Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TỔNG QUAN VỀ VƯỜN QUỐC GIA BA BỂ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.18 KB, 23 trang )

TỔNG QUAN VỀ VƯỜN QUỐC GIA BA BỂ - BẮC KẠN
2.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển VQG Ba Bể
Lịch sử hình thành VQG Ba Bể được tính từ năm 1977 theo Quyết Định số 41-
TTg ngày 24/1/1977 của Thủ tướng Chính phủ chính thức công nhận Ba Bể là khu văn
hoá lịch sử. Quan điểm trên được tái khẳng định trong Nghị Định 194/CP, ngày
9/8/1986 của Chủ tịch HĐBT giao cho Bộ Lâm Nghiệp và các cơ quan chức năng tiến
hành khảo sát và xây dựng dự án đầu tư cho Ba Bể thành VQG.
Năm 1992, Viện Điều tra quy hoạch rừng đã hoàn thành việc xây dựng dự án
đầu tư thành lập VQG Ba Bể. Dự án đã được Chính phủ phê duyệt và Vườn Quốc gia
Ba Bể được chính thức thành lập từ 10/11/1992 theo quyết định số 83/TTg của Thủ
tướng Chính phủ. Chức năng nhiệm vụ của Vườn là: bảo tồn các nguồn gen động, thực
vật, các hệ sinh thái, cảnh quan môi trường; tổ chức, quản lý, phục vụ nghiên cứu khoa
học, du lịch dịch vụ.
Theo các nhà địa chất, Vườn Quốc gia Ba Bể nằm trong vùng caxtơ Chợ Rã Ba
Bể - Chợ Đồn, gồm khối đá vôi Givet (kỷ Đề vôn giữa) nằm trên phiến đá Protezel và
bên cạnh là khối đá hoa cương đã trải qua chế độ lục địa khoảng 200 triệu năm. Điều
này khẳng định sự già nua của địa hình caxtơ ở đây khác với những nơi khác. Độ cao
trung bình của núi đá vôi là 800 - 900 m so với mặt biển và quá trình diễn biến địa chất
phức tạp vẫn tiếp tục xảy ra.
Trước đây, Vườn Quốc Ba Bể thuộc tỉnh Cao Bằng, sau khi tái lập tỉnh, Vườn
nằm trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn (1997). Từ năm 1997 đến năm 2002, Vườn Quốc gia Ba
Bể chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ Nông Nghiệp & Phát triển Nông thôn. Đến cuối
năm 2002, VQG Ba Bể được giao cho UBND tỉnh Bắc Kạn quản lý (Quyết định số
51/2002/QĐ-TTg ngày 17/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ v/v chuyển VQG Ba Bể
thuộc Bộ NN và PTNT về UBND tỉnh Bắc Kạn quản lý). Hiện nay, tổng số cán bộ nhân
viên của Vườn có 65 người, cùng với 20 lao động hợp đồng. Giúp việc cho Ban quản lý
có các đơn vị trực thuộc là Hạt kiểm lâm, Trung tâm du lịch, và các phòng chức năng.
Tại khu trung tâm Vườn đã có hệ thống đường giao thông đi lại tốt, có cơ sở vật chất
đảm bảo yêu cầu làm việc của Ban quản lý. Hiện có tất cả 11 trạm kiểm lâm bảo vệ
rừng được bố trí tại các điểm quan trọng ở trong và dọc theo ranh giới Vườn.
Trong kế hoạch Hành động ĐDSH (1994) đã đề xuất mở rộng VQG Ba Bể lên


50.000 ha. Năm 1995, dự án đầu tư mở rộng Vườn được xây dựng với diện tích đề nghị là
23.340 ha. Tuy nhiên cho đến nay dự án này vẫn chưa được Bộ NN&PTNN phê duyệt.
Trong danh sách các khu rừng đặc dụng Việt Nam quy hoạch đến năm 2010, diện tích của
VQG Ba Bể đề xuất là 23.340 ha, trong đó có 13.373 ha rừng tự nhiên.
