Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

SKKN: Một số phương pháp giúp học sinh chủ động tích cực trong học tập bộ môn Văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 29 trang )

Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Bộ môn văn là một môn có vị trí quan trọng trong chương trình Giáo dục 
nói chung và trong trường THPT nói riêng, đó là một trong hai môn chính phải 
thi tốt nghiệp và tính điểm hệ số nhân đôi đối với các khối chuyên ban. Chính 
vì vậy, bộ môn Văn có vai trò quan trọng quyết định tới kết quả của học sinh.  
Tuy nhiên, môn Văn đã và đang mất dần vị  trí của mình. Một thực tế  đáng 
buồn rằng: Hiện nay, đa số các em học sinh không thích và yêu môn Văn nữa.  
Vì sao lại như vậy? 
Trong một số trường THPT có hẳn một ban C dành cho các em yêu thích  
các môn Khoa học xã hội nhưng đa số  các em học ban C không phải vì yêu  
thích mà vì không theo được ban A, B nên đành học ban C theo kiểu “Chuột  
chạy cùng sào mới vào ban C”, còn các em yêu thích học Văn thì lại không  
chọn Văn, cho dù có chọn học ban C thì khi thi Đại học các em cũng ít hoặc  
không theo ban C. Theo khảo sát tình hình học tập và tâm tư của các em hiện 
nay phần lớn đều cho rằng học văn không đem lại thu nhập cao, khó xin 
việc... trong khi nhu cầu xã hội đang cần là phát triển về kinh tế, ngân hàng,  
hay các kỹ  sư, bác sĩ… với những trường đang được coi mà “mốt” và thời 
thượng. Vì thế  đa phần học sinh mải mê theo ban A, B mà vô tình “bỏ  rơi”  
ban C. Các em học Văn theo kiểu “chống đối” chỉ học đủ điểm để lên lớp và  
đỗ tốt nghiệp. 
Hiện nay, đa phần học sinh “chống chọi” với môn Văn bằng cách sắm  
cho mình một quyển “Để học tốt” cất sẵn trong cặp, học sinh soạn bài cũng 
chỉ  mang tính chất đối phó với thầy cô…Học sinh không cần đọc văn bản,  
không cần cảm thụ và chỉ cần “tự vệ” bằng cách đó. Thậm chí, học sinh còn  
không cần quan tâm tới điểm số  của môn học vì bản thân các em không cho 
môn Văn là quan trọng với mình. Một bộ phận học sinh thích học Văn thì lại 
lắc đầu vì cách dạy Văn của cô giáo khiến cho các em không còn thích và yêu 
Văn nữa. Chính vì vậy người giáo viên dạy văn cần linh hoạt áp dụng các 


phương pháp dạy học mới vào trong quá trình giảng dạy. 
Có rất nhiều giáo viên  ứng dụng công nghệ  vào trong quá trình giảng 
dạy, đây là một hình thức mới gây sự chú ý và tò mò của học sinh đối với bài 
giảng. Tuy nhiên, áp dụng như thế nào cho phù hợp và hiệu quả nhất cũng là  
một vấn đề  khó. Vì nếu giáo viên sử  dụng không khéo học sinh sẽ  chú ý 

1/23


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

nhiều đến hiệu  ứng, phông nền, hình  ảnh mà cô giáo sử  dụng nhiều hơn là  
nội dung bài giảng. 
Và để  soạn thảo một bài dạy bằng PowerPoint giáo viên sẽ  mất rất 
nhiều công chuẩn bị và soạn giảng, chính vì vậy mà đa số  giáo viên rất ngại 
soạn giáo án điện tử, phần lớn giáo viên thường chọn cách giảng truyền  
thống.   Ngoài   việc   ứng   dụng   công   nghệ,   một   số   giáo   viên   cũng   đổi   mới 
phương pháp dạy học của mình, thay vì việc đọc chép các thầy cô để cho học  
sinh chủ  động tiếp cận với văn bản tác phẩm qua các hình thức như: Đóng 
kịch (đối với các vở kịch), đọc phân vai đối với các tác phẩm tự sự…Học sinh  
được tiếp cận tác phẩm theo cách cảm nhận của mình, học sinh trao đổi, 
tranh luận về  các vấn đề  xoay quanh các tác phẩm. Cuối cùng giáo viên là 
người chốt lại vấn đề, định hướng cho học sinh cách hiểu đúng tác phẩm… 
Người  giáo viên dạy Văn phải là một người thực sự  yêu nghề, một  
người nhạy cảm, tinh tế để cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm đồng thời 
cũng là một người dẫn đường để đưa học sinh đến với văn chương. Môn Văn 
là một môn học quan trọng nó không chỉ  cung cấp tri thức cho học sinh như 
các môn học khác mà môn Văn còn góp phần định hướng, hình thành nhân 
cách cho học sinh. Học văn giúp chúng ta biết yêu cái đẹp, ghét cái xấu, giúp 
chúng ta hiểu được giá trị  của cuộc sống. Có ý kiến của một thầy giáo cho  

rằng: Cần trả  lại đúng vị  trí của môn Văn bằng cách đưa môn Văn và môn 
Toán là hai môn thi bắt buộc trong kì thi Đại học, cách đó chắc chắn sẽ  ít  
nhiều đem lại hiệu quả, sẽ giúp học sinh học Văn nhiều hơn nhưng chưa hẳn 
đã khiến học sinh thêm yêu Văn. 
Với mong muốn trong một tương lai không xa, Văn học sẽ  trở  về  vị  trí 
vốn có của nó, tôi mạnh dạn đề  xuất “ Một số  phương pháp giúp học sinh  
chủ động tích cực trong học tập bộ môn Văn”. 
2. Mục đích 
Xuất phát từ  nhu cầu thực tiễn của việc học bộ  môn Văn trong nhà 
trường cũng như  tình hình giảng dạy hiện nay mong muốn  đề  ra một số 
phương pháp để tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy lòng yêu thích môn học trong 
học sinh. Phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong cách học cũng 
như để các em có thể tự do cảm thụ tác phẩm theo cách hiểu của mình không 
gò bó, khuôn sáo. 

