầu đề cập đến nhiều vấn đề bức xúc: số
phận cá nhân, bi kịch cá nhân, mối quan hệ cá nhân và cộng đồng.
+ Sự thức tỉnh cá nhân và tinh thần nhân bản là cảm hứng bao trùm của văn
học giai đoạn này.

14


Tóm lại, sự đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975 ngày càng sâu sắc và

toàn diện từ đề tài (quan tâm đến đề tài thế sự, số phận cá nhân, giá trị nhân bản)
đến thi pháp, phong cách, trên cơ sở sự đổi mới của người viết trong quan niệm về
hiện thực và con người (hiện thực không đơn giản, một chiều mà phức tạp, thậm
chí chứa đựng những nghịch lí; không chỉ có con người trong quan hệ chính trị với
cộng đồng, mà còn có con người trong quan hệ cá nhân, gia đình, con người văn
hoá…), quan niệm về nhà văn và độc giả (quan niệm đối thoại bình đẳng), trong sự
tiếp nhận ngày càng rộng rãi văn học nước ngoài.
Tinh thần đổi mới như trên thực chất là tinh thần dân chủ trong quan niệm về
sáng tác và tiếp nhận văn học. Công cuộc đổi mới ngày càng đạt được thành tựu
trên nhiều thể loại, nhưng nổi trội hơn cả là văn xuôi.
Nhạy cảm với những vấn đề của đời sống, một số cây bút đã bộc lộ ý thức
muốn đổi mới cách viết về chiến tranh, cách tiếp cận hiện thực đời sống như
Nguyễn Trọng Oánh với Đất trắng, Thái Bá Lợi với Hai người trở lại trung đoàn.
Từ những năm 80 tình hình văn đàn trở nên sôi nổi hơn với những tiểu thuyết
Đứng trước biển và Cù lao Tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn, Cha và con và Gặp gỡ
cuối năm của Nguyễn Khải, Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Thời xa
vắng của Lê Lựu; những tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và
Bến quê của Nguyễn Minh Châu.
1.2.2. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và đặc điểm sáng tác của
Nguyễn Minh Châu sau 1975
Có thể mượn lời nhà văn Nguyên Ngọc để nói về vị trí của Nguyễn Minh
Châu trên văn đàn: “Nguyễn Minh Châu là nhà văn có vị trí rất đặc biệt trong đời
sống văn học ta khoảng vài ba chục năm trở lại đây, đặc biệt trong khoảng thời gian
hơn mười năm nay, tức là thời kì mà văn học đang có những sự chuyển động rất
phong phú, sâu sắc và phức tạp, một thời kì trở mình, trở dạ quằn quại của đất
nước, của xã hội, của con người, của văn học.
Nói đến Nguyễn Minh Châu, chúng tôi nghĩ, trước hết là nói đến vị trí rất
đặc biệt, rất đặc sắc của anh trong cuộc trở dạ đau đớn và sinh thành ấy. Nguyễn
Minh Châu là nhà văn thuộc lớp giữa, lớp bắt đầu cầm bút từ những năm miền Bắc
hòa bình và xuất hiện trên văn đàn trong thời kì chiến tranh chống Mĩ. Trong thế hệ

đó, anh là người cảm nhận ra sớm nhất, sâu xa nhất, tận máu thịt tâm tưởng mình
cái yêu cầu bức bách sống còn của cuộc trở dạ nọ, mà ngày nay chúng ta gọi làcông
cuộc đổi mới. Đổi mới xã hội, đổi mới con người, đời sống, tâm tưởng, thân phận
con người, đổi mới văn học. Và lặng lẽ, âm thầm, khiêm nhường mà cực kì dũng
cảm, anh kiên định đi vào con đường đầy chồng gai và hiểm nguy đó. Lặng lẽ, bởi
vì cuộc tìm kiếm thật sự nào, nhất là với những người đi tiên phong, bao giờ cũng ít
hay nhiều là đơn độc, lắm khi lẻ chiếc đến cô đơn. Dũng cảm, bởi vì đối với nhà