Trong Vườn có các dân tộc Tày, Nùng, Dao, H’Mông, và Kinh sinh sống lâu đời
tại các bản làng xung quanh (vùng đệm) và bên trong Vườn, đan xen trong các thung
lũng núi đá vôi và bên bờ hồ. Hoạt động kinh tế chính của họ là canh tác lúa nước. Tuy
nhiên diện tích ruộng không đủ. Nhiều người trong số họ vẫn lén lút kiếm sống bằng các
hoạt động săn bắt, khai thác lâm sản trái phép trong VQG. Bên cạnh đó là các hoạt động
mưu sinh tương tự của những cộng đồng sinh sống ở vùng đệm, nhất là các thôn bản nằm
dọc theo các đường chính dẫn vào vùng trung tâm Vườn.
Điểm nhấn của VQG Ba Bể là Hồ Ba Bể. Hồ Ba Bể là địa điểm du lịch khá nổi
tiếng, hàng năm đã thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan
và nghỉ dưỡng. Cùng với hệ thống sông suối trong vùng, hồ Ba Bể còn đóng vai trò
quan trọng đối với sự giao lưu đi lại của người dân địa phương. Hồ cũng là nơi cung
cấp nguồn thuỷ sản quan trọng cho nhân dân địa phương và giữ vai trò to lớn trong việc
điều tiết lũ sông Năng. Hồ Ba Bể có nhiều chức năng kinh tế và môi trường quan trọng
đối với các địa phương trong vùng và các vùng lân cận.
Do tăng cường công tác quản lý bảo vệ nên rừng đang được phục hồi, chiếm trên
85% diện tích. Số lượng các loài chim thú xuất hiện ngày càng nhiều. Bên cạnh các loài
động, thực vật quý hiếm tìm thấy trước đây, nay đã xuất hiện Voọc đen má trắng ven hồ
và dọc sông Năng. Tuy nhiên, do có nhiều dân cư sống xen kẽ trong vùng lõi và xung
quanh Vườn, đời sống kinh tế chưa được cải thiện, tập quán canh tác lạc hậu nên đã tạo sức
ép khá lớn từ phía cộng đồng đối với công tác bảo tồn VQG.
Vườn cũng đang tiến hành đầu tư xây dựng các công trình cơ bản phục vụ bảo
tồn và dân sinh như làm đường giao thông ở vùng đệm giúp dân ở 3 xã phía Tây không
phải đi xuyên qua Vườn, nâng cấp tuyến đường tuần tra bảo vệ kết hợp du lịch sinh
thái. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng và trang thiết bị vẫn chưa đáp ứng yêu cầu quản lý bảo
vệ. Trình độ cán bộ nhân viên của Vườn trên các lĩnh vực được phân công còn nhiều
hạn chế. Các chương trình điều tra nghiên cứu, giám sát sinh cảnh và đa dạng sinh học

chưa được triển khai thường xuyên.
Cuối năm 2004, Vườn quốc gia Ba Bể cùng với ba Vườn Quốc gia khác của Việt
Nam là Hoàng Liên ở Lào Cai, Chư Mom Ray ở Kon Tum và Kon Ka Kinh ở Gia Lai
được công nhận là Vườn di sản ASEAN. Đây là một danh hiệu có giá trị về phát triển
du lịch, nghiên cứu khoa học, văn hóa, giáo dục của ASEAN.
2.2. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội
2.2.1. Điều kiện tự nhiên
Vườn Quốc gia Ba Bể cách Hà Nội 250 km về phía Bắc thuộc địa bàn huyện Ba
Bể, tỉnh Bắc Cạn, bao gồm toàn bộ diện tích đất xã Nam Mẫu, một phần ở các xã
Khang Ninh, Cao Thượng, Cao Trĩ.
Vườn có tọa độ địa lý: 22
0
30 độ vĩ Bắc, 105
0
36’ độ Kinh Đông. Tổng diện tích
đất đai tự nhiên Vườn đang quản lý là 7.610ha trong đó khu bảo vệ nghiêm ngặt 3.226,2
ha, khu phục hồi sinh thái 4.038,6 ha, khu hành chính dịch vụ 300,2 ha, vùng đệm ước
tính khoảng 42.100 ha.
Vườn Quốc gia Ba Bể nằm trên độ cao từ khoảng 150 đến 1.098 mét so với mặt
nước biển. Về cấu trúc địa chất, chiếm ưu thế là đá vôi với nhiều đỉnh cao lởm chởm,
độ phân cắt lớn, nhiều sườn đồi dốc bao quanh các thung lũng, sông suối. Địa hình núi
đá vôi có nhiều hang động, lớn nhất là Động Puông, dài tới 300m, có sông Năng chảy
qua, tạo nên cảnh quan thiên nhiên đầy vẻ ngoạn mục.