2


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

Nhằm tạo ra sự  hợp tác, đối thoại giữa giáo viên và học sinh thông qua 
tác phẩm, khích lệ tinh thần tự học ở học sinh, giúp học sinh hứng thú với bài 
học khi chính các em là người chủ động khám phá tác phẩm. 
Học sinh được phát huy nhiều khả năng của mình trong quá trình chuẩn 
bị  bài, tham gia các hoạt động trong tiết học cũng như  được quyền bày tỏ 
chính kiến của mình về tác phẩm trước tập thể. 
Xây dựng một không khí học tập sôi động với tinh thần chung là thỏa 
mái, nhẹ nhàng, không áp lực, không căng thẳng nhưng vẫn đạt được những 
hiệu quả nhất định. 
3. Đối tượng và phạm vi thực hiện

Học sinh khối 10 (10A7, 10A8), 11 (11A10) trong phạm vi giáo viên giảng 
dạy ở trường THPT.
4. Kế hoạch nghiên cứu
Thực hiện đề tài trong năm học: Từ tháng 8 năm 2014 đến tháng 4 năm 
2015
5. Phương pháp thực hiện
Sử  dụng phương pháp liên ngành kết hợp giữa văn học, lịch sử  và giáo 
dục lối sống, rèn luyện các thao tác kỹ năng mềm cho học sinh. 
Áp dụng những kĩ năng và nguyên tắc chung về chuyên môn để tiến hành 
thực hiện các tiết học theo đúng quy trình và yêu cầu của bộ giáo dục.
6. Ý nghĩa của đề tài
Với đề  tài  “Đề  xuất một số  phương pháp giúp học sinh chủ  động,  
tích cực trong học tập bộ  môn Văn”  giúp cho quá trình giảng dạy có một 
bước thay đổi phù hợp với yêu cầu thực tiễn của việc học và dạy hiện nay.
Góp phần vào quá trình đổi mới trong dạy học nâng cao khả  năng tiếp 
cận văn bản của học sinh, tạo môi trường học tập sôi nổi, chủ động, tích cực  
làm tăng khí thế học tập của học sinh trong môi trường học tập nói chung.
       Góp phần vào sự  đổi mới phương pháp trong môi trường sư  phạm nói  
chung.

3/23


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

B. PHẦN NỘI DUNG
I. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận
Bàn về  vị  trí của người thầy, W.A.Walde cho rằng:   “Thầy giáo bình  
thường chỉ biết thuật lại, thầy giáo giỏi thì giải thích, thầy giáo xuất sắc thì  

chứng minh, còn người thầy vĩ đại thì mở lối chỉ đường”. Quả là, người thầy 
đạt đến độ  vĩ đại phải là người biết “mở lối chỉ đường”, tức là biết gợi mở 
cho học sinh học tập, biết đánh thức tiềm năng nơi học sinh và đặc biệt là rèn 
luyện cho học sinh tính tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập. Hiện nay,  
trong các trường học, phương pháp giảng dạy của các thầy cô đã được đổi 
mới. Quan điểm lấy học sinh là trung tâm, giáo viên chỉ là người hướng dẫn,  
gợi mở đã đem đến cho giáo dục những thành tích đáng kể.
Với học sinh, hành trình đến với chân trời tri thức là con đường đẹp đẽ 
nhưng cũng rất gian nan. Để có thể đi đến đích nhất thiết phải chọn cho mình  
một thái độ học tập đúng đắn và hợp lí. Nhà bác học Đác Uyn từng nói: “  Tất  
cả  những gì có giá trị  một chút tôi đều thu nhận được bằng cách tự  học”. 
Vậy tự  học là gì? Là phương pháp lấy sự  chủ  động, tích cực của bản thân 
người học làm yếu tố cốt lõi, căn bản. Nhất là với phương pháp này, người 
học có thể  lựa chọn được những gì phù hợp với năng lực và nhu cầu bản 
thân. Trên cơ sở  lựa chọn  ấy, người tiếp nhận cũng sẽ  lựa chọn tốt nhất và 
vận dụng hiệu quả nhất kiến thức thu được cho những mục đích học tập cụ 
thể. Đây chính là con đường, cách học hiệu quả  để  chiếm lĩnh tri thức lớn  
nhất làm giàu vốn hiểu biết của bản thân.
Đổi mới phương pháp dạy học là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới giáo  
dục trung học hiện nay. Luật Giáo dục (Điều 28) đã nêu: Phương pháp giáo  
dục phổ  thông phải phát huy tính tích cực, chủ  động, tự  giác, sáng tạo của  
học sinh; phù hợp với đặc điểm của lớp học, môn học; bồi dưỡng phương  
pháp tự  học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động  
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.  Như vậy, tích 
cực hóa chính là một tập hợp các hoạt động nhằm chuyển biến vị  trí của 
người học từ  thụ  động sang chủ  động, từ  đối tượng tiếp nhận tri thức sang  
đối   tượng   tìm   kiếm   tri   thức   để   nâng   cao   hiệu   quả   học   tập.   Tất   cả   các 
phương pháp nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh đều được 
coi là phương pháp dạy học tích cực.
4



Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

2. Cơ sở thực tiễn
Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy rằng: Đa số  các em học sinh 
đến với môn Ngữ  Văn không phải vì yêu thích mà xuất phát từ  những động 
cơ khác nhau (đối phó, bị ép buộc, để đáp ứng một điều kiện nào đó trong thi 
cử, hay để
đánh giá kết quả học tập...). Bởi vậy, hầu hết các em học sinh đến với môn  
Ngữ 
Văn đều có thái độ  thờ  ơ, thiếu tích cực và chủ  động trong học tập. Thái độ 
này biểu hiện chủ yếu ở các phương diện sau:
Trong việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp: Hiện nay, việc giảng dạy bộ 
môn Ngữ  Văn của hầu hết các giáo viên trong trường THPT đều gặp khó 
khăn trong việc đảm bảo khung thời gian theo quy định (mất thời gian cho  
việc đọc văn bản và gợi mở), khó khăn trong việc khơi gợi và định hướng cho 
học sinh...Điều này  xuất phát từ thực trạng chuẩn bị bài và hoàn thiện bài tập 
trước khi đến lớp. Đa phần các em ít đọc văn bản, soạn bài và hoàn thiện bài 
tập trước khi đến lớp. Thậm chí, còn có những em không bao giờ  đọc văn  
bản, soạn bài hay làm bài tập. Cũng bởi vậy mà học sinh thường lơ  mơ  và  
không biết gì (dù là những điều cơ bản nhất như: tên tác phẩm, tác giả, nhân  
vật chính hay tóm tắt tác phẩm...) khi đi vào tìm hiểu tác phẩm.
Ví dụ: Trước khi học bài "Chữ  người tử  tù", tôi hỏi: tác giả  của tác 
phẩm là ai? Xuất xứ? Nhân vật chính? Học sinh chẳng những trả  lời sai mà 
còn không trả  lời được: Tác giả  là Nam Cao. Và không trả  lời được hai vế 
còn lại.
Trong việc học tập  ở  trên lớp: Bên cạnh một số  học sinh tích cực và  
hứng thú với tiết học thì đa phần các em rất thờ  ơ, thiếu tích cực trong việc 
tiếp thu và xây dựng bài học. Trong tiết học, có em thì ngủ  gật, có em thì  

