1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong nhiều năm qua, phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” của các
trường tiểu học trên địa bàn huyện Lệ Thủy luôn được chú trọng. Song không
phải địa phương nào, trường nào, giáo viên nào cũng thực hiện tốt vấn đề này.
Viết chữ đẹp là mong muốn của tất cả cán bộ, giáo viên, học sinh và của cả phụ
huynh học sinh nữa. Chữ viết cũng là một môn học, là kiến thức, nhất là ở Tiểu
học, bởi vì: “Nét chữ nết người”, dạy chữ là dạy người. Chữ viết sẽ góp phần
rèn luyện đạo đức và tính cách con người. Dạy cho các em viết đúng, viết cẩn
thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, thận trọng trong
công việc cũng như trong học tập, lòng tự tin của bản thân.
Học chữ chính là công việc đầu tiên khi các em đến trường. Tiểu học là
bậc học nền tảng, dạy Tiếng Việt và tập viết chữ Việt là chúng ta đã trao cho
các em chìa khóa để mở ra cánh cửa để bước vào tương lai. Chữ viết là công cụ
dùng để giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương tiện để ghi chép và tiếp nhận
những tri thức văn hóa khoa học và đời sống... Do vậy, ở trường tiểu học, việc
dạy học sinh viết chữ và từng bước làm chủ được công cụ chữ viết để phục vụ
cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng hàng đầu của môn Tiếng Việt.
Đồng thời chữ viết chính là cơ sở, là nền tảng để học tốt các môn học khác.
Mục tiêu của chúng ta là giúp cho trẻ “Đọc thông Viết thạo”. Trẻ đọc thông
viết thạo sẽ giúp trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, học tốt hơn. Chính vì vậy, việc giữ
vở, rèn chữ cho học sinh Tiểu học có một tầm quan trọng rất lớn. Hơn nữa, nhìn
những trang vở của các em học sinh với những dòng chữ đều tăm tắp, vở sạch
đẹp thì cha mẹ và thầy cô đều vui và chính các em cũng thấy thích thú là động
lực giúp các em ham thích học tập. Thật vậy, hiện nay “Giữ vở rèn chữ” là một
vấn đề đáng quan tâm trong nhà trường.
Ngày nay chúng ta đang ở trong thời đại mới, thời đại công nghệ thông tin
bùng nổ, mọi người thường ngồi vào chiếc máy vi tính để soạn thảo văn bản
thay vì cầm bút viết ngay trên giấy. Chính vì lẽ đó mà nhiều năm nay việc rèn
chữ của người học không được chú trọng. Ở các trường Tiểu học nói chung và
1
trường chúng tôi nói riêng, trong những năm học gần đây, tình trạng học sinh
viết chữ chưa đúng chuẩn là một thực trạng đáng báo động. Thậm chí nhiều
giáo viên không chú trọng vào công tác rèn chữ, giữ vở cho học sinh; chữ viết
của nhiều giáo viên còn chưa đúng quy cách. Chữ viết của các em học sinh tiểu
học chưa được đẹp, chưa đúng mẫu, sự liên kết giữa các nét chữ hoặc liên kết
giữa các chữ cái chưa chuẩn, tốc độ viết còn chậm, học sinh sử dụng nhiều loại
bút nhiều màu mực để viết bài, vở của các em còn quăn góc, bao bọc chưa
thẩm mỹ, .... nên còn hạn chế trong việc giữ gìn vở sạch viết chữ đẹp. Đây là
một phần quan trọng có ảnh hưởng lớn đến chất lượng học sinh và được các
trường quan tâm. Nâng cao chất lượng giờ dạy để học sinh viết đúng, viết
nhanh, viết đẹp thì phong trào “Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp” mới có chất lượng.
Với những lí do trên, chúng tôi đã mạnh dạn áp dụng “Một số biện pháp
chỉ đạo phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” nhằm nâng cao chất lượng
phong trào này ở trường tôi công tác.
1.2. Điểm mới của sáng kiến
Ở sáng kiến này chúng tôi đưa ra một số biện pháp tích cực phù hợp với
đặc điểm của địa phương, của nhà trường về phong trào “Giữ vở sạch, viết
chữ đẹp” trong giai đoạn hiện nay. Từ đó quản lý và chỉ đạo có hiệu quả
phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” trong trường tiểu học, phát hiện và
bồi dưỡng học sinh có năng khiếu về chữ viết tham gia có hiệu quả Hội thi
Viết chữ đẹp cấp huyện, tỉnh, cấp quốc gia.
1.3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến kinh nghiệm
Sáng kiến kinh nghiệm đã được áp dụng trong đơn vị và có thể áp dụng
được trong nhiều trường tiểu học.