Đặc điểm nổi bật nhất của Vườn Quốc gia Ba Bể là trên địa hình đá vôi có một
hồ nước ngọt - Hồ Ba Bể. Hồ nằm ở vị trí trung tâm của Vườn, có cấu tạo đặc biệt thắt
ở giữa và phình to ở hai đầu. Quanh Hồ là những vách đá, chỗ dựng đứng như một bức
tường, chỗ lại vòng vèo uốn lượn ăn sâu vào các thung lũng làm cho hình dáng hồ rất
độc đáo, hoang sơ. Hồ Ba Bể nằm trong vùng địa hình casto Chợ Rã - Ba Bể - Chợ Đồn
thuộc vùng trũng của khối nâng Việt Bắc. Khối nâng này được hình thành do sự phá
huỷ của khối lục địa Đông Nam Á và cuối kỳ Cambri khoảng 200 triệu năm về trước.

Do có cấu tạo địa chất đặc biệt nên Hồ Ba Bể có những nét riêng biệt so với các hồ
Caxto khác trên thế giới. Chính vì vậy mà Hội nghị Quốc tế về hồ nước ngọt tại Mỹ
tháng 3/1995 đã đưa Hồ Ba Bể là một trong 20 hồ nước ngọt tự nhiên của thế giới cần
được bảo vệ.
Mặc dù chịu ảnh hưởng của 3 con sông thường xuyên chảy vào hồ nhưng nước
hồ thường xuyên xanh và lưu thông với tốc độ dòng chảy 5m/s làm cho hồ Ba Bể vừa
có tính chất sông vừa có tính chất hồ. Hồ có độ sâu trung bình từ 20 - 25m, nơi sâu nhất
là 35m, nơi nông nhất cũng sâu từ 5 - 10m. Về mùa lũ mực nước hồ có thể dao động lên
xuống từ 2,5 – 3m so với mức bình thường Đáy hồ không bằng phẳng mà có nhiều núi
ngầm, hang động là nơi trú ngụ lý tưởng của các loài thuỷ sinh, động vật dưới nước.
Hồ Ba Bể có diện tích là 500ha có sức chứa bình quân 90 triệu m
3
nước có vai
trò rất lớn trong việc phân lũ cho lưu vực sông Năng, Sông Lô tỉnh Tuyên Quang. Khi
lũ sông Năng lớn, hồ Ba Bể là nơi chứa nước; khi lũ hạ, nước hồ lại chảy ra sông Năng
điều tiết giảm lũ cho các lưu vực sông Gâm, sông Lô tỉnh Tuyên Quang. Đây là một giá
trị quan trọng của hồ.
Ba con sông, suối chính đổ nước về Hồ là Sông Tà Han, suối Bó Lù ở phía Tây,
sông Chợ Lèng ở phía Tây Nam. Hệ thống sông suối này hợp thành hệ thuỷ phía Nam
của VQG. Nước Hồ Ba Bể chảy theo hướng Nam - Bắc đổ ra sông Năng, chảy qua
phần phía Bắc của VQG, sau đó tiếp tục chảy theo hướng Tây gặp sông Gâm ở phía
Đông của tỉnh Tuyên Quang.
Vườn Quốc gia Ba Bể nằm trong tiểu vùng khí hậu của vùng Đông Bắc Việt
Nam, lại được che chắn, bao bọc bởi các dãy núi cao như Phja Bjoóc và Phja Dạ nên
khí hậu ở đây khá thuận lợi cho sự phát triển của các loài rừng nhiệt đới. Nhiệt độ trung
bình hàng năm là 22
0
C, nhiệt độ cao nhất trong ngày là 39
0
C, nhiệt độ thấp nhất là 6

0
C,
độ ẩm bình quân hàng năm là 83%, lượng mưa trung bình hàng năm là 1378mm.
2.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Vườn Quốc gia Ba Bể nằm trong địa giới hành chính huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn
nhưng phía Tây lại giáp huyện Nà Hang, tỉnh Tuyên Quang, có chung vùng đệm với
Khu BTTN Nà Hang (xã Đà Vị, huyện Nà Hang). Hiện nay, trong khu bảo vệ nghiêm
ngặt của Vườn có 524 hộ, với 3.200 nhân khẩu, số dân sống trong vùng đệm có hơn
6.000 nhân khẩu.