15


văn, mỗi sự đổi thay có tính khám phá, như chính lời anh nói, bao giờ trước hết
cũng là sự đổi thay, tự đổi mới, “tự thay máu” của chính mình”.
* Đặc điểm của nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975
Đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Nguyễn Minh Châu là kết cấu tâm lí chất
“chuyện” mờ nhạt. Truyện được triển khai theo sự vận động của tâm trạng, ít sự
kiện, ít tình huống, biến cố. Chính phương thức trần thuật này, giúp nhà văn có điều
kiện xâm nhập vào thế giới bên trong của con người mà không cần dài lời. Nếu
trước năm 1975, nhiều tác phẩm còn thiên về sự kiện, còn chú trọng đến cốt truyện,
thì sau 1975 nhà văn đã di chuyển của tiểu thuyết và truyện ngắn từ cốt truyện sang
nhân vật. Tư tưởng chủ đề của tác phẩm được thể hiện chủ yếu qua tính cách nhân
vật, qua sự va chạm tác động lẫn nhau giữa các nhân vật, qua tâm trạng chứ không
chủ yếu qua một số cốt truyện có đầu đuôi (Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa...)
Trong nhiều tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, các sự kiện tình tiết không
phát triển trực tuyến và sắp xếp theo thứ tự thời gian một chiều. Nhiều tác phẩm
không lấy chiều vận động thời gian khác quan làm chiều vận động của câu chuyện.
Thời gian bị đảo lộn, hoặc cùng lúc xuất hiện nhiều chiều thời gian. Trong nhiều
tác phẩm Nguyễn Minh Châu sử dụng thành công kĩ thuật dòng ý thức, đồng hiện
thời gian, đi sâu vào thế giới tâm hồn, mở rộng dung lượng của truyện, mà không
cần kể lể dài dòng.

Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, Nguyễn Minh Châu tỏ ra thành công trong
việc phân tích và diễn tả tâm lí nhân vật. Nhân vật chủ yếu của truyện ngắn Nguyễn
Minh Châu là kiểu nhân vật tự ý thức, với đời sống nội tâm phong phú, Người họa
sĩ trong truyện ngắn Bức tranh, Quỳ trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,
Nhĩ trong Bến quê, người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa ...
đều là nhân vật tự ý thức, thể hiện cái nhìn đa chiều về con người của nhà văn.
Ngòi bút của Nguyễn Minh Châu thật tinh tế khi khơi sâu vào những ngóc
ngách sâu kín của tâm hồn con người. Xây dựng nhân vật tự ý thức, nhà văn ít khi
sử dụng câu đối thoại, nhân vật ít hành động mà luôn suy nghĩ, chìm đắm trong suy
nghĩ. Độc thoại, độc thoại bên trong vì thế trở thành biện pháp hữu hiệu giúp nhà
văn mổ xẻ quá trình tự ý thức của nhân vật. Với Nguyễn Minh Châu, có thể nói lần
đầu tiên trong văn học sau 1975, con người tự đối diện với chính minh một cách
chân thật.
Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giàu chất triết lí. Ở nhiều truyện ngắn, nhân
vật mang bóng dáng của chính nhà văn. Vì vậy, những triết lí về lẽ đời, về nhân sinh,
về nghệ thuật... đều bắt nguồn từ trái tim của một nhà văn luôn trăn trở với nghề, với
đời. Dẫu viết về người lính, trí thức hay nông dân, tác phẩm của Nguyễn Minh Châu
đề lóe lên những tư tưởng sâu sắc. Vì vậy có những truyện ngắn của Nguyễn Minh
Châu mang tính luận đề - nhà văn bàn bạc về đạo đức nhân sinh, về tâm lí xã hội.
Truyện ngắn Bức tranh là luận đề về đạo đức xã hội, Chiếc thuyền ngoài xa là luận đề
16


về mối quan hệ giữ nghệ thuật và cuộc sống. Những luận đề của tác phẩm được thể
hiện qua hình tượng nhân vật, những nhân vật có máu thịt và có quá trình phát triển
tính cách.
Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu đa giọng điệu. Ngôn ngữ, giọng điẹu của
người kẻ chuyện sinh động, luôn biến hóa nhiều sắc thái biểu cảm (đan xen lời nửa
trực tiếp, nửa độc thoại; giọng điệu tự nhiên, lúc nghiêm trang, lúc hài hước, dí
dỏm, lúc giàu chất triết lí...) Ngôn ngữ nhân vật được cá thể hóa, ngôn ngữ đối