2
2. NỘI DUNG
2.1. THỰC TRẠNG VIỆC CHỈ ĐẠO – QUẢN LÝ PHONG TRÀO “GIỮ VỞ SẠCH,
VIẾT CHỮ ĐẸP”, BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU VỀ CHỮ VIẾT CỦA ĐƠN
VỊ
2.1.1. Tình hình chung của trường
Để tìm hiểu thực trạng về phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” trong
nhà trường, ngay từ đầu năm học chúng tôi đã tiến khảo sát ý kiến của 15 giáo
viên, 25 phụ huynh và 236 học sinh lớp 2,3,4,5 trong toàn trường. Qua mẫu phiếu
điều tra chúng tôi đã thu được kết quả như sau:
Bảng 1. Tầm quan trọng của việc rèn chữ viết trong nhà trường
Tầm quan trọng của việc rèn chữ
Số lượng giáo
viết trong trường Tiểu học
Rất quan trọng
Quan trọng
Không quan trọng
viên
12
3
0
Tỷ lệ ( %)
80,0
20,0
0
Qua bảng thống kê trên tôi nhận thấy: Không có giáo viên nào cho rằng
việc rèn chữ viết trong trường tiểu học là không quan trọng, điều này cho thấy
đội ngũ đã nhận thức tốt về vai trò và tầm quan trọng trong việc rèn chữ viết
cho học sinh tiểu học. Đây là điều kiện thuận lợi góp phần tích cực đến chất
lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường.
Bảng 2. Sự quan tâm của phụ huynh đối với việc rèn chữ viết của con em
Mức độ quan tâm của phụ
huynh học sinh
Rất quan tâm
Quan tâm
Ít quan tâm
Số lượng phụ
huynh
8
9
8
Tỷ lệ ( %)
32,0
36,0
32,0
3
Không quan tâm
0
0
Qua thực tế công tác và lập phiếu khảo sát chúng tôi có thể khẳng định
rằng những năm gần đây nhiều bậc phụ huynh đã quan tâm, đầu tư nhiều cho
con em mình về học tập, về chữ viết, 32% phụ huynh thấy được tầm quan
trọng của việc rèn chữ viết cho con em mình. Có 36% phụ huynh quan tâm, tuy
nhiên vẫn còn một bộ phận (32%) phụ huynh chưa thật quan tâm đến vấn đề
này
Bảng 3. Kết quả khảo sát chất lượng chữ viết đầu năm của học sinh
(kĩ năng chính tả)
Kĩ năng
Tốc độ đạt yêu cầu
Chữ viết rõ ràng, viết đúng cỡ chữ, kiểu
chữ
Số lượng học
sinh
196
Tỷ lệ ( %)
83,1
173
73,3
Trình bày đúng quy định, viết sạch, đẹp
201
85,2
Viết đúng chính tả
191
80,9
Bảng thống kê cho thấy số học sinh viết đảm bảo tốc độ 196 em, tỉ lệ
83,1%, chưa đảm bảo tốc độ vẫn còn 40 em tỉ lệ 16,9%. Số học sinh chữ viết rõ
ràng, viết đúng cỡ chữ, kiểu chữ 173 em, tỉ lệ 73,3%, số em chữ viết chưa rõ
ràng, chưa viết đúng cỡ chữ, kiểu chữ 63 em, tỉ lệ 26,7%. Số em trình bày đúng
quy định, viết sạch, đẹp 201 em, tỉ lệ 85,2%, số em trình bày chưa đúng quy
định, bài viết còn bẩn 35 em, tỉ lệ 14,8%. Số em viết đúng chính tả 191 em, tỉ lệ
80,9%, số em viết còn sai từ, chưa đúng chính tả 45 em, tỉ lệ 19,1%. Nhìn chung,
chất lượng phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp’ chưa tốt so với các trường
bạn.
Từ việc tìm hiểu tình hình của đơn vị và thực tế chỉ đạo chúng tôi rút ra
được những thuận lợi, khó khăn trong quá trình chỉ đạo và quản lý phong trào
“Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” ở đơn vị như sau:
Thuận lợi:
4
Đa số giáo viên đã nhận thức tốt về vai trò và tầm quan trọng trong việc
rèn chữ viết cho học sinh tiểu học; nhiệt tình, có tinh thần đoàn kết thống nhất
cao, có giáo viên chuyên trách, nghiệp vụ sư phạm vững vàng.
Những năm gần đây các bậc phụ huynh đã quan tâm, đầu tư nhiều cho
con em mình về học tập.
Nhiều học sinh có ý thức rèn chữ viết, giữ gìn sách vở sạch đẹp.
Khó khăn:
Điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động dạy và học còn thiếu
thốn.
Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, một bộ phận không nhỏ phụ
huynh chưa quan tâm đến việc rèn chữ viết cho con em.