Các dân tộc sinh sống ở đây có người Tày chiếm 44%, người H’mông chiếm
54%, người Dao, Nùng và Kinh chiếm 2%. Tuy có nhiều dân tộc khác nhau nhưng dân
cư ở đây có tính cộng đồng cao, sống đoàn kết. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hoá độc
đáo riêng của mình. Người Tày thường làm nhà sàn bằng gỗ ở các vùng thấp thuận tiện
cho canh tác nông nghiệp, đánh bắt cá, dệt vải. Người H’Mông, Dao sinh sống trên các
sườn núi cao hay thung lũng chủ yếu canh tác nương rẫy, du canh và săn bắt chim thú
rừng.
Với phương thức canh tác chủ yếu là trồng lúa nước, và canh tác nương rẫy,
người dân ở đây chỉ có thu nhập bình quân mỗi năm khoảng 298kg lương thực quy
thóc, mức thiếu lương thực ở các hộ nghèo là từ 2 đến 4 tháng trong năm. Các khoản
chi tiêu hàng ngày của mỗi hộ gia đình đều lấy từ sản phẩm nông nghiệp và bán các sản
phẩm khai thác từ rừng. Khi không còn dựa vào nghề rừng như hiện nay thì các khoản
tiền đó lấy từ thu nhập sản xuất nông nghiệp (lúa, hoa màu và sản phẩm phụ) và các thu
nhập khác do Nhà nước trợ cấp (nếu có).
Bảng 2.1 Thu nhập của dân cư vùng Hồ Ba Bể
TT Xã Dân số Đất NN bình quân (ha) Thu nhập bình quân năm
2000 (đồng)
1 Nam Mẫu 2802 0.06 450.000
2 Cao Thượng 3189 0,06 350.000
3 Cao Trĩ 2234 0,1 320.000
4 Khang Ninh 3451 0,09 480.000

5 Quảng Khê 2993 0,13 Không có số liệu
6 Đồng Phúc 2573 0,13 650.000
7 Hoàng Trĩ 1221 0,08 Không có số liệu
Nguồn: Số liệu điều tra tháng 8/2000 – Báo cáo đa dạng sinh học VQG Ba Bể.
Đi liền với tình trạng kinh tế còn thấp kém là trình độ dân trí thấp. Trong 7 xã
quanh VQG mỗi xã chỉ có 1 trường tiểu học. Các trường lớp đã xuống cấp, cơ sở vật
chất nghèo nàn, đội ngũ giáo viên thiếu. Tình trạng mù chữ vẫn còn tồn tại ở nhiều bản.
Kết quả điều tra tháng 8/2000 cho thấy còn 11,8% số người đến tuổi không đi học, 4,4%
đạt trình độ cấp III, trình độ cao đẳng đại học không đáng kể (0,1%).
Về cơ sở hạ tầng giao thông, điện nước: Đường ô tô chính - đường 258 - nối
Huyện lỵ với thị trấn Bằng Lũng - Huyện Chợ Đồn chạy cắt ngang qua Vườn. Việc đi
lại từ trung tâm huyện đến VQG là tương đối dễ dàng song giao thông của các xã trong
khu vực Hồ còn gặp nhiều khó khăn. Người dân sống quanh hồ sử dụng thuyền độc
mộc, xuồng máy và đi bộ. Sử dụng thuyền độc mộc trở thành một nét đặc trưng của dân
cư vùng hồ Ba Bể.
Ngành Điện lực Bắc Kạn đã đưa điện lưới quốc gia về khu vực VQG Ba Bể. Tuy
vậy, đến năm 2000 trong số 3197 hộ của 7 xã vùng hồ mới chỉ có 250 hộ của 2 xã
Khang Ninh và Nam Mẫu có điện, chiếm 7,8%. Tại vùng hồ Ba Bể, người dân đã tận
dụng khai thác các nguồn nước để xây dựng thuỷ điện nhỏ.
Như vậy, hiện trạng kinh tế - xã hội các xã quanh VQG cho thấy phần lớn dân cư
còn nghèo. Đi liền với nghèo đói là lạc hậu, trình độ dân trí thấp. Để có thêm miếng ăn,
tăng thêm thu nhập nhiều người bất chấp pháp luật vào rừng khai thác trộm lâm sản.