mang các môn khác ra học, có em thì nói chuyện chứ không tập trung vào bài  
học và định hướng của giáo viên...Đặc biệt, sự hợp tác của học sinh với giáo 
viên là rất hạn chế. Học sinh ít xung phong xây dựng bài hoặc bày tỏ  quan 
điểm ý kiến riêng của bản thân. Nếu bị giáo viên gọi thì học sinh thường có 
chung câu trả lời: Em không biết; em chưa nghĩ ra; hoặc là em cũng có ý kiến 
giống bạn... Và nếu tiếp tục nhận được sự  gợi mở  từ  giáo viên thì học sinh 
thường ít tập trung và quan tâm đến lời định hướng ấy. Thậm chí, có những  
đơn vị  kiến thức rất cơ  bản, có sẵn trong sách giáo khoa, giáo viên chỉ  rõ 
đoạn, rõ trang và học sinh biết nhưng cũng không có một cánh tay nào xung  
5/23


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

phong. Trong quá trình luyện tập và củng cố  bài học: Học sinh rất lười làm 
bài, lười suy nghĩ. Việc mà các em thường làm trong hoạt động này là: ngồi 
chờ, nói chuyện và chép bài sau khi giáo viên chữa.
Xuất phát từ  thực trạng trên, tôi đã tiến hành khảo sát và thu được kết  
quả như sau: 

6


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

Bảng thống kê kết quả học tập
Sĩ số

Trước thử nghiệm (Đầu học kì I)


Lớp
Giỏi

10A7

44

10A8

40

11A10

37

khá

Trung bình Yếu

3

10

27

4

(6,8%)

(23%)


(51%)

(9,2%)

2

8

24

6

(5%)

(20%)

(60%)

(15%)

0

5

26

6

(0%)


(13,5%)

(70,3%)

(16,2%)

Bảng thống  kê kết quả khảo sát về thái độ học tập bộ môn
Trước thử nghiệm (Đầu học kì I)
Lớp

Sĩ số
Chủ động

10A7

44

10A8

40

11A10

37

Thụ động

Thờ ơ


10

30

4

(22,5%)

(68,5%)

(9%)

8

29

3

(20%)

(72,5%)

(7,5%)

4

23

10


(10,8%)

(62,2%)

(27%)

7/23


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

 II.  M
  ỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP CHỦ YẾU 
1. Quy trình thực hiện phương pháp tạo sự tích cực chủ động trong học 
sinh
1.1. Quy trình hình thành ý tưởng
Xây dựng môn học theo cách thức tập trung mọi hoạt động về  phía học 
sinh xuất phát từ chương trình giáo dục kỹ năng nhóm trong các sinh hoạt tập  
thể  hiện nay. Giáo viên cũng giống như  người điều khiển chương trình có 
nhiệm vụ điều hành một tiết học hay một buổi thảo luận mà trung tâm không 
phải là mình. Xuất phát từ thực tiễn các hoạt động đội, nhóm trong các phong  
trào cho thấy học sinh rất hứng khởi với cách thức chơi mà học, đa phần học  
sinh hiện nay thích tự  mình khám phá, tìm hiểu môn học và muốn được thể 
hiện mình hơn là bị  áp đặt từ  nhiều phía. Với xu hướng phát triển không 
ngừng của hệ  thống Internet như hiện nay để  học sinh tự  tìm hiểu bài bằng 
nhiều phương thức là một vấn đề  không khó mà còn tạo ra được một sân 
chơi trong giờ học cho các em. 
Theo xu thế  phát triển chung của xã hội, học sinh không chỉ  đơn thuần 
trong suy nghĩ mà các em luôn muốn được khẳng định mình trước tập thể 
nhất là sự cạnh tranh trong điểm số giữa các nhóm hay vì màu cờ sắc áo của 

nhóm mình mà học sinh càng hăng say trong các tiết học. Để thu hút được học 
sinh vào bài giảng cần có một hình thức học tập phù hợp với tâm lý lứa tuổi 
và môi trường học tập của học sinh một cách cụ  thể  như: thuyết trình nhóm 
bằng hình thức đối đáp qua lại giữa các học sinh, thuyết trình nhóm bằng  
mẩu chuyện vui xoay quanh bài học, kịch hóa tác phẩm theo cách cảm nhận 
riêng của học sinh vẫn giữ được nội dung nhưng mang màu sắc và tính chất 
đổi mới tùy theo cách nhìn tác phẩm của các em. 
Thông thường, học sinh hiện nay vốn hiếu động không thích bị gò ép vào  
những khuôn mẫu nhất định nên việc mở  rộng vấn đề  hay tóm lược vấn đề 
của bài học theo cách truyền thống đã không còn có sự  phù hợp. Học sinh  
luôn đòi hỏi học nhưng phải được đi đôi với chơi, do đó việc kết hợp giữa  
hình thức học và một số trò chơi lồng ghép xoay xung quanh bài học sẽ có tác  
dụng giúp học sinh nắm được cốt lõi của bài và ấn tượng về bài học. Có thể 
nói các chương trình truyền hình ngày càng nở rộ với rất nhiều Game show và 
bản thân học sinh có đã có cả một hệ thống các Game vừa chơi, vừa học cho  
8