2.1.2 Thành công – hạn chế
Những thành công của đơn vị chúng tôi trong những năm qua trong phong
trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” đó là:
+ Kế hoạch nhà trường đề ra đầu năm học đều được thực thi hiệu quả.
Phụ huynh học sinh rất tích cực cùng với nhà trường tham gia các cuộc thi về
“Nét chữ, nết người” do các cấp tổ chức, số lượng phụ huynh cùng tham gia với
nhà trường ngày càng tăng. Cha mẹ học sinh sẵn sàng hỗ trợ vật chất, tinh thần
giúp học sinh tham gia thi tốt.
+ Có nhiều HS đạt giải cao trong các hội thi “Nét chữ, nết người” cấp tỉnh
và cấp Quốc gia. Số lượng HS đạt giải được tăng dần qua hằng năm.
+ Việc huy động xây dựng cơ sở vật chất phục vụ dạy học đã được các
tổ chức, cá nhân và phụ huynh trên địa bàn đồng tình.
Bên cạnh những thành công, còn một số hạn chế:
+ Một bộ phận giáo viên, phụ huynh và học sinh chưa nhận thức đúng tầm
quan trọng của việc rèn chữ viết trong giai đoạn hiện nay, chưa tích cực hưởng
ứng phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” của lớp, của trường.
+ Trong quá trình dạy phân môn Tập viết, một số GV chưa chú ý đến các giải
pháp kĩ thuật phù hợp để hướng dẫn cho học sinh viết.
+ Cơ sở vật chất phục vụ dạy học tuy có tăng trưởng nhưng vẫn chưa đáp
ứng được đầy đủ nhu cầu dạy và học, trong đó có dạy phân môn Tập viết.
5
+ Còn nhiều học sinh chữ viết chưa đẹp, chưa chú ý rèn chữ viết, giữ gìn vở
sạch, đẹp.
+ Công tác quản lí, chỉ đạo phong trào “Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp” của
Lãnh đạo nhà trường đôi lúc chưa quyết liệt.
+ Các giải thưởng phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” đôi lúc chưa khích
lệ, lôi cuốn được giáo viên, phụ huynh và học sinh tham gia.
2.2. BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHONG TRÀO “GIỮ VỞ
SẠCH, VIẾT CHỮ ĐẸP” TRONG NHÀ TRƯỜNG
Trường chúng tôi là một trong hai trường tiểu học trong xã, số lượng học
sinh không nhiều so với các trường tiểu học trong cụm. Những năm gần đây
trường đã được cấp Uỷ đảng, chính quyền địa phương, ngành Giáo dục và Đào
tạo huyện đánh giá rất cao về chất lượng giáo dục toàn diện cũng như chất
lượng mũi nhọn HSGHSNK trong các Hội thi cấp huyện, cấp tỉnh. Có được
những thành quả như vậy là nhờ sự đoàn kết, thống nhất, toàn tâm, toàn ý của
đội ngũ. Là sự tâm huyết, cố gắng lớn từ lãnh đạo đến giáo viên trong việc xây
dựng kế hoạch, quản lý, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra giám sát, xử lý công việc
trong mọi tình huống. Qua thực tiễn chúng tôi rút được những kinh nghiệm trong
việc quản lý, chỉ đạo phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” ở trường tôi công
tác như sau:
2.2.1. Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức cho giáo viên, học sinh và phụ
huynh trong việc rèn chữ viết
Nhà trường đã tổ chức quán triệt và nâng cao nhận thức cho giáo viên, học
sinh và cha mẹ các em về vai trò của chữ viết, vị trí, tầm quan trọng của việc rèn
chữ viết đối với việc hình thành nhân cách, tính kiên trì, tính kỉ luật , chịu khó
của các em trong quá trình học tập. Chữ viết đẹp sẽ tạo hứng thú cho học sinh
trong việc học các môn học khác.
Đầu năm học, chúng tôi tổ chức họp phụ huynh phổ biến kế hoạch hoạt
động của nhà trường trong năm học mới, đồng thời kết hợp tuyên truyền trong
phụ huynh về việc cần phải quan tâm rèn chữ viết cho học sinh của phụ huynh,
xoá bỏ quan điểm không cần rèn chữ viết khi nền khoa học và công nghệ ngày
6
càng hiện đại. Yêu cầu phụ huynh mua sắm đủ các loại học cụ có chất lượng
cho học sinh trong quá trình học tập như: bút, vở, mực, thước kẻ ... Hướng dẫn
phụ huynh dựa vào mẫu chữ ở vở tập viết để kiểm tra và thường xuyên quan
tâm sửa chữa các sai sót cho con em mình.