Mặc dù công tác quản lý bảo vệ của VQG và nhận thức của người dân được nâng lên
song nghèo đói và dân trí thấp vẫn đang là áp lực lớn đối với bảo tồn của VQG. Thực
trạng kinh tế xã hội của vùng đòi hỏi phải nhanh chóng nâng cao đời sống và nhận thức
của người dân thì công tác bảo tồn mới có thể bền vững .
2.3. Giá trị cảnh quan và giá trị đa dạng sinh học của VQG Ba Bể
2.3.1. Giá trị cảnh quan văn hoá lịch sử
Vườn Quốc gia Ba Bể nằm trong vùng có cấu trúc địa chất đặc biệt, có nhiều
đỉnh núi đá vôi cao, độ phân cắt lớn, nhiều sườn đồi dốc bao quanh các thung lũng và

sông suối tạo nên những cảnh quan độc nhất vô nhị mang lại một tiềm năng rất to lớn
để phát triển du lịch sinh thái. Một số địa điểm du lịch danh lam thắng cảnh và di tích
lịch sử văn hoá đáng chú ý gồm:
• Hồ Ba Bể: Đã từ lâu nổi tiếng là danh thắng bậc nhất Việt Nam. Hồ có diện tích khoảng
500 ha, là hồ kiến tạo lớn nhất miền Bắc Việt Nam giữa vùng đá phiến và đá vôi, dài
hơn 8 km, rộng hơn 3 km và sâu khoảng 20 - 30m. Hồ được bao bọc bởi những cánh
rừng nguyên sinh trên núi hùng vĩ và những vách núi đã thẳng đứng với thảm thực vật
đặc trưng tạo nên một thắng cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp.
Xung quanh lịch sử hình thành Hồ có nhiều huyền thoại khác nhau. Truyền
thuyết về sự hình thành Ba Bể nói rằng “Ngày xưa cả khu vực Hồ Ba bể thuộc xã Mẫu
Ninh. Rồi một hôm trời nổi cơn thịnh nộ, mưa đổ ầm ầm, nước sông dâng lên, mặt đất
nứt nẻ và sụp xuống làm cả vùng dân cư đều cuốn theo dòng nước. Duy chỉ có một
người đàn bà độc thân hiền lành chân thật là thoát nạn vì Bà đã được bà Tiên báo trước
trận hồng thuỷ sẽ xảy ra. Theo lời dặn, Bà Goá đã lấy tro rắc quanh nhà và lấy hạt thóc
bà tiên để lại cắn đôi thả xuống hồ biến thành những chiếc thuyền cứu người gặp nạn.
Cả vùng thung lũng trù phú đã biến thành biển nước mênh mông, chỉ còn lại một mảnh
đất nhỏ nhoi là nhà của người đàn bà hiền lành đức độ, người ta gọi đó là Pò Giả Mải
hay Đảo Bà Goá ngày nay.
Không biết trận hồng thuỷ có xảy ra hay không nhưng sự thật một vùng đất sụp để
biến thành mọt hồ nước thì đã được các nhà khoa học chứng minh. Người ta tự hỏi tại sao
giữa vùng núi đá vôi lại có một cái hồ khổng lồ treo lơ lửng (thông thường ở các vùng đá
vôi khác có những khe nứt, nước bị "tuột" xuống thành các dòng sông ngầm). Lý do là đáy
hồ có một lớp đất sét dày tới 200m bịt kín, chính địa tầng đất sét này đã ngăn không cho
nước thoát xuống, và hồ được hình thành như thế.
Gần đây VQG và Uỷ ban di sản Việt Nam đã đệ trình hồ sơ lên Uỷ ban di sản
Thế giới để xét công nhận Hồ Ba Bể là di sản thiên nhiên Thế giới. Trong hồ sơ đệ trình
lên Uỷ ban Di sản thế giới có hai giá trị lớn nhất của Hồ Ba Bể, một là cảnh quan độc
đáo, hai là giá trị nổi bật về địa chất địa mạo. Về giá trị cảnh quan, đây là khu vực thể
hiện rõ rệt dấu ấn lịch sử của các thời kỳ hình thành vỏ trái đất. Về địa chất địa mạo,
đây là một vùng đá vôi cổ rộng lớn, có đặc điểm kiến tạo rất đặc biệt. Ngoài ra có bổ

sung thêm giá trị về đa dạng sinh học của Hồ Ba Bể nói riêng và VQG Ba Bể nói
chung.