thoại sống động, tự nhiên như lời nói ngoài đời.
* Vài nét về truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”
Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Nguyễn
Minh Châu ở chặng đường sau 1975. Truyện ngắn được rút từ tập Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành (1983), sau đó được in lại trong tập Chiếc thuyền ngoài
xa (1987)
Tác phẩm được đưa vào tập truyện ngắn Tình yêu sau chiến tranh – tuyển
tập truyện ngắn Việt Nam đương đại do hai nhà văn Wayne Karlin và Hồ Anh Thái
chủ biên, được nhà xuất bản Curbstone ấn hành ở Mĩ (bằng tiếng Anh).
Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu cho truyện ngắn về đề tài đời tư
– thế sự của Nguyễn Minh Châu sau 1975. Những trang đời sinh động, đầy nghịch
lí đã hắt bóng vào những trang văn của Nguyễn Minh Châu. Qua tác phẩm người
đọc thấy được những vấn đề phức tạp của đời sống, kể cả bi kịch số phận con
người.
Chiếc thuyền ngoài xa thuộc dạng truyện luận đề. Nguyễn Minh Châu đặt ra
mối quan hệ giữa văn học và đời sống. Tuy vậy, Nguyễn Minh Châu không biến
nhân vật thành cái loa để phát biểu luận đề. Thông qua một số cốt truyện nhiều tình
huống bất ngờ với một hệ thống nhân vật đa dạng, nhà văn đề cập tính trung thực
của người nghệ sĩ, nêu lên mối quan hệ chặt chẽ giữa văn học và hiện thực.
2. Cơ sở thực tiễn
2. 1. Thực tế dạy học theo định hướng phát triển năng lực của môn Ngữ
văn trong nhà trường THPT.
Giáo dục Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển mình, đổi mới để trưởng
thành hơn, bắt kịp với sự phát triển của kinh tế - xã hội. Từ tinh thần của Nghị
quyết 29 Hội nghị TW 8 khóa XI đã tác động mạnh mẽ đến thực tế dạy và học của
học sinh và giáo viên. Từ năm học 2014 – 2015 giáo viên đã được tiếp thu, tập
huấn về dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh. Từ bước vận dụng vào
thực tế giảng dạy, tích cực vận động tìm tòi nghiên cứu phương pháp dạy học phù
hợp. Thực sự chủ trương đã tạo một cú hích, một sự thay đổi mạnh mẽ trong tất cả
các hoạt động chuyên môn của nhà trường. Về phía học sinh, tâm thế học tập đã có

nhiều thay đổi, các em không bị áp lực quá nhiều về ghi nhớ kiến thức một cách
máy móc mà phát triển được năng lực tiềm ẩn của bản thân qua các hoạt động trãi
17


nghiệm sáng tạo của môn học. Môn Ngữ văn được các em nhìn nhận thực tế hơn,
gần gũi và “đời” hơn.
Tuy nhiên, dạy học theo hướng phát triển năng lực cho học sinh là chương
trình dạy học mới, nên việc dạy và học cũng còn nhiều bất cập. Giáo viên còn gặp
nhiều lúng túng, chưa xác định được các phương pháp dạy học phù hợp. Qua thực
tế giảng dạy của bản thân và việc dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy việc dạy – học
tại đơn vị chưa thật sự phát huy và khơi dậy tối đa các năng lực của học sinh. Điều
đó, thể hiện ở những tồn tại sau:
Thứ nhất, đối với dạy học đọc – hiểu chủ yếu vẫn theo hướng truyền thụ một
chiều những cảm nhận của giáo viên về văn bản, chưa hướng tới việc cung cấp cho
học sinh cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề về nội dung và nghệ thuật
của văn bản. Dạy học chú trọng đến cung cấp nội dung tư tưởng của văn bản văn
học, ít chú trọng đến các phương tiện nghệ thuật. Tóm lại, vẫn là chú trọng dạy
kiến thức hơn là hình thành kỹ năng.
Thứ hai, đối với dạy học tích hợp vẫn mang tính khiên cưỡng, thiếu tự
nhiên, tức là giáo viên thường áp đặt những nội dung tích hợp vào bài học như bảo
vệ môi trường, giáo dục kỹ năng sống… một cách lộ liễu. Chưa phát huy học sinh
huy động kiến thức, kỹ năng của nhiều môn học, nhiều lĩnh vực… để giải quyết các
nhiệm vụ học tập. Chủ yếu tích hợp liên môn, chưa chú trọng tích hợp các phân
môn… chính vì vậy chưa giúp học sinh hình thành kiến thức, kỹ năng mới và tất
nhiên các năng lực của học sinh chưa được phát triển.
Thứ ba, đối với việc vận dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích
cực. Trong những năm học vừa qua, nhận thức của đội ngũ giáo viên về tính cấp
thiết phải đổi mới phương pháp dạy học đã thay đổi và có nhiều chuyển biến; việc
áp dụng những phương pháp dạy học tích cực đã được thực hiện. Tuy nhiên cách