Chúng tôi đã quán triệt trong giáo viên tầm quan trọng của phân môn Tập
viết, Chính tả, Tập làm văn trong môn Tiếng Việt ở trường tiểu học, để từ đó
giáo viên có ý thức trách nhiệm và sự quan tâm đúng mực khi dạy học các giờ
này. Chúng tôi cho mỗi giáo viên tự nêu được tầm quan trọng của việc rèn luyện
chữ viết cho học sinh đối với chất lượng các môn học khác, từ đó hàng ngày
giáo viên thường xuyên có ý thức quan tâm rèn chữ viết cho các em.
Thông qua giáo viên chủ nhiệm lớp, hoạt động Đội, Sao nhi đồng… tuyên
truyền trong học sinh tác dụng của việc rèn chữ viết đẹp đối với các môn học
khác và việc hình thành nhân cách của các em sau này. Phát động phong trào học
tập gương rèn chữ viết của các học sinh tiêu biểu trong trường.
2.2.2. Biện pháp 2: Chỉ đạo dạy học tốt nội dung phần Tập viết
Với mục đích, nhiệm vụ quan trọng như vậy nên việc tổ chức dạy học tốt
nội dung phần Tập viết được đặt lên hàng đầu đối với mỗi giáo viên. Trước hết
để giúp giáo viên tổ chức dạy học tốt Tập viết, chúng tôi đã triển khai chuyên
đề “Đổi mới Phương pháp dạy học Tập viết”. Qua chuyên đề đã củng cố cho
giáo viên về các biện pháp dạy học chủ yếu trong giờ Tập viết. Đó là phải có
các biện pháp kĩ thuật phù hợp để hướng dẫn cho học sinh viết chữ cái, chữ, câu
đoạn, bài; cách viết liền mạch, cách đặt dấu thanh; Chấm chữa bài tập viết cho
các em một cách cụ thể, giúp các em tự rút ra được ưu, nhược của mình để tự
khắc phục.
Ngoài ra, chúng tôi đã đồng thời thực hiện nhiều biện pháp tích cực tác
động hỗ trợ cho giáo viên như xây dựng môi trường học tập giáo dục phù hợp
với từng khối lớp đặc biệt là lớp 1, 2, 3; tăng cường thiết bị dạy học; tạo điều
kiện cho đội ngũ của mình học tập chuyên môn nghiệp vụ; tăng cường kiểm tra
đánh giá chất lượng dạy học và giáo dục ... của đội ngũ.
2.2.3. Biện pháp 3: Tiến hành tốt công tác chỉ đạo của ban giám hiệu
7
Để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, ngay từ đầu năm học
chúng tôi đã tổ chức phát động phòng trào rèn chữ viết đẹp trong toàn trường.
Thành lập ban chỉ đạo. Xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể, rõ ràng. Phân công
trách nhiệm cho các thành viên trong ban chỉ đạo. Đề ra yêu cầu cụ thể trong các
đợt kiểm tra. Ngoài ra, yêu cầu mỗi học sinh lớp Một phải có một bảng mẫu
chữ thường; học sinh lớp Hai, Ba, Bốn, Năm có một bảng mẫu chữ thường và
chữ hoa lồng trong giấy bóng để tập tô theo mẫu chữ. Nhờ đó mà chữ viết của
các em mềm mại hơn, đẹp hơn.
Tổ chức kiểm tra theo định kì bốn đợt, trong đó đợt 1 và đợt 3 c ăn cứ Công
văn số 539/QDDGD&ĐT ngày 14/9/2012 của Phòng GD&ĐT Lệ Thủy về ban
hành Quy định đánh giá, xếp loại phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” cấp
Tiểu học, giáo viên chủ nhiệm lớp tự kiểm tra và đánh giá, báo cáo kết quả cho
nhà trường. Ban chỉ đạo chỉ kiểm tra xác suất một số lớp để nắm tình hình, có
sự bổ sung, điều chỉnh kế hoạch. Đợt 2 và 4 chúng tôi yêu cầu ban kiểm tra phải
kiểm tra, cân nhắc chặt chẽ để xếp theo thứ tự các lớp, không có sự đồng thứ
giữa các lớp, chú ý đến sự tiến bộ về chữ viết của học sinh trong lớp. Phải tìm
ra được những ưu điểm và tồn tại, nguyên nhân dẫn đến tồn tại, chỉ ra biện
pháp khắc phục cụ thể cho từng lớp qua mỗi đợt kiểm tra. Tổ chức cho giáo
viên nghiên cứu từ thực tế để chọn màu mực phù hợp, chọn bút, vở có chất
lượng và được thống nhất trong toàn trường bằng quy chế chuyên môn.
