Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

SKKN: Rèn luyện kỹ năng viết báo cáo Địa lý cho học sinh lớp 10 trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.55 KB, 38 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Trong các yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học Địa lý theo hướng 
phát  huy  tính tích  cực của  học sinh,   đa  số  giáo  viên  đều lựa  chọn  các  
phương pháp nhằm phát triển tư duy, tính tích cực của học sinh. Tuy nhiên 
các phương pháp dạy học tích cực yêu cầu hướng vào việc rèn luyện kỹ 
năng thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, kỹ  năng phân tích, tổng 
hợp, khái quát để  rút ra kết luận về  các thông tin thu thập được, kỹ  năng  
trình bày kết quả  nghiên cứu thông tin một cách khoa học, thuyết phục – 
còn gọi là kỹ năng báo cáo và các phương pháp mà giáo viên vận dụng để 
rèn luyện kỹ năng viết và trình bày báo cáo cho học sinh – thì giáo viên vẫn 
còn nhiều lúng túng trong quá trình sử  dụng. Đây là những phương pháp 
dạy học tích cực có tác dụng tốt trong dạy học phát triển các kỹ  năng học  
tập của học sinh, phù hợp với xu hướng rèn luyện khả năng hoạt động độc 
lập, chủ  động trong quá trình nhận thức. Phương pháp này còn rèn luyện  
cho học sinh các kỹ  năng phân tích, liên hệ, trình bày,… khi tìm hiểu một 
vấn đề yêu cầu vận dụng kiến thức đã học và liên hệ  thực tiễn một cách  
hiệu quả hơn.
Lớp 10 là lớp đầu cấp THPT nên các em chưa hình thành đầy đủ về kỹ 
năng  viết báo cáo, vì vậy việc rèn luyện kỹ năng viết báo cáo cho các em là 
tiền đề để các em hoàn thiện hơn kỹ năng này đồng thời là cơ sở cho việc  
viết báo cáo ở các lớp sau.
Để tăng cường việc rèn luyện cho học sinh các kỹ  năng thu thập, xử  lí  
thông tin, từ đó tổng hợp và trình bày thông tin góp phần hình thành những 
năng lực cần thiết của người lao động mới ở  học sinh, góp phần nâng cao 
hiệu quả dạy học bộ môn Địa lý trung học phổ  thông (THPT), tôi đã chọn 
nghiên cứu vấn đề  “Rèn luyện kỹ năng viết báo cáo Địa lý cho học sinh  
lớp 10 trung học phổ  thông”. Hi vọng sẽ  góp phần nâng cao chất lượng 
dạy học bộ môn Địa lý.
2. Mục tiêu của đề tài


Xác định được hệ thống kỹ năng viết báo cáo Địa lý và các phương pháp rèn 
luyện các kỹ năng đó nhằm nâng cao chất lượng dạy học Địa lý 10 THPT.

1


3. Nhiệm vụ của đề tài
­ Nghiên cứu cơ sở lí luận cho việc xác định hệ thống kỹ năng cần thiết cho 
việc viết báo cáo Địa lý trong dạy học.
­ Tìm hiểu thực trạng dạy và học các bài viết báo cáo Địa lý trong chương 
trình Địa lý 10 THPT (ban cơ bản) hiện nay.
­ Xác định hệ thống kỹ năng cần thiết cho việc viết báo cáo Địa lý trong dạy 
học Địa lý THPT, từ đó xác định phương pháp phù hợp để rèn luyện các kỹ năng 
đó.
­ Tiến hành thực nghiệm sư phạm để thấy được tính khả thi và hiệu quả của  
việc sử  dụng hệ  thống kỹ  năng viết báo cáo Địa lý trong dạy học Địa lý 10  
THPT.
4. Phạm vi nghiên cứu
Các bài viết báo cáo Địa lý lớp 10 THPT (Ban cơ bản).
5. Phương pháp nghiên cứu
­  Phương pháp lí thuyết.
­  Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN 
LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT BÁO CÁO ĐỊA LÝ CHO HỌC SINH LỚP 10 
THPT