thực hiện, hiệu quả giảng dạy để đạt được mục tiêu của nó là chưa cao, cụ thể như:
– Phương pháp thảo luận nhóm được tổ chức nhưng chủ yếu vẫn dựa vào
một vài cá nhân học sinh tích cực tham gia, các thành viên còn lại còn dựa dẫm, ỉ
lại chưa thực sự chủ động. Mục đích của thảo luận nhóm chưa đạt được – tính dân
chủ, mọi cá nhân được tự do bày tỏ quan điểm, thói quen bình đẳng, biết đón nhận
quan điểm bất đồng để hình thành quan điểm cá nhân.
– Phương pháp đóng vai thực sự là phương pháp chưa được giáo viên chú
trọng. Nếu có thực hiện thì chỉ là dạng bài viết (chẳng hạn nhập vai một nhân vật
để kể lại nội dung của tác phẩm), việc chuyển thể thành kịch bản, xử lí tình huống
giả định, trình bày một vấn đề chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy mà học sinh
ít có cơ hội bày tỏ thái độ, chưa hứng thú, chưa hình thành được các kỹ năng và
năng lực của người học.
Những tồn tại và thiếu sót này đã được tôi nhìn nhận, rút kinh nghiệm và sẽ
tiếp tục khắc phục trong từng giờ giảng tiếp theo.
18


2.2. Thực tế dạy học tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh
Châu
Trong chương trình Ngữ Văn THPT Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm đại
diện cho sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Tác phẩm thuộc văn học sau 1975, thể
hiện rõ phong cách, đặc điểm sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Đồng thời, truyện
ngắn Chiếc thuyền ngoài xa cũng nằm trong nội dung thi ĐH – CĐ nên được giáo
viên và học sinh chú ý nhiều. Tỷ lệ đề thi ở các kỳ thi tốt nghiệp và tuyển sinh ĐH
– CĐ là rất cao. Điều đó chứng tỏ giá trị nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của tác
phẩm là rất lớn, rất đa chiều. Tuy nhiên, đây là tác phẩm mới nên chưa có nhiều tài
liệu, sách tham khảo về truyện ngắn này, nên gây khó khăn cho giáo viên và học
sinh trong quá trình đọc hiểu, khám phá tác phẩm. Đây là tác phẩm hay, nhưng hay
thì thường khó dạy, giáo viên thường lúng túng trong cách dạy, mạch dạy của bài.
Trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy tác phẩm này không chỉ tiêu biểu cho

quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, cho văn học Việt Nam
đương đại mà nó còn có sự kế thừa, ảnh hưởng từ văn học Việt Nam trước 1945. Đặc
biệt hơi thở của cuộc sống hiện đại hiện rõ trong mỗi trang văn của truyện ngắn, rất
thích hợp để rèn luyện phát huy các năng lực cho học sinh. Hơn nữa, vị trí của tác
phẩm này lại nằm giữa chương trình học kì II lớp 12, (tiết theo phân phối của đơn vị là
tiết 70 và 71) nên các em đã có sự trang bị về kiến thức cũng như kỹ năng của môn
học khá tốt. Vì thế, rất thích hợp để người học vận dụng giải quyết các vấn đề đặt ra
trong tác phẩm. Chính vì vậy tôi quyết định nghiên cứu, ứng dụng các phương pháp
dạy học phù hợp để có thể thông qua tác phẩm này phát triển các năng lực cho học
sinh.

19


CHƯƠNG II – DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN CHIẾC THUYỀN NGOÀI
XA CỦA NGUYỄN MINH CHÂU THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN
NĂNG LỰC CHO HỌC SINH
1. Phương pháp dạy học tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn
Minh Châu nhằm phát triển năng lực học sinh
Phát triển các năng lực cho học sinh là hoạt động mang tính hệ thống, toàn
diện trong toàn bộ quá trình dạy và học của giáo viên và học sinh. Vì vậy qua một
bài học, hay một chủ đề giáo viên ngoài xác định mục tiêu về kiến thức, kĩ năng,
thái độ thì cần phải xác định được những năng lực mà bài học học sẽ hướng tới cho
học sinh. Về cơ bản, với bài học này là một tác phẩm lớn, chứa đựng nhiều giá trị
nội dung và nghệ thuật, đặc biệt lại phản ánh hiện thực cuộc sống đương đại nên rất
gần gũi với học sinh. Do đó, vận dụng tốt các phương pháp dạy học truyền thống
và hiện đại sẽ giúp các em phát triển các năng lực: Năng lực giải quyết vấn đề;
Năng lực sáng tạo; Năng lực thưởng thức văn học/ cảm thụ thẩm mỹ; Năng lực hợp
tác; Năng lực tự quản bản thân; Năng lực giao tiếp tiếng Việt
1. 1. Vận dụng phương pháp dạy học theo đặc thù bộ môn