2.2.4. Biện pháp 4: Tổ chức bồi dưỡng biện pháp kĩ thuật cho giáo viên và
học sinh để nâng cao chất lượng chữ viết
* Đối với đội ngũ giáo viên:
Chúng tôi yêu cầu mỗi giáo viên phải tích cực, nhiệt tình, kiên trì, chịu
khó, có phương pháp khoa học và kinh nghiệm đã được đúc kết trong quá trình
rèn học sinh. Muốn dạy cho học sinh kĩ năng viết chữ đúng yêu cầu, luyện cho
học sinh viết chữ ngày càng đẹp; ngoài việc nắm vững nội dung phương pháp
dạy học, giáo viên còn cần có năng lực thẩm mĩ để cảm nhận được vẻ đẹp của
chữ viết, có khả năng viết chữ đẹp để học sinh noi theo. Vì thế, trong năm
học, chúng tôi tổ chức các tiết thao giảng, mở các chuyên đề, hội thảo về
8
phương pháp dạy và học phân môn Tập viết, Chính tả để giáo viên có điều kiện
trao đổi tìm ra những biện pháp tối ưu nhất giúp đỡ học sinh viết đúng, viết đẹp.
Để làm gương cho học sinh, ngoài việc yêu cầu giáo viên phải viết đúng,
viết đẹp bất kì mọi lúc, mọi nơi; chúng tôi đã chỉ đạo thống nhất cách trình bày
bảng của giáo viên ở từng phân môn và thể loại bài dạy. Cách trình bày ở bảng
của giáo viên cũng là cách trình bày ở vở của học sinh. Đây là vấn đề có tính
quyết định, là nền tảng vững chắc cho việc thực hiện phong trào vở sạch chữ
đẹp của nhà trường. Việc ghi và trình bày bảng lớp luôn đòi hỏi những yêu cầu
về tính khoa học (nội dung chính xác), tính sư phạm (có tác dụng giảng dạy và
giáo dục) và tính thẩm mĩ (viết chữ và trình bày đẹp). Muốn thực hiện tốt những
yêu cầu trên, chúng tôi khuyến khích giáo viên cần thường xuyên có ý thức luyện
tập, rút kinh nghiệm trong viết chữ và trình bày bảng sao cho đạt hiệu quả cao
nhất.
Mục đích quan trọng của việc dạy viết là học sinh viết đúng mẫu chữ quy
định, có kĩ năng viết nhanh, viết đẹp và biết trình bày một bài viết sạch sẽ. Do
vậy, trong quá trình tổ chức bồi dưỡng giáo viên chúng tôi đã chú trọng bồi
dưỡng cho giáo viên nắm chắc các yêu cầu sau:
Tên gọi các nét cơ bản trong khi hướng dẫn học sinh: nét thẳng (thẳng
đứng, thẳng ngang, thẳng xiên); nét cong (cong kín, cong hở, cong phải, cong
trái); nét móc (móc xuôi trái, móc ngược phải, móc hai đầu); nét khuyết (khuyết
xuôi, khuyết ngược) và nét hất.
Biện pháp thực hiện chủ yếu là luyện viết từ dễ đến khó theo từng nhóm
chữ. Người giáo viên phải nắm chắc các nhóm chữ viết để rèn luyện dứt điểm,
đúng trọng tâm. Cụ thể như sau:
* Đối với chữ viết chữ thường có thể chia thành các nhóm sau:
+ Nhóm có nét móc: n, m, i, u, ư, v, r, t.
+ Nhóm có nét khuyết: l, b, h, k, g, y.
+ Nhóm có nét cong và có dấu mũ: a, ă, â, o, ô, ơ, e, ê ...
+ Nhóm các chữ ghép: nh, kh, ch, ngh, ng, ph.
9
* Các nhóm chữ viết hoa cũng tương tự theo cấu tạo nét giống nhau với
mức độ từ dễ đến khó, giáo viên phải lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp.
Ví dụ:
+ Khi dạy nhóm chữ: A, Ă, Â, N, M.
Nhóm chữ viết hoa này chủ yếu tạo bởi nét cong và sự phối hợp hay biến
điệu của những nét cong. Vì vậy khi dạy cần luyện kĩ cách điều khiển đầu bút
để tạo nét cong cho đúng mẫu...
* Đối với chữ số: Việc luyện viết chữ số có phần thuận lợi hơn chữ viết
vì cấu tạo của các số chỉ gồm các nét thẳng và nét cong là chủ yếu. Giáo viên có
thể tiến hành lần lượt các chữ số kiểu 1, kiểu 2 theo mẫu, hoặc luyện viết
trước các chữ số ở nhóm có nhiều nét thẳng, sau đó đến nét cong.