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

thấy cách học truyền thống xuất phát từ  một phía có thể  làm học sinh dễ 
nhàm chán và bỏ rơi bộ môn Văn. Học sinh luôn có nhu cầu chơi cao hơn học  
do đó đưa các trò chơi vào bài học vừa giúp học sinh phát huy được tính năng 
động, tích cực trong bài học của mình đồng thời làm cho các em không còn 
cảm thấy nhàm chán với bộ môn Văn.
1.2. Quy trình thực hiện ở mỗi lớp
Để thực hiện được phương pháp học mà chơi trước hết giáo viên phải là  
người có sự  đầu tư  suy nghĩ, có sự  đầu tư  về  thời gian và biết cách tổ  chức 
nhóm hoạt động cũng như có sự thay đổi trong giáo án giảng dạy. 
Tùy vào điều kiện và hoàn cảnh mỗi lớp cũng như không khí học tập hay  

tâm lý học sinh trong lớp dạy mà có cách thức thực hiện sao cho phù hợp, kế 
hoạch giảng dạy theo hình thức mới phải được đưa ra trao đổi thảo luận và  
bàn bạc giữa giáo viên và lớp ngay từ đầu năm học. Giúp học sinh nắm được 
cách thức học tập một cách cụ  thể, chi tiết và tạo cho các em nguồn hứng 
khởi giống như đang bước vào một thế giới mới ngay từ đầu. Học sinh cũng 
cần được bày tỏ quan điểm của mình về cách dạy và học phù hợp với các em, 
theo đó giáo viên sẽ điều chỉnh cách dạy sao cho học sinh thấy hứng khởi theo  
đúng tâm lý các em đồng thời người dạy cũng  phải suy nghĩ để  tạo ra cách 
thức để giảng dạy mới. 
Giáo viên cần khơi gợi sự tò mò cho học sinh về cách thức học tập theo 
mô hình mình đặt ra và liên tục duy trì khí thế trong lớp học bằng sự thay đổi 
không ngừng, biến hóa qua mỗi tiết. Từng bước dẫn dắt học sinh vào bài  
giảng bằng chính sự  hoạt động của các em, kích thích tinh thần học tập của  
học sinh bằng chính khả năng của học sinh. Với những học sinh có khả năng  
hài hước sẽ được phân công chuẩn bị những mẩu chuyện vui gần với bài học 
tạo tinh thần thỏa mái, hứng khởi trong lớp học. Giáo viên cũng phải tự trang 
bị cho mình những câu chuyện thú vị  để  ứng biến với bài giảng và bản thân 
giáo viên cũng phải tự  mình họa theo các em nhưng chỉ  dừng lại  ở  mức độ 
nhất định. Học sinh đang trong lúc vui vẻ  sẽ  bị  giáo viên đặt những câu hỏi 
bất ngờ  xoáy vào bài học theo hình thức đi từ  xa đến gần có thể  bằng một 
loạt những câu hỏi trắc nghiệm buộc các em phải phản ứng nhanh để ghi cho  
mình những điểm cộng. Với rất nhiều phương pháp được áp dụng tùy thuộc  
vào thời lượng bài giảng theo quy định trong mỗi tuần sẽ  đưa ra hình thức 

9/23


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

phù hợp do đó làm kích thích tính chủ  động trong tiếp cận bài học của học 

sinh phù hợp với tâm lý lứa tuổi. 
1.3  Quy trình thí nghiệm các phương pháp
Từ  quá  trình  hình  thành   ý  tưởng  tới  khi  thực  hiện  phải  trải  qua  thử 
nghiệm bằng cách thức tiến hành tại một vài lớp nhất định trong thời gian hai 
tuần đầu tiên về  các cách thức giảng dạy theo ý tưởng của giáo viên. Cần  
xem xét đánh giá được mức độ  hoạt động của từng lớp để  chon ra những  
phương pháp cuốn hút các em cho phù hợp. Chẳng hạn với các lớp học sinh 
thích hoạt động theo phương thức làm nhóm học tập, giáo viên cần phân chia  
nhóm và giao trách nhiệm công việc cụ thể cho các thành viên trong nhóm đó  
khuyến khích tính sáng tạo của nhóm bằng các điểm cộng thêm ngoài phần 
điểm theo quy định. 
Tuy nhiên, có một số  lớp học sinh lại có thiên hướng  ưa hoạt động cá  
nhân, với những lớp này cần thiết là tổ  chức giảng dạy theo hình thức phát 
huy vai trò của cá nhân trong các tiết học bằng phương thức tổ chức các game 
nhỏ  nhỏ  giống như  giải ô chữ, đoán nội dung hay tìm câu chủ  điểm, tìm ý  
chính…với hình thức này học sinh phát huy được tính chủ  động của cá nhân 
mỗi học sinh. Cũng có thể mở rộng hoạt động chơi với tác phẩm  đối với các 
lớp chỉ thích hoạt động theo nhóm nhỏ  3 tới 5 học sinh, mỗi nhóm này sẽ  tự 
chuẩn bị câu hỏi xoay xung quanh nội dung tác phẩm đã được yêu cầu chuẩn 
bị sẵn ở nhà và đưa ra buộc nhóm kia phải trả lời trong thời gian quy định và  
ngược lại, giáo viên sẽ  đóng vai trò giám khảo cho cuộc thi giữa hai bên để 
giảng giải những thắc mắc hay đáp án các em đưa ra chưa thật sự hợp lý. Các 
nhóm khác ngoài hai nhóm nhỏ này sẽ được cộng điểm bổ sung nếu như câu 
hỏi được nhóm chơi trả lời không chính xác.
Như  vậy, để  có thể   ứng dụng các phương pháp tạo sự  hứng khởi, chủ 
động trong học sinh giáo viên cần phảo có sự  thí điểm trước  ở  từng lớp và 
thực hiện theo từng giai đoạn sao cho phù hợp với tình hình học tập chung  
của lớp đó.
2. Phương pháp cụ  thể giúp học  sinh chủ động tích cực trong học  tập 
bộ môn Ngữ Văn

2.1. Hoạt động nhóm học tập lớn

10


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

Giáo viên tiến hành chia nhóm học tập ngay từ đầu năm học thường là 10 
thành viên, đặt tên cho mỗi nhóm theo ý muốn của mình, biến mỗi học sinh  
trở thành một giáo viên trong tiết học của mình cụ thể như sau:
Giáo viên hướng dẫn nhóm học sinh chuẩn bị  bài trước khi lên lớp bao 
gồm tất cả các nội dung sẽ  nói đến trong bài học từ  phần giới thiệu cho tới  
khi kết thúc. Phần chuẩn bị  này bắt buộc tất cả  các học sinh phải chuẩn bị 
nhưng mỗi tổ  sẽ  chuyên sâu hơn nội dung của tổ  mình. Các buổi trình bày 
của học sinh được phân theo các tổ học tập trong lớp bắt đầu từ  tổ  đầu tiên  
đến tổ cuối cùng, mỗi thành viên trong tổ phải lên trình bày bài giảng ít nhất 
một lần theo hình thức xoay vòng, có thể là trên lớp với phương tiện là phấn,  
bảng, có thể  là sử  dụng phòng nghe nhìn thiết kế  nội dung bài giảng bằng 
Powerpoint và trình bày theo cách chuẩn bị của mình.
Trong khi một học sinh trong nhóm học tập đóng vai trò giáo viên lên 
giảng bài thì các thành viên còn lại sẽ theo dõi nội dung bài giảng để chuẩn bị 
cho cuộc thảo luận xoay quanh nội dung học sinh vừa trình bày. Đối với 
những bài giảng văn học, học sinh vừa kết hợp thuyết trình vừa đặt ra các câu 
hỏi ngược lại cho các tổ  khác cùng suy nghĩ để  sau khi kết thúc phần bài 
giảng của nhóm mình, học sinh thuyết trình sẽ  yêu cầu các nhóm còn lại trả 
lời câu hỏi. Sau phần trả lời các câu hỏi của các nhóm khác, thành viên trong 
nhóm thuyết trình; phải có nhận xét trước câu trả lời và giảng giải về câu hỏi 
của mình đặt ra. Phần trình bày của học sinh kết thúc, toàn thể  lớp sẽ  dành 
một tràng pháo tay thật lớn để  chúc mừng bạn mình đã hoàn thành và bắt đầu 
vào cuộc thảo luận với những nội dung: 