1.1.1. Dạy học đọc – hiểu
Phương pháp dạy học đọc hiểu truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được tôi
tiến hành như sau:
* Công tác chuẩn bị: Học sinh đọc trước văn bản ở nhà, tóm tắt được văn
bản; huy động những hiểu biết đã có về tác giả, về thể loại, về hiện tượng đời sống
xã hội… để sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ trên lớp.
* Hoạt động trên lớp, tôi yêu cầu học sinh thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tìm kiếm thông tin từ văn bản:
+ Các ý chính của văn bản (tóm tắt văn bản): Theo yêu cầu của trưởng
phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung (cũng là nơi
anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho bộ lịch năm sau. Sau nhiều ngày
“phục kích” Phùng đã chụp được “một cảnh đắt trời cho” – đó là hình ảnh chiếc
thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền
vào bờ anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến cảnh gã chồng vũ phu đánh đập
người vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình.
Những ngày sau cảnh đó lại tiếp diễn, và anh đã ra tay can thiệp… Theo lời mời
của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng) người đàn bà hàng chài đã
đến tòa án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã chối từ sự giúp đỡ của Phùng và
Đẩu, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể lại câu chuyện cuộc đời
mình và coi đó như là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng biển, người
nghệ sĩ đã có được tấm ảnh chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và
biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện
20


lên màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn bao giờ anh cũng thấy
hình ảnh người đàn bà, nghèo khổ lam lũ ấy bước ra từ bức tranh.
+ Các chi tiết quan trọng: Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng; câu chuyện của
người đàn bà hàng chài; tấm ảnh trong bộ lịch năm ấy; hình ảnh “chiếc thuyền ngoài
xa”…

- Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, kết nối… thông tin để tạo nên
hiểu biết chung về văn bản:
+ Giải thích cắt nghĩa: Để có tấm lịch nghệ thuật về thuyền và biển theo yêu
cầu của trưởng phòng, Phùng đã về chiến trường cũ, đã dự tính bố cục, đã phục
kích mấy buổi sáng để “chộp” được một cảnh thật ưng ý. Một cảnh đẹp mà trời ban
cho người nghệ sĩ tâm huyết. Như đã nói ở phần tóm tắt, phát hiện thứ nhất của
người nghệ sĩ nhiếp ảnh tại vùng biển này là “một cảnh đắt trời cho”, em hiểu
“một cảnh đắt trời cho”ở đây nghĩa là thế nào và vì sao người nghệ sĩ lại gọi cảnh
tượng ấy như vậy? Cảm nhận của người nghệ sĩ khi được “chiêm ngưỡng bức ảnh
nghệ thuật của tạo hóa” là thế nào? Vì sao trong lúc cảm nhận vẻ đẹp của bức
tranh, Phùng lại nghĩ đến lời đúc kết của một ai đó: “bản thân cái đẹp chính là đạo
đức”? Chứng kiến cảnh tượng về gia đình hàng chài, nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến
thẫn thờ: “Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đế mức, trong mấy phút đầu,
tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Người nghệ sĩ như “chết lặng” không tin vào
những gì đang diễn ra trước mắt. Tại sao người nghệ sĩ lại có thái độ như vậy?
Người đàn bà hàng chài có làm theo gợi ý, đề nghị của Phùng và Đẩu không? Vì
sao? (GV lưu ý HS phân tích các biểu hiện về thái độ, lời nói, suy nghĩ của người
đàn bà hàng chài khi từ chối sự giúp đỡ của chánh án Đẩu.) Trước khi nghe câu
chuyện của người đàn bà vùng biển, thái độ của chánh án Đẩu là rất cương quyết.
Nhưng khi nghe những gì mà người phụ nữ vùng biển ấy giãi bày, Đẩu cảm thấy
thế nào? Vì sao? Mỗi khi ngắm bức ảnh được chọn, người nghệ sĩ nhiếp ảnh thường
thấy hiện lên những hình ảnh nào? Những hình ảnh đó đã nói lên điều gì (suy luận)?
+ Mối liên hệ giữa các thông tin trong văn bản: Qua hai phát hiện của người
nghệ sĩ nhiếp ảnh: Bức tranh thiên nhiên “toàn bích”của vùng phá nước làng chài
và bức tranh cuộc sống đầy bất ngờ và nghịch lí, tác giả muốn gửi gắm thông điệp:
Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí. Cuộc sống
luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn: đẹp – xấu, thiện – ác, hiển nhiên
– bất ngờ; Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, sơ lược mà
“cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”, cần có cái
nhìn đa diện nhiều chiều phát hiện ra bản chất sau vẻ bề ngoài hiện tượng; Nghệ

thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Câu chuyện của người đàn bà
hàng chài tại tòa án huyện: Đừng bao giờ nhìn nhận cuộc đời và con người một
cách dễ dãi xuôi chiều. Cần phải nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng trong hoàn
cảnh cụ thể của nó và trong mối quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa. Tấm ảnh trong
21


bộ lịch năm ấy: Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời. Nghệ thuật
chính là cuộc đời và phải luôn luôn vì cuộc đời. Muốn hay không muốn thì con
người vẫn là “tâm điểm” và họ mới là cái đẹp đích thực nhưng không dễ thấy. Họ
vẫn sống quanh ta, bình dị, tự tin và chính họ mới là linh hồn, là sức sống của nghệ
thuật. Nghệ thuật chân chính đừng bao giờ bằng lòng với vẻ đẹp hư ảo, vờn vẽ kiểu
Chiếc thuyền ngoài xa. Nghệ thuật chính là cuộc đời và nghệ sĩ cần có cái nhìn
nhiều chiều trước cuộc sống.
+ So sánh mối quan hệ giữa các nhân vật: Phùng và Đẩu là kiểu nhân vật tự
ý thức. Cả hai đều có sự chuyển biến trong nhận thức về cuộc đời và nghệ thuật.
Đối với Phùng qua hai phát hiện đầy nghịch lí anh đã hiểu ra chân lí về mối quan
hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Đây là kiểu nhân vật tư tưởng của nhà văn. Đối với
Đẩu, chính cuộc đối thoại với người đàn bà nhẫn nhục, thất học đã khiến Đẩu hiểu
ra một điều mà không cuốn sách luật nào đề cập: rằng trong cuộc đời này con bao
nhiêu ngang trái; rằng cuộc đời vốn thế, ngổn ngang phi lí nhưng đôi khi con người
phải chấp nhận những điều phi lí đó. Còn người đàn bà và lão chồng đều là nạn
nhân của cái đói, cái nghèo; chị em thằng Phác – nạn nhân của bạo lực gia đình.
+ Phân tích được mô hình tổ chức của văn bản: Cấu trúc của tác phẩm được
xây dựng dựa trên các mặt đối lập: nửa đầu của truyện là cái đẹp nhìn bên ngoài,
cái đẹp của thiên nhiên thuần khiết, nửa sau của tác phẩm là sự đối nghịch, là bức
tranh cuộc đời loang lổ trắng đen, xấu tốt; Các tình huống truyện cũng sự đối lập:
bên ngoài – bên trong, nghệ thuật – cuộc đời; Tính cách của các nhân vật cũng
được xây dựng trên các mặt đối lập: người đàn bà hàng chài; người đàn ông vũ
phu; thằng Phác, viên chánh án Đẩu; kể cả nhân vật kể chuyện tôi – Phùng đều có

những mặt đối lập. “Nhân vật không trùng khít với chính nó” – đây chính là quan
điểm mới mẻ của Nguyễn Minh Châu trong cái nhìn đa dạng về con người.
+ Đưa ra được kết luận chung về văn bản: Qua hai phát hiện nghịch lí, qua
câu chuyện của người đàn bà vùng biển, qua sự chuyển đổi nhận thức của Phùng và
Đẩu nhà văn định hướng cách tiếp cận cuộc đời cho người nghệ sĩ, cách nhìn đời
cho con người nói chung.
- Phản hồi và đánh giá các thông tin trong văn bản:
+ Cảm xúc của tác giả: luôn trăn trở về cuộc đời, cuộc sống của từng con
người qua đó cho ta thấy rõ tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
+ Làm rõ phong cách của tác giả: tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thế
sự trong phong cách Nguyễn Minh Châu: tình huống độc đáo, ngôn ngữ điêu luyện,
giọng kể khách quan…
- Vận dụng:
+ Tìm đọc các văn bản ngoài chương trình, giải quyết được các vấn đề trong
cuộc sống như: vấn đề bạo lực gia đình, tìm được những giải pháp nâng cao đời
sống (tinh thần) cho con người, hoàn cảnh gia đình và sự hình thành nhân cách của
22