Vài năm gần đây, Viện địa chất phối hợp với Hội địa chất Bỉ đã tiến hành nghiên
cứu vùng đá vôi Hồ Ba Bể. Họ khẳng định đây là vùng đá vôi có niên đại 450 triệu
năm. Điều kỳ thú là trong quá trình biến đổi địa chất, đá vôi đã biến thành những mảng
đá hoa cương. Sự xen lẫn giữa hai loại đá này nằm ở hầu hết các khu vực của Hồ Ba Bể
và có thể quan sát được. Theo các nhà địa chất thì việc đá vôi biến thành đá hoa cương
là điều vô cùng độc đáo, ít thấy.
• Vườn Quốc gia Ba Bể: là một di sản thiên nhiên quý giá có diện tích khoảng 7.610 ha.
Đây là một hệ thống rừng nguyên sinh trên núi đá vôi với nhiều loại động, thực vật quý
hiếm như Phượng hoàng đất, Gà lôi, Voọc mũi hếch…Cùng với Hồ Ba Bể, Vườn quốc
gia Ba Bể là một di sản thiên nhiên đẹp vào loại bậc nhất của nước ta cần phải được bảo
vệ và đưa vào khai thác phục vụ cho nhu cầu về nghỉ ngơi, giải trí, giáo dục và nghiên
cứu khoa học.
• Động Puông: Được tạo bởi sông Năng khi nó chảy xuyên qua một núi đá vôi. Động có
chiều dài khoảng 200 m, chiều cao trung bình là 25-30 m với nhiều hình thù, cột đá
hùng vĩ. Trong động còn có đàn dơi hàng chục vạn con sinh sống. Động Puông thực sự
là một điểm du lịch sinh độc đáo, hấp dẫn đối với du khách tới thăm Ba Bể.
• Thác Đầu Đẳng: là nơi tiếp giáp giữa sông Năng với tỉnh Tuyên Quang. Thác Đầu Đẳng
có chiều dài khoảng 2 km, là nơi sông Năng bị chặn lại bởi những tảng đá lớn nhỏ xếp
chồng lên nhau với độ dốc chừng 500 m, tạo thành một thác nước ngoạn mục, kỹ vĩ,
hoà vào phong cảnh rừng nguyên sinh tạo ra một ấn tượng rất đẹp trong lòng du khách.
Tại thác Đầu Đẳng còn xuất hiện loại cá Chiên (nhiều con nặng tới trên 10 kg) là một
trong những loài cá quý, hiếm thấy.
• Ao Tiên là một hồ nước nhỏ rộng chừng 3 ha nằm trên đỉnh núi. Được bao bọc bởi rừng
nhiệt đới nên khí hậu ở đây rất mát mẻ và trong lành. Tương truyền đây chính là nơi các
nàng tiên thường xuống tắm và đánh cờ.
• Đảo An Mạ: Là hòn đảo lớn khum hình mai rùa, trên đảo có một ngôi đền có tên gọi là
đền An Mạ do dòng họ Ma trụ trì. Đền rất thiêng, vị thế đẹp, là nơi tổ chức các lễ hội
truyền thống hàng năm. Theo truyền thuyết sau khi trận đại hồng thuỷ xảy ra, mảnh đất

cuối cùng còn sót lại nằm giữa hồ 2 là nơi an nghỉ của những người xấu số năm xưa.
Nhân dân trong vùng đã lập một đền thờ ở hòn đảo này để tưởng nhớ những người đã
mất. Vì vậy hòn đảo có tên là đảo An Mạ (nơi an nghỉ của dân làng).
• Đảo Bà Goá: nằm cách bến phà chính khoảng 300m, trên đảo có một bia đá lớn khắc
chữ nho mang niên hiệu Khải Định, dưới chân đảo là một bãi tắm lý tưởng với làn nước
được che mát bởi bóng râm của các cây cổ thụ mọc trên đảo vươn thân và cành ra mặt
hồ.