Đặc biệt cần tập trung kiểm soát và tăng cường việc bồi dưỡng cho giáo
viên cách chấm chữa bài trong vở Tập viết và Chính tả. Việc chấm chữa bài cho
học sinh trong vở Tập viết, Chính tả thường phải căn cứ vào mục đích, yêu cầu
đặt ra cho từng bài học theo quy trình, chương trình của từng khối lớp, giáo viên
bắt kỹ lỗi các nét cơ bản ở bài tập viết. Ở bài chính tả, ngoài việc bắt lỗi như
trên, giáo viên phải kiểm tra chặt chẽ hơn quy trình nối nét, cách đánh dấu thanh,
các dấu phụ, cách trình bày của học sinh.
Qua việc chấm bài, giáo viên giúp học sinh tự nhận thức được những ưu
điểm để phát huy, thấy rõ những thiếu sót để khắc phục, sửa chữa; kịp thời
động viên những cố gắng nỗ lực của từng học sinh khi viết chữ. Bên cạnh việc
chấm (bắt lỗi quy trình, nối nét, cách đánh dấu thanh, dấu phụ) giáo viên cần
chú ý kết hợp chữa lỗi và đồng thời ghi lời nhận xét (ngắn gọn) để thể hiện sự
biểu dương hay góp ý, yêu cầu về chữ viết đối với học sinh. Đây là một trong
những yêu cầu nghiêm ngặt của nhà trường buộc giáo viên phải thực hiện.
* Đối với học sinh:
Chúng tôi yêu cầu giáo viên thường xuyên làm tốt công tác giáo dục đạo
đức, nâng cao ý thức rèn chữ viết cho học sinh, thông qua công tác chủ nhiệm
lớp, các hoạt động của Đội và Sao nhi đồng… Bồi dưỡng cho các em tính kiên
10
trì, chịu khó trong học tập cũng như việc luyện chữ viết. Thường xuyên chăm lo
rèn luyện cho các em nền nếp viết chữ rõ ràng và sạch đẹp.
Chúng tôi hướng dẫn giáo viên cần thường xuyên quan tâm hướng dẫn,
nhắc nhở các em một số mặt chủ yếu dưới đây:
Chuẩn bị và sử dụng hợp lí các đồ dùng học tập như: bảng con, phấn
trắng, khăn lau, vở Tập viết, bút chì, bút mực, ….
Thực hiện đúng quy định khi viết chữ từ tư thế ngồi viết, cách cầm bút,
cách để vở, xê dịch vở khi viết, … cho đến cách trình bày bài.
Trên cơ sở hướng dẫn của giáo viên, các em thường xuyên rèn luyện tư
thế của mình khi viết. Ngồi viết phải ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực vào
mép bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách mặt vở 25 30 cm. Cánh tay trái đặt trên mặt
bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay
phải cùng ở trên mặt bàn... Khi viết, các em phải cầm bút và điều khiển bút viết
bằng ba ngón tay (Ngón trỏ, ngón cái, ngón giữa) của bàn tay phải. Đầu ngón tay
trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón tay cái giữ bên trái. Phía bên phải của đầu bút tựa
vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa. Khi viết đặt vở nghiêng so với mép bàn một góc
khoảng 30 0 nghiêng về bên phải.
2.2.5. Biệp pháp 5: Tăng cường điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho việc
rèn chữ viết của học sinh và giáo viên
Rèn kĩ năng viết cho học sinh là một quá trình lâu dài, phức tạp và đòi hỏi
sự nỗ lực cố gắng của cả giáo viên và học sinh. Đặc biệt là kĩ năng viết chữ
đẹp. Đây là một kĩ năng không phải tự nhiên mà có, đòi hỏi sự chăm lo rèn luyện
thường xuyên cho các em, phải dạy cho các em một cách có định hướng và có kế
hoạch.
Ngoài những biện pháp nói trên, học sinh còn cần có những điều kiện thuận lợi
khác hỗ trợ. Đó là:
Đối với nhà trường: Phòng học có đủ ánh sáng cho mọi học sinh ngồi học
theo quy định của vệ sinh học đường. Để đảm bảo đủ ánh sáng trong mùa đông,
chúng tôi đã bắt 8 bóng đèn/phòng học.
11
Bàn ghế đúng quy cách, vừa tầm với học sinh, mỗi bàn chỉ có hai chỗ
ngồi. Bảng lớp đạt tiêu chuẩn chống loá, treo ở độ cao vừa phải, cạnh dưới của
bảng ngang tầm đầu của học sinh ngồi trong lớp.
Trang bị cho mỗi lớp một tủ đựng sách vở, học cụ dùng chung.
Đối với giáo viên: Có bảng mẫu chữ viết theo quy định của Bộ Giáo dục
và Đào tạo, có bộ chữ mẫu để giáo viên minh hoạ.