những đứa con…; Tìm đọc những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu sau 1975 (Bến
quê, Bức tranh), so sánh với sáng tác của Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Tuân và
những truyện viết trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ
(Vợ chồng A Phủ, Rừng xà nu; Những đứa con trong gia đình…) để thấy rõ được
phong cách độc đáo cũng như quan niệm về nghệ thuật và cuộc đời của ông. Đồng
thời cũng thấy được sự “mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học Việt Nam
đương đại”.
+ Viết sáng tạo:
Nếu là chánh án Đẩu, anh (chị) sẽ ứng xử như thế nào trước những lý do mà
người phụ nữ vùng biển ấy đưa ra? Hãy viết một bài luận ngắn trình bày các giải
pháp của anh (chị) cho vấn đề bạo hành gia đình?

So với một số tác phẩm của các tác giả khác viết trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ (Vợ chồng A Phủ, Rừng xà nu, Những đứa con
trong gia đình,…), Chiếc thuyền ngoài xa cho thấy những đổi mới nào của Văn học
Việt Nam sau năm 1975 (về đề tài, bút pháp, cái nhìn nghệ thuật về con người,…)?
Tóm lại: Cách dạy đọc hiểu giúp học sinh biết cách đọc, cách tiếp cận, khám
phá nội dung và nghệ thuật của văn bản theo các mức độ khác nhau từ đọc đúng,
đọc thông đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo, khơi dậy ở học sinh khả
năng liên tưởng, tưởng tượng, giúp học sinh thực sự được đắm mình trong thế giới
văn chương. Từ đó, khơi dậy ở các em tình cảm mang tính thẩm mỹ, biết hướng tới
giá trị chân-thiện-mĩ. Việc dạy đọc hiểu không chỉ rèn luyện cho học sinh năng lực
đọc - hiểu mà còn rèn luyện năng lực tạo lập văn bản đặc biệt là năng lực viết sáng
tạo. Tức là học sinh có khả năng trình bày, thể hiện suy nghĩ, cảm nhận của bản
thân trước đối tượng, vấn đề đặt ra.
1.1.2. Phương pháp dạy học tích hợp
Với phương pháp này tôi dự kiến sẽ thực hiện việc tích hợp theo hai hướng:
tích hợp các phân môn trong môn Ngữ văn và tích hợp với các môn học khác có
liên quan để phục vụ công tác dạy học. Do chương trình môn Ngữ văn đã được
biên soạn theo tinh thần tích hợp các phân môn, vì vậy giáo viên phải chú trọng
giữa dạy văn với tiếng Việt và làm văn. Với bài học này tôi cũng sẽ thực hiện trên
tinh thần đó.
1.1.2.1. Tích hợp trong phân môn
a) Tích hợp với tiếng Việt và làm văn
Thông qua việc đọc – hiểu văn bản Chiếc thuyền ngoài xa GV cần kết để rèn
luyện tiếng Việt và kĩ năng tạo lập văn bản nhằm giúp học sinh phát triển và nâng
cao năng lực sử dụng tiếng Việt và năng lực thưởng thức văn học. Ví dụ cụ thể như
sau:
* Ví dụ 1: Đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi: “Trước mặt tôi là một bức tranh
mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu
23



sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu
vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui
khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái
mắt lưới và tấm lưới giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh
một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp,
một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối,
trong tim như có cái gì bóp thắt vào”.
- Hãy đặt tiêu đề cho đoạn văn trên?
- Đoạn văn trên tác giả chủ yếu sử dụng những biện pháp nghệ thuật nào?
- Giọng điệu chủ đạo của đoạn văn trên là gì?
* Ví dụ 2: Cho đoạn văn: “Ngay lúc ấy, chiếc thuyền đâm thẳng vào trước
chỗ tôi đứng, Một người đàn ông và một người đàn bà rời chiếc thuyền. Họ phải
lội qua một quãng bờ phá nước ngập đến quá đầu gối. Bất giác tôi nghe người đàn
ông nói chõ lên thuyền như quát: “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày
đi bây giờ”. Chắc chắn họ không thấy tôi. Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi, một
thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch.
Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới. tái ngắt và dường
như đang buồn ngủ. Người đàn ông đi sau. Tấm lưng rộng và cong như một chiếc
thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông
mày cháy nắng rũ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm
lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà.”
- Xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn văn trên?
- Xác định phương thức biểu đạt được sử dụng trong đoạn văn trên?
- Đoạn văn trên được viết theo giọng kể của ai?
- Người đàn bà trong đoạn trích trên được miêu tả như thế nào? Nhận xét về
ngoại hình và tính cách của bà ta? …
* Ví dụ 3: Về nhân vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu, có ý kiến cho rằng: nét nổi bật ở người nghệ si này là một tâm
hồn nhạy cảm và say mê cái đẹp thơ mộng của cảnh vật. Ý kiến khác thì nhấn