Như vậy, có thể khẳng định giá trị cảnh quan của VQG Ba Bể là rất lớn, cần phải
có sự tính toán để đưa các điểm tham quan vào khai thác thông qua hình thành các
tuyến tham quan. Làm được điều này vừa nâng giá trị của VQG vừa tạo ra nguồn thu
cho ngân sách và hoạt động bảo tồn.
2.3.2. Giá trị đa dạng sinh học
2.3.2.1 Thực vật
Là VQG nằm trong vùng địa lý sinh học Đông Bắc và nhờ có địa hình đa dạng,
núi đất xen núi đá nên thảm thực vật và thực vật rừng có nhiều kiểu đặc trưng riêng.
Theo nghiên cứu của các nhà thực vật thì VQG Ba Bể có ít nhất 5 kiểu rừng:
- Rừng kín lá rộng nhiệt đới thường xanh mưa ẩm nhiệt đới trên núi đá vôi phân
bố ở độ cao từ 400 – 1000m, kiểu rừng này còn không nhiều và đặc trưng bởi các ưu
hợp thực vật là Nghiến, Đinh thối, lát hoa và một số loài họ Dẻ.
- Rừng trên núi đá vôi: Kiểu này tuy còn diện tích lớn nhưng là rừng thứ sinh sau
khai thác chọn nên cấu trúc cũng như tổ thành thực vật rừng đã bị thay đổi, chủ yếu
gồm Thung, Đinh thối. Ven hồ có các loài Trám trắng, Mùng quân, Trâm vối.
- Rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm á nhiệt đới trên núi đất cao trung bình đã
bị tác động phân bố chủ yếu ở độ cao từ 700 đến 1500m. Loại rừng này đã bị khai thác
nhiều lần, cấu trúc rừng bị phá vỡ. Các đỉnh núi cao có Dẻ, Thích, Côm, Lòng mang;
vùng sườn núi có Đinh, Lát, Sấu; vùng phục hồi sau nương rẫy có Hu, Trám, Sòi, Chẹo.
- Trảng cây bụi, cây gỗ mọc rải rác: Loại rừng này chủ yếu ở vùng thấp nơi đất đã
bị thoái hoá do làm nương rẫy. Cây gỗ ở đây có Thôi ba, Thôi chanh, Hồng bì và các
loại cây bụi như Tổ kén, Cò ke.
- Rừng tre nứa: Kiểu rừng nay gặp ở ven hồ gồm Vầu, Trúc sáo. Trên các vách đá

dọc theo sông Năng có nhiều Trúc dây (loài đặc hữu ở Ba Bể).
Khu hệ thực vật ở Ba Bể mang đặc trưng bản địa Bắc Việt Nam với 2 yếu tố cơ
bản như sau:
- Yếu tố bản địa có các họ: Re, Dâu, Trầm, Dẻ Đậu, Trôm, Xoan, Bồ hòn, Bứa…
- Yếu tố di cư gồm:
+ Yếu tố Malaixia - Indo như các loài Chò nâu,
+ Yếu tố Vân Nam, Quý Châu với các họ Đỗ Quyên, Óc chó,
+ Yếu tố Miến Điện, Ấn Độ với các loài Chò Xanh, Thung, Gạo.
Thực vật quý hiếm tiêu biểu cho rừng Ba Bể là tập đoàn Nghiến, Trai, Đinh mọc
trên núi đá vôi; tập đoàn Thung, Gạo, Sấu có đường kính lớn, cao, to từ 20-40m, mọc
xen kẽ ở các thung lũng.
Thực vật đặc hữu của Hồ Ba Bể là loài Trúc dây mọc trên các vách đá, loài tảo
đỏ ở Hồ Ba Bể. Đây là những loài duy nhất chỉ tìm thấy tại VQG Ba Bể.
Theo điều tra ban đầu, chỉ riêng các loài thân gỗ đã điều tra được 600 loài bao
gồm 300 chi, 137 họ và 10 loài nằm trong sách đỏ Việt Nam. Ngoài các loài đặc trưng
điển hình của vùng đá vôi Đông Bắc như Nghiến, Đinh, Trai, Lát còn có hàng trăm loài
phong lan, địa lan, dược liệu, những loài quý hiếm khác đang nằm trong rừng hoặc ven
hồ. Số liệu về thực vật cho thấy tính đa dạng loài thực vật và quan hệ địa lý thực vật tại
VQG Ba Bể là cao nhưng ở đây lại hiếm thực vật cổ nhiệt đới.

×