Nhận xét ưu và khuyết điểm của người trình bày, nội dung trình bày, các  
em phải học kỹ năng khen trước chê sau.
Các tổ  còn lại sẽ  thay phiên nhau đặt câu hỏi cho tổ  có thành viên vừa 
trình bày, các thành viên trong tổ trình bày phải có nhiệm vụ bảo vệ bài giảng  
của mình bằng cách đưa ra các luận điểm để  cho các nhóm khác thấy được 
sự  chuẩn bị  kĩ lưỡng của nhóm mình cho đến khi giáo viên thấy  ổn thì bắt  
đầu nhận xét và đặt thêm câu hỏi cho người thuyết trình để xem mức độ hiểu  
bài tới đâu. Học sinh sẽ  ghi phần nội dung bài giảng sau khi đã có sự  chọn 
lọc, chốt ý của giáo viên. Trong phần này giáo viên đóng vài trò dẫn dắt, điều  
khiển các hoạt động của học sinh để nội dung bài học đi đúng hướng và đúng 
thời gian cho phép.
11/23


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

Ví dụ  minh họa: Khi hướng dẫn học sinh giải quyết bài tập 1 – tiết 
“Ôn tập văn học trung đại Việt Nam” – Sách giáo khoa ­  Ngữ Văn 11 – Tập 1  
(trang 77), Tôi tiến hành phương pháp thảo luận nhóm. Hoạt động nhóm diễn 
ra như sau:
Quá trình chuẩn bị: 
Hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà:
Giáo viên hướng dẫn các nhóm học sinh ( 4 nhóm) lập bảng 
thống kê các tác giả, tác phẩm trong chương trình Ngữ  Văn lớp  
11 gồm các cột: Thứ  tự, tác giả, tác phẩm, thể  loại, nội dung,  
đặc sắc nghệ  thuật, giai đoạn, ghi chú. Phần  ghi chú học sinh  
ghi rõ tác phẩm thể hiện chủ yếu đặc điểm lớn nào về nội dung 
của văn học trung đại (chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo,  
cảm hứng thế sự). Bảng thống kê thể hiện trên giấy khổ lớn để 
lớp có thể theo dõi.

Học sinh chuẩn bị bảng thống kê các tác phẩm văn học trung đại 
đã làm khi tổng kết phần văn học trong chương trình 10 mang 
đến lớp để có dữ liệu so sánh.
Thực hành trên lớp:
Giáo viên yêu cầu các nhóm học sinh treo bảng thống kê theo mẫu vào 
những vị trí đã chuẩn bị sẵn. 
Ví dụ:

12


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

TT

1

TÁC 
PHẨM,  THỂ
TÁC 
LOẠI
GIẢ

Vào 
Kí 
phủ 
trung 
chúa 
đại
Trịnh(

Thượng 
kinh   kí 
sự)   – 
Lê  Hữu 
Trác.
........

NỘI DUNG 
CHÍNH

ĐẶC SẮC 
NGHỆ THUẬT

GIAI 
ĐOẠN

­ Bức 
tranh   sinh 
động về  cuộc 
sống   xa   hoa 
quyền   quý 
nơi   phủ   chúa 
Trịnh   và   thái 
độ  coi thường 
danh   lợi   của 
tác giả.
­ .....

­ Quan   sát 
tỉ   mỉ,   ghi   chép 

trung   thực,   tả 
cảnh   sinh 
động, lựa chon 
chi   tiết   đặc 
sắc,   đan   xen 
tác   phẩm   thơ 
ca.
­ ...........

Văn   học 
thế   kỉ 
XVII   – 
Nửa   đầu 
thế   kỉ 
XIX
...............
.

GHI CHÚ

Cảm 
hứng   thế 
sự
.................
.

Sau đó, giáo viên gọi một số học sinh của các nhóm đọc nội dung thống 
kê từng tác phẩm nhóm mình đã làm, cứ  như  thế  cho đến hết. Ví dụ 
học sinh A đọc thống kê về đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, học sinh B 
trình bày tiếp về tác phẩm Tự tình..

Giáo viên hướng dẫn học sinh rút ra nhận xét từ  bảng thống kê bằng  
cách đặt câu hỏi cho 4 nhóm:
Nhóm 1:  Vậy nhìn vào bảng trên, em nhận thấy so với giai đoạn  
trước, nội dung yêu nước trong văn học Trung Đại Việt Nam  ở  
giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX có những biểu hiện gì  
mới?
Nhóm 2:  Từ  các tác phẩm của Hồ  Xuân Hương, Nguyễn Công  
Trứ, kết hợp với một số tác phẩm văn học trung đại giai đoạn thế  
kỉ  XVIII đến hết thế  kỉ  XIX, em có nhận xét gì về  nội dung nhân  
đạo trong văn học trung đại Việt Nam ở bước phát triển này?
Nhóm 3:  Cảm hứng thế  sự  đã được thể  hiện như  thế  nào trong  
đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”?
13/23