mạnh: vẻ đẹp sâu xa của nghệ si Phùng chính là một tấm lòng đầy trăn trở, lo âu
về thân phận con người. Từ cảm nhận của mình về nhân vật Phùng, anh/chị hãy
bình luận những ý kiến trên.
Như vậy bằng việc trả lời được các câu hỏi trên học sinh đã được củng cố
kiến thức về tiếng Việt và làm văn.
b) Tích hợp chủ đề:
* Ví dụ 4: Vì sao trong lúc cảm nhận vẻ đẹp của bức tranh, Phùng lại nghĩ
đến lời đúc kết của một ai đó: “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”? Hãy lí giải và
liên hệ vấn đề với quan niệm của một số nhà văn khác khi họ cũng bàn đến tác
dụng của nghệ thuật, của cái đẹp?
24


Để giải quyết vấn đề này học sinh cần có sự liên hệ đến quan niệm về cái đẹp
của các nhà văn khác như: Thạch Lam: “Văn chương không phải là cách đem đến
cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới
thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể vừa tố cáo, thay đổi thế giới giả dối, tàn
ác vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”; Nguyễn Tuân: qua
chi tiết cuối truyện Chữ người tử tù “Ngục quan cảm động,vái người tù một cái mà
dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái linh”
Với truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa đã thể hiện quan điểm nghệ thuật của
Nguyễn Minh Châu rất rõ: nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc
sống, phục vụ cuộc sống; tài năng và tấm lòng của nghệ sĩ là những nhân tố không
thể thiếu được trong sự sáng tạo nghệ thuật. Mối quan hệ giữa văn học và đời sống
luôn là vấn đề nóng bỏng. Trước năm 1945, trong truyện ngắn Trăng sáng, qua
nhân vật Điền, Nam Cao đã quan tâm đến vấn đề muôn thuở này: “văn chương
không cần và không nên là ánh trăng lừa dối. Văn chương chỉ có thể là những
tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”. Hay Vũ Trọng Phụng cũng đã
tuyên bố: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết, còn tôi và các nhà văn cùng
chí hướng với tôi muốn tiểu thuyết phải là sự thực ở đời”

Ngoài ra trong cách xây dựng nhân vật và tình huống truyện ta còn thấy
Chiếc thuyền ngoài xa còn có sự gặp gỡ với các nhân vật trong sáng tác của Nam
Cao như: Chí Phèo, Hộ, Từ trong Đời thừa và Chí Phèo?
*Ví dụ 5: “Nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc đời. Nghệ thuật
chính là cuộc đời và phải luôn luôn vì cuộc đời”. Quan niệm này của Nguyễn Minh
Châu gợi chúng ta nhớ đến những nhà văn nào có cùng quan niệm hoặc khác quan
niệm với ông?
* Ví dụ 6: Có ý kiến cho rằng: sự nhẫn nhục của nhân vật Từ (Đời thừa Nam Cao) không đáng trách, chỉ đáng thương; còn sự nhẫn nhục của người đàn bà
hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu) thì vừa đáng thương vừa
đáng trách. Từ cảm nhận của mình về hai nhân vật này, anh/chị hãy bình luận ý
kiến trên.
Trong chương trình Ngữ văn 12 học kì II, học sinh được học rất nhiều truyện
ngắn được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, mỗi tác
phẩm đều là những tiêu biểu cho thành tựu văn học các giai đoạn. Học sinh nắm
được các kiến thức về đề tài, nhân vật, giá trị hiện thực và nhân đạo, quan điểm
nghệ thuật về con người… Giáo viên cũng cần tích hợp kiến thức về đặc trưng thể
loại, đề tài, giá trị hiện thực và nhân đạo, quan niệm nghệ thuật về con người để
cho học sinh thấy được sự sáng tạo của mỗi nhà văn, mỗi thời kì. Đặc biệt là thấy
được sự đổi mới của văn học sau 1975.
* Ví dụ 7: So với một số tác phẩm của các tác giả khác viết trong hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ (Vợ chồng A Phủ, Rừng xà nu,
25


×