Đối với học sinh: Đồ dùng học tập phải đầy đủ như giấy, vở, bút, bảng
con, phấn, thước... đạt tiêu chuẩn quy định. Thống nhất sử dụng một loại mực
(mực xanh); một loại bút viết (bút viết nét hoa), một loại vở có chất lượng cao,
không bị nhoè khi viết. Mỗi học sinh có một bảng chữ mẫu để tô được lồng
trong giấy bóng theo quy định cụ thể cho từng khối lớp.
2.2.6. Biệp pháp: Tiến hành tốt phong trào thi đua và tổ chức Hội thi viết
chữ đẹp cấp trường
Kinh nghiệm cho thấy, nếu chỉ dạy chữ qua các giờ học chính khoá thì
mới chỉ dừng lại ở mức độ rèn học sinh viết đúng. Muốn học sinh có chữ viết
đẹp, giáo viên cần phải sử dụng thời gian ngoài giờ lên lớp để tổ chức cho học
sinh tự rèn luyện chữ viết của mình. Đồng thời phải xây dựng được phong trào
thi đua Viết chữ đẹp trong toàn trường. Chính vì thế nên đầu năm học nhà
trường phối kết hợp với Liên đội tổ chức phát động phong trào thi đua " Giữ vở
sạch Viết chữ đẹp" trong toàn trường. Phong trào được duy trì trong suốt năm
học. Tổ chức kiểm tra theo các đợt kiểm tra định kì và đột xuất. Hàng tuần, hàng
tháng thông qua các buổi chào cờ, sinh hoạt tập thể, hội họp… có những nhận
xét đánh giá cụ thể về phong trào luyện viết chữ trong giáo viên, học sinh. Chọn
những học sinh có chữ viết đẹp để nhà trường nhân bản gửi về các lớp để các
em có điều kiện tham khảo, học tập chữ viết của bạn. Bên cạnh đó, các bài chữ
viết đẹp còn dùng để trưng bày trong giang trưng bày sản phẩm của Ngày hội
học sinh tiểu học được tổ chức hằng năm.
Nhà trường tổ chức Phần thi “Nét chữ Nết người” trong Ngày hội học
sinh tiểu học, qua đó đánh giá phong trào “Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp của các
12
lớp và tuyển chọn những bài đạt giải Nhất của các khối tham gia dự thi cấp tỉnh.
Hằng năm, trường đều có học sinh đạt giải cấp tỉnh và cấp Quốc gia.
2.2.7. Biện pháp 7: Tăng cường công tác quản lí chỉ đạo trong phong trào
“Giữ vở sạch, viết chữ đẹp”
Chúng tôi chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm thực hiện nghiêm túc công tác
chấm chữa theo TT 22/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là các phân
môn Tập viết, Chính tả và Tập làm văn. Sau đó ghi kết quả của từng học sinh ở
mỗi tuần vào sổ theo dõi chấm chữa và có công bố rõ ràng cho học sinh để các
em kịp thời sửa chữa, khắc phục sai sót đồng thời động viên, khích lệ tính thi
đua của học sinh. Ban giám hiệu nhà trường kiểm tra thường xuyên bằng nhiều
hình thức: nghe báo cáo, kiểm tra đột xuất bài viết; kiểm tra chữ viết thông qua
kiểm tra vở Tập viết, Chính tả, Luyện viết chữ đẹp của giáo viên và học sinh
để nắm bắt chính xác những thông tin, kịp thời tuyên dương những em có chữ
viết đẹp, có sự tiến bộ trong các giờ chào cờ đầu tuần để động viên phong trào.
Tổ chức đánh giá phong trào "Vở sạch chữ đẹp" theo từng đợt, từng học kì và cả
năm học một cách nghiêm túc, chặt chẽ. Trong đó tiêu chí đánh giá về chất
lượng chữ viết được đặt lên hàng đầu. Kết thúc mỗi năm học, giáo viên, tổ
chuyên môn và nhà trường tổ chức rút kinh nghiệm, chọn những bài tập viết đẹp
lưu giữ lại phòng truyền thống của nhà trường để làm tư liệu nhân rộng phong
trào cho những năm tiếp theo.
2.3. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Áp dụng một số kinh nghiệm này trường chúng tôi đã đạt được nhiều kết
quả đáng khích lệ trong năm học 2018 – 2019, đó là:
Về nhận thức: Cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh và phụ huynh đã
thấy rõ vai trò quan trọng của việc rèn chữ viết và tích cực hưởng ứng phòng
trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” của trường. Việc phối hợp giữa các tổ chức
trong và ngoài nhà trường nhằm hướng tới hội thi “Nét chữ, nết người” của các
cấp ngày càng chặt chẽ có hiệu quả.