1. Báo cáo Địa lý
1.1. Khái niệm
­ Báo cáo là một hình thức mà trong đó, học sinh dưới sự hướng dẫn của 
giáo viên, thu thập, phân tích, tổng hợp số  liệu, tư  liệu,... trình bày thành 
báo cáo, sau đó thuyết trình trước nhóm hay toàn lớp.
­ Báo cáo Địa lý là một dạng bài thực hành, mà trong đó học sinh dưới  
sự  hướng dẫn của giáo viên, tiến hành thu thập, phân tích, tổng hợp, khái 
quát hóa thông tin địa lý, sau đó viết và trình bày báo cáo về một vấn đề địa  
lý trước lớp hoặc trước nhóm.
Báo cáo có thể tiến hành trong chương trình nội khóa hoặc ngoại khóa.
1.2. Phân loại báo cáo Địa lý
Báo cáo Địa lý có thể trình bày dưới nhiều dạng khác nhau:
­ Báo cáo Địa lý trình bày dưới dạng một bài viết (dài hay ngắn) về một 
vấn đề địa lý tự  nhiên, kinh tế ­ xã hội của địa phương, quốc gia hay một 
vấn đề  toàn cầu. Đây là loại phổ  biến hiện nay trong chương trình phổ 
thông.
­ Báo cáo Địa lý có thể là một số sưu tập tranh  ảnh được sắp xếp theo  
hệ  thống kèm theo lời thuyết minh, một số  hệ  thống lược  đồ, hình vẽ,  
tranh ảnh, sơ đồ thể hiện một chủ đề nhất định.
1.3. Nội dung báo cáo Địa lý
Nội dung báo cáo địa lý rất phong phú. Đó là các vấn đề  về  tự  nhiên, 
kinh tế ­ xã hội của địa phương, đất nước và toàn cầu.
­ Báo cáo có thể  được tiến hành sau khi tổng kết bài học, một chủ  đề, 
một chương, hay tổng kết chương trình nhằm hệ  thống hóa kiến thức đã 
học.
­ Ngoài ra, báo cáo còn được tiến hành sau khi khảo sát, điều tra các đối 
tượng địa lí ở địa phương.
1.4. Tầm quan trọng của báo cáo Địa lý trong dạy học
Trong dạy học báo cáo địa lý có vai trò quan trọng, nó rèn luyện cho học 
sinh các khả năng như:

3


­ Nói, giao tiếp và trình bày quan điểm của mình trước người khác.
­ Thu thập những thông tin từ  nhiều nguồn khác nhau như  sách vở, tài 
liệu tham khảo, số liệu trên thực địa,...
­ Hiểu được phương pháp trình bày một báo cáo khoa học dù là đơn 
giản.
­ Hiểu những vấn đề được trình bày một cách kỹ lưỡng theo hướng ”học  
qua làm”.
­ Đối đáp hoặc thảo luận, tranh luận với người khác một cách lôgic.
­ Hợp tác với các bạn trong nhóm, tổ, lớp.
­ Nâng cao kĩ năng sống.
Như vậy, kỹ năng báo cáo thường dùng cho học sinh ở THPT th ể hi ện  
sự  vận dụng tổng hợp nhiều k ỹ thu ật khác nhau như  tìm tòi, khám phá, 
quan sát, phỏng vấn, thuyết trình, đối thoại,... Rèn luyện đượ c kỹ  năng 
này nghĩa là HS đã đặt mình vào vị  trí của người vừa có khám phá, tìm 
tòi, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa kiến thức, vừa phổ  biến các tri  
thức địa lý cho những người xung quanh mình.
1.5. Các hoạt động làm cơ sở hình thành kỹ năng viết báo cáo địa lý
1.5.1. Thu thập thông tin
Muốn thu thập thông tin thì cần thiết phải xác định được vấn đề  báo 
cáo là gì? Cụ  thể  hơn là phải xác định tên hoặc nội dung mà bài báo cáo 
cần đề cập đến. Trên cơ