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

Nhóm 4:  Tại sao nói với Văn tế  nghĩa sĩ Cần Giuộc thì lần đầu  
tiên trong văn học dân tộc có một tượng đài bi tráng và bất tử  về  
người anh hùng nông dân nghĩa sĩ? 
Học sinh các nhóm lần lượt trả  lời và cuối cùng giáo viên tổng kết,  
đánh giá cho điểm.
2.2. Game show học tập
Với phương pháp này có rất nhiều hình thức tiến hành, có thể thực hiện  
sau phần thuyết trình của các nhóm đã kết thúc, để  chốt lại giáo viên có thể 
đưa ra trò chơi giải ô chữ để chốt lại vấn đề của bài học nhằm tạo ấn tượng  
cho học sinh, đồng thời cũng tránh sự nhàm chán, mệt mỏi khi phải tập trung  
quá nhiều cho phần tranh luận đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi.
Cũng có hình thức sử  dụng trò chơi khác trong bài học, giáo viên phân 
công nhiệm vụ  cho mỗi tổ chuẩn bị một trò chơi xoay xung quanh nội dung  

phần bài của nhóm mình chuẩn bị giống như chương trình chiếc nón kì diệu. 
Các thành viên trong tổ khác có nhiệm vụ tham gia giải đáp các ô chữ, tìm ra  
đúng nội dung theo sự gợi ý của nhóm chuẩn bị. Sau khi ô chữ đã được mở ra, 
nhiệm vụ của nhóm chuẩn bị là sẽ giảng giải về nội dung chuẩn bị của nhóm 
mình về bài học đã được thâu tóm trong trò chơi để các nhóm khác hiểu được 
nội dung tác phẩm. Với cách thức này không cần phải sử  dụng phòng nghe 
nhìn mà có thể làm trực tiếp trên lớp. 
Tuy nhiên không nhất thiết phải là các nhóm, giáo viên sẽ tự soạn bộ câu  
hỏi theo chương trình  ai là triệu phú  cho chơi cả  lớp trước khi đi vào nội 
dung chính của tác phẩm trên cơ  sở  đã yêu cầu các em đọc trước ở nhà. Câu  
hỏi được đặt ra theo mức độ  từ  dễ  đến khó buộc học sinh phải nắm được 
nội dung tác phẩm mới hoàn thành được các câu hỏi một cách thông suốt. 
Việc hoàn tất các câu trả lời cũng là kết thúc cho một bài giảng, mỗi câu hỏi  
được mở  ra giáo viên sẽ  giảng giải nội dung có liên quan đến câu hỏi đó 
trước khi học sinh đi vào câu hỏi tiếp theo. Với phương pháp này, mỗi cá 
nhân học sinh sẽ phải chủ động trong câu trả lời của mình và thông qua đó có 
thể bao quát hết được các học sinh trong lớp.
Ví dụ minh họa: Tổ chức giải ô chữ trong bài ôn tập văn học dân gian: đây là 
ô chữ tôi sử dụng hiệu quả trong bài Ôn tập văn học dân gian  lớp 10. Sau khi 

14


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

tìm được 6 ô chữ hàng ngang, học sinh sẽ tìm được ô chữ hàng dọc – cụm từ 
gồm 6 chữ cái, là một đặc trưng cơ bản của văn học dân gian:
1




C

T

Í

2

D



Y

3

P

Ê

N

Ê

C

H




L

15/23

P


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

4

G

I



I

T

5

S



T


H

I

6

K



R

Í

Hệ thống câu hỏi như sau:
1. Thể loại phản ánh những xung đột xã hội, cuộc đấu tranh giữa thiện và 
ác, chính nghĩa và gian tà? (6 chữ cái)
16


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

2. Đây là từ còn thiều trong câu ca dao: Nửa đêm trở...trông trời?( gồm 3 
chữ cái)
3. Nhân vật chính trong đoạn trích Uy – lit – xơ trở về? (gồm 7 chữ cái)
4. Thể loại nào mà hình thức lưu truyền là hát – kể? (gồm 5 chữ cái)
5. Một trong những mục đích của truyện cười?  (gồm 6 chữ cái)
6. Hình thức lưu truyền chủ yếu của truyện cười là gì? (gồm 2 chữ cái)
7. Ô hàng dọc: là một đặc trưng cơ bản của văn học dân gian? (gồm 6 chữ 
cái).

2.3 Kịch hóa tác phẩm
Thông thường các tác phẩm ngữ  văn tương đối đa dạng với nhiều thể 
loại, mỗi thể loại có những đặc trưng riêng cho nên giáo viên có thể  căn cứ 
vào đó tạo ra một phương pháp mới để lôi cuốn học sinh. Với hình thức kịch 
hóa thực chất cũng là một sân chơi cho học sinh thể hiện tài năng của mình. 
Nội dung này có thể thực hiện bằng hình thức đối với những tác phẩm ngắn  
như  những câu chuyện cười trong phần dành cho học sinh khối 10, giáo viên 
khuyến khích học sinh có khả năng kể lại câu chuyện mà khiến cho cả lớp có  
thể cười nghiêng ngả lên độc thoại về tác phẩm. Phần trình bày của học sinh 
kết thúc, học sinh đó sẽ đặt ra một loại các câu hỏi liên quan đến tác phẩm đã 
được chuẩn bị  trước  ở  nhà và chỉ  định các học sinh khác trong lớp tham gia  
trả lời các hỏi này. Quá trình giải đáp các câu hỏi học sinh sẽ  nhận được sự 
hỗ trợ từ phía giáo viên, sau mỗi câu hỏi của học sinh kể chuyện được trả lời 
giáo viên sẽ  đặt thêm câu hỏi bổ  sung đi sâu vào tác phẩm đồng thời chốt ý 
luôn. 
Đối với những tác phẩm văn học dài, mang kịch tính giáo viên sẽ lấy tinh 
thần xung phong của các nhóm, thông thường một nhóm sẽ phụ trách một tác 
phẩm, các em sẽ  đóng những phân đoạn quan trọng xuyên suốt tác phẩm  
trong thời gian 10. Với hình thức kịch hóa này buộc nhóm thực hiện phải viết  
lại kịch bản tác phẩm thành những lời thoại phù hợp với những phân cảnh và  
phân chia nhân vật hợp lý. Nhóm kịch hóa sẽ có nhiệm vụ thuyết minh về các  
nhân vật gắn với các nội dung trong tác phẩm trong lúc các nhóm khác sẽ đặt  
câu hỏi để đối thoại với nhóm kịch hóa này. Mỗi nhân vật tương ứng với một  
học sinh và tự học sinh đó phải bảo vệ được nhân vật mình trước các câu hỏi  
đưa ra. Hình thức kịch hóa tuy không mới nhưng cách thức làm sẽ  thể  hiện 
được sự năng động, sáng tạo của học sinh và cách thể hiện nhân vật cũng cho 
thấy được sự  cảm thụ  tác phẩm của các em. Đối với các nhóm không tham 
17/23



Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

gia phần kịch hóa thì đây cũng là dịp để các em thấy được khả năng của bạn  
mình đồng thời có  ấn tượng về  tác phẩm  ở  một khía cạnh khác so với cách  
thức thuyết trình thông thường.
Ngoài ra, một vài tác phẩm có lời thoại kịch cá nhân học sinh sẽ  được  
mời phân vai giống như  các diễn viên trên sân khấu nhưng không phải đóng 
kịch mà chủ yếu thể hiện qua lời thoại. Cách nhấn nhá phù hợp với nhân vật  
của học sinh cũng tạo ra  ấn tượng rất lớn về tác phẩm đối với các học sinh 
khác. Trong phần thể  hiện này, học sinh phải trả  lời được câu hỏi của giáo 
viên về  nhân vật và các em có quyền đặt câu hỏi trực diện cho các bạn còn 
lại trong lớp cùng tham gia vào bài giảng.
Ví dụ  minh họa:  Khi tìm hiểu  văn bản “Tình yêu và thù hận” (Rô – mê – ô 
và Giu – li – ét), trong phần đọc – hiểu văn bản, thay vì gọi một học sinh 
đứng lên đọc, tôi đã hướng dẫn các em học sinh đóng kịch. Quá trình ấy diễn  
ra như sau:
Hướng dẫn học sinh chuẩn bị: 
Thời gian hướng dẫn: đảm bảo thời gian các em học sinh có đủ  thời 
gian để chuẩn bị (3 tuần trước khi diễn ra tiết học).
Lựa chọn và phân vai học sinh tham gia (3 học sinh): 
Một học sinh đóng vai: Rô – mê –ô
Một học sinh đóng vai: Giu – li – ét
Một học sinh làm người dẫn chuyện.
Lựa chọn lời thoại: dựa vào đặc điểm của đoạn trích: dung lượng ít, 
lời thoại ngắn và dễ nhớ nên đa phần lời thoại được giữ lại. Riêng lời 
thoại 1, cắt bớt và chỉ  giữ  lại đoạn “Ấy...nhỉ”. Ngoài ra giáo viên còn 
định hướng trước cho học sinh ngữ  điệu của từng lời thoại (dựa vào  
bối cảnh và tâm trạng nhân vật).
Thực hiện trên lớp: học sinh trình bày phần chuẩn bị; giáo viên nhận  
xét và cho điểm. 

2.4. Quyền lợi của học sinh 
Học sinh ngoài vấn đề  yêu thích môn học, đối với các em điểm số  cũng  
khá quan trọng. để khích lệ tinh thần học tập tích cực, các em sẽ có cột điểm 
cộng và cột điểm trừ. Giáo viên tính điểm cộng cho nhóm và người trình bày. 
Nếu nhóm bảo vệ được bài giảng đến cùng thì sẽ giữ được trọn vẹn số điểm 
cộng, nếu không trả  lời được câu hỏi của nhóm khác thì điểm cộng được 
18


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

chuyển qua người đặt câu hỏi và giải đáp câu hỏi đó (học sinh đã đưa ra câu 
hỏi đúng nội dung bài, bắt buộc phải có cả  câu trả  lời cho câu hỏi đó khi  
nhóm thuyết trình không trả lời được thì đứng lên giảng giải cũng phải trọng 
tâm và đúng nội dung).
  Nếu nhóm nào không chuẩn bị  bài tốt và không có tinh thần đoàn kết  
nhóm thì sẽ  bị  điểm trừ. Có những nhóm mặc dù các em có thực hiện nội 
dung của mình nhưng không đáp ứng được yêu cầu đặt ra sẽ  không có điểm 
cộng và nhóm phải tích lũy điểm thông qua tác phẩm khác.
Tương tự  như  vậy, trong phầm Game show mỗi câu trả  lời đúng theo 
tinh thần xung phong các em sẽ được đánh một dấu cộng do lớp phó học tập 
của lớp sẽ phụ trách, đối với những học sinh trả lời đúng nhưng không phải  
tự  nguyên mà bị kêu lên các em sẽ không được cộng điểm trừ khi các em trả 
lời đúng 3 câu liên tiếp mới được tính điểm cộng. 
Phần kịch hóa hình thức cộng điểm cao hơn so với các nội dung trên bao  
gồm: Những cá nhân trực tiếp tham gia đóng kịch các em sẽ  được cộng gấp 
đôi dù có hay hoặc không hay, có đạt hoặc không đạt các em vẫn được cộng  
điểm do quá trình phải tập luyện. Ngược lại những học sinh không đọc tác 
phẩm sau khi nhóm kịch đã trình diễn xong mà không đặt ra được câu hỏi cho 
bài học hay không có sự  đối thoại, tranh luận với nhóm kịch xoay quanh các 

nhân vật và tác phẩm sẽ bị 1 điểm trừ. 
Giáo viên là người giữ vai trò định hướng cho học sinh đi đúng trọng tâm, 
vấn đề thể hiện của học sinh.
Trước mỗi bài kiểm tra 15 phút, giáo viên sẽ hệ thống lại toàn bộ  điểm  
cộng của học sinh trong suốt thời gian trước đó và quy đổi ra điểm số cụ thể, 
tối đa nhất là cộng 1,5đ. Giáo viên sẽ công khai điểm số cộng, trừ trước lớp,  
phần điểm cộng chỉ được áp dụng cho điểm miệng và 15 phút. 
Như  vậy, với hình thức cộng điểm cũng là một cách để  học sinh luôn 
phấn đấu nỗ lực không ngừng trong quá trình học tập.

19/23


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

3. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Kết quả chung:
Hầu hết các em học sinh nắm được cách thức học tập một cách cụ thể, 
chi tiết và tạo cho các em nguồn hứng khởi giống như đang bước vào một thế 
giới mới ngay từ đầu. Điều này góp phần kích thích tinh thần học tập của các 
em bằng chính khả năng của mình. Cũng vì vậy mà số  học sinh tích cực chủ 
động ngày càng có xu hướng tăng, số học sinh thụ động, chống đối, thờ ơ với  
môn học giảm rõ rệt. Điều này thể hiện rất rõ trong việc chuẩn bị bài trước 
khi đến lớp; tinh thần tích cực, trách nhiệm trong việc tổ chức các game show 
và việc hoàn thành thuyết trình nhóm.
Với phương pháp tạo hứng thú và nâng cao khả  năng tự  lĩnh hội kiến  
thức cho học sinh, giáo viên đã tạo nên được những tiết học phong phú, hấp  
dẫn học sinh. Đặc biệt, học sinh bước đầu ý thức được vai trò và tầm quan 
trọng bộ môn để từ đó có thái độ học tập tích cực chủ động hơn.
Cùng với sự thay đổi tích cực trong nhận thức thì kết quả học tập của 

các em cũng được nâng cao rõ rệt. Nhất là kết quả ấy lại là sự phản ánh một 
cách trung thực nỗ lực cố gắng của các em.
Bảng thống kê kết quả học tập theo hướng tích cực chủ động với môn 
học:

Lớp

Sĩ số

10A7

44

10A8

40

20

Sau thử nghiệm ( Cuối học kì II)
Giỏi

Khá

Trung bình

9

23


12

(20,5%)

(51,9%)

(27,6%)

6

19

15


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

11A10

37

(15%)

(47,5)

(37,5%)

2

17


18

(5,4%)

(45,9)

(48,7%)

21/23


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

Bảng thống kết quả về thái độ học tập bộ môn
Lớp

Sĩ số

10A7

44

10A8

40

11A10

37


Sau thử nghiệm (Cuối học kì II)
Chủ động

Thụ động

Thờ ơ

30

14

0

(67,5%)

(32,5%)

(0%)

27

11

2

(67,5%)

(27,5%)


(5%)

20

16

1

(54%)

(43,3%)

(2,7%)

4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
4.1. Kết luận:
Trong nhà trường một thầy dạy cho một lớp đông học trò, cùng lứa tuổi 
và trình độ  tương đối đồng đều thì giáo viên khó có điều kiện chăm lo cho  
từng học sinh nên đã hình thành kiểu dạy "thông báo ­ đồng loạt". Giáo viên 
quan tâm trước hết đến việc hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền đạt 
cho hết nội dung quy định trong chương trình và sách giáo khoa, cố gắng làm 
cho mọi học sinh hiểu và nhớ những điều giáo viên giảng. Cách dạy này sinh  
ra cách học tập thụ  động, thiên về  ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ, cho nên đã hạn 
chế chất lượng, hiệu quả dạy và học, không đáp ứng yêu cầu phát triển năng  
động của xã hội hiện đại. 
Trên thực tế, trong quá trình dạy học người học vừa là đối tượng của 
hoạt động dạy, lại vừa là chủ  thể  của hoạt động học. Thông qua hoạt động  
học, dưới sự chỉ đạo của giáo viên,  học sinh phải tích cực chủ động cải biến 
chính mình về kiến thức, kĩ năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, không ai làm 
thay cho mình được. Như vậy, khi đã coi trọng vị trí hoạt động và vai trò của 

người học thì đương nhiên phải phát huy tính tích cực chủ  động của người 
học. 
Trong phương pháp dạy học tích cực, học sinh ­ đối tượng của hoạt  
động "dạy", đồng thời là chủ  thể  của hoạt động "học"  được cuốn hút vào 
các hoạt động học tập do giáo viên tổ  chức và chỉ  đạo, thông qua đó tự  lực  
khám phá những điều mình chưa rõ chứ  không phải thụ động tiếp thu những 
tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Dạy theo cách thức này thì giáo viên không 
22


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động. Chương trình 
dạy học phải giúp cho từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia các  
chương trình hành động của cộng đồng. Trong các phương pháp học thì cốt 
lõi là phương pháp tự  học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương 
pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự  học thì sẽ  tạo cho họ  lòng ham học, khơi 
dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả  học tập sẽ  được nhân lên 
gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong qúa 
trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập th ụ động sang tự học 
chủ  động, đặt vấn đề  phát triển tự  học ngay trong trường phổ  thông, không  
chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn 
của giáo viên. 
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể 
đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp  
nhận sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là 
khi bài học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập.  Tuy nhiên, trong 
học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ  đều được hình thành bằng  
những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy ­ trò, 
trò ­ trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm 

lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong tập thể, ý kiến 
mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng 
mình lên một trình độ mới. 
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ  chức  ở  cấp 
nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Được sử  dụng phổ  biến trong dạy học là hoạt 
động hợp tác trong nhóm nhỏ  4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu  
quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuát hiện 
thực sự  nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để  hoàn thành nhiệm vụ  chung. 
Trong hoạt động theo nhóm nhỏ  sẽ  không thể có hiện tượng ỷ  lại, tính cách 
năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức  
tổ  chức, tinh thần tương trợ. Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống 
học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong 
lao động xã hội. 
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để  đào tạo những con 
người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh  
giá không thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã 
học mà phải khuyến khích trí thông minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết  
những tình huống thực tế. Với sự trợ giúp của các thiết bị  kĩ thuật, kiểm tra  
23/23


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

đánh giá sẽ  không còn là một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại  
cho nhiều thông tin kịp thời hơn để  linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ 
đạo hoạt động học. Giáo viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người  
truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn  
các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học sinh tự lực chiếm lĩnh nội  
dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức, kĩ năng, thái độ  theo yêu 
cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là chính, giáo viên có vẻ 

nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo viên đã phải đầu tư công  
sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ  động mới có thể  thực 
hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động viên, cố vấn, trọng  
tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận sôi nổi của học sinh. Giáo 
viên phải có trình độ  chuyên môn sâu rộng, có trình độ  sư  phạm lành nghề 
mới có thể  tổ  chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh và tạo sự  yêu  
thích trong quá trình học tập môn Văn cho các em.
4.2 Khuyến nghị
Đề nghị Sở giáo dục và đào tạo thường xuyên tổ chức chuyên đề “  Đổi  
mới phương pháp dạy học Văn”  có chất lượng và hiệu quả. Từ  đó, giáo 
viên có thể học tập, trao đổi và vận dụng trong quá trình dạy Văn. Đồng thời 
cần có những điều chỉnh về  thời gian tiết dạy phù hợp nhằm phát huy năng  
lực, tinh thần chủ động tích cực của học sinh đối với bộ môn. 
Đối với các thầy cô bộ  môn Ngữ  Văn: cần nâng cao tinh thần trách 
nhiệm, tâm huyết với nghề  nghiệp, thường xuyên nâng cao kĩ năng giảng 
dạy, trau dồi trình độ  chuyên môn. Đặc biệt cần phải xây dựng và dự  kiến  
thực hiện  kế hoạch giảng dạy năm học phù hợp, sáng tạo và linh hoạt.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của  
người khác

24


Một số phương pháp giúp học sinh chủ động, tích cực trong học tập bộ môn Ngữ Văn

PHỤ LỤC

Học sinh thuyết trình nhóm

Thảo luận bảo vệ bài thuyết trình


25/23


×