Về kết quả:
13
Bảng 4. Kết quả chất lượng chữ viết cuối năm của học sinh lớp
2,3,4,5 (kĩ năng chính tả)
Kĩ năng
Số lượng học
Tốc độ đạt yêu cầu
Chữ viết rõ ràng, viết đúng cỡ chữ, kiểu
sinh
227
210
chữ
Trình bày đúng quy định, viết sạch, đẹp
Viết đúng chính tả
226
223
Tỷ lệ ( %)
96,2
89,0
95,8
94,5
Bảng thống kê cho thấy: Số học sinh viết đảm bảo tốc độ 227 em (tăng 31
em), tỉ lệ 96,2% (tăng 13,1%), tuy nhiên số học sinh viết chưa đảm bảo tốc độ
vẫn còn 9 em (giảm 31 em) tỉ lệ 3,8% (giảm 13,19%). Số học sinh chữ viết rõ
ràng, viết đúng cỡ chữ, kiểu chữ 210 em (tăng 37 em), tỉ lệ 89,0% (tăng 15,7%),
số em chữ viết chưa rõ ràng, chưa viết đúng cỡ chữ, kiểu chữ 26 em (giảm 37
em), tỉ lệ 11% (giảm 15,7%). Số em trình bày đúng quy định, viết sạch, đẹp 226
em (tăng 25 em), tỉ lệ 95,8% (tăng 10,6%), số em trình bày chưa đúng quy định,
bài viết còn bẩn 10 em, tỉ lệ 4,2% (giảm 10,6%). Số em viết đúng chính tả 223
em (tăng 32 em), tỉ lệ 94,5% (tăng 13,6%), số em viết còn sai từ, chưa đúng chính
tả 13 em (giảm 32 em), tỉ lệ 5,5% (giảm 13,6%). Kết quả thống kê phản ánh
chất lượng chữ viết của học sinh bước đầu có tiến bộ so với kết quả khảo sát
đầu năm, điều này cho thấy các biện pháp chúng tôi áp dụng bước đầu có hiệu
quả.
Kết quả kiểm tra, đánh giá phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” cuối
năm học 2018 – 2019 của Ban kiểm tra nhà trường: Có 12/12 lớp đạt chuẩn
phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp”, tỉ lệ 100%.
Có 99 học sinh và 12 tập thể lớp đat gi
̣ ải trong Ngày hội viết chữ đẹp
cấp trường
Có 02 giải nhất, 01 giải Nhì, 02 giải Ba và 01 giải Khuyến khích Hội thi
“Nét chữ, nết người” cấp tỉnh
Có 01 giải Khuyến khích cuộc thi “Nét chữ, nết người” cấp Quốc gia
14
3. PHẦN KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến
Trường Tiểu học là cái nôi đầu tiên giáo dục trẻ em khi các em bước vào
tuổi đi học. Chính vì lẽ đó, chúng ta cần phải coi trọng việc rèn luyện cho học
sinh các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, đặc biệt là việc rèn chữ viết. Bởi vì, nét
chữ là nết người, một khi đã trở thành thói quen viết không đúng thì sau này lớn
lên khó sửa chữa được. Sáng kiến này nhằm mục đích nói trên.
Qua triển khai sáng kiến ở cơ sở bước đầu đã thu được những kết quả sau:
Đã đưa ra được một số biện pháp chỉ đạo phong trào “Giữ vở sạch, viết
chữ đẹp” nhằm nâng cao chất lượng dạy học cho giáo viên và học sinh, góp
phần nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt và đổi mới nội dung,
phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, linh hoạt và sáng
tạo của học sinh.
Việc áp dụng các biện pháp nêu trên cho thấy bước đầu các biện pháp này
đã đem lại hiệu quả và có tính khả thi.
Song bên cạnh đó, sáng kiến này còn một số hạn chế nhất định :
Các biện pháp trên mới chỉ áp dụng tại đơn vị mà tôi đang công tác. Những
kết quả đạt được chỉ là những kết quả bước đầu. Chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên
cứu, điều chỉnh, bổ sung các giải pháp phù hợp nhằm góp phần đưa chất lượng
phong trào “Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp” của nhà trường ngày một nâng cao.
3.2. Đề xuất
Nên chăng cần tổ chức các chuyên đề sinh hoạt chuyên môn về rèn chữ
viết để trao đổi, rút kinh nghiệm (trong tổ, trong trường hoặc liên trường)
Những kết quả đạt được của sáng kiến mới chỉ là bước đầu. Chúng tôi sẽ
tiếp tục nghiên cứu để khắc phục những hạn chế và mở rộng phạm vi ứng
dụng của sáng kiến. Rất mong được sự trao đổi, góp ý của chuyên môn các cấp,
đồng nghiệp và bạn bè để giúp tôi hoàn thiện sáng kiến này.
Xin chân thành cảm ơn !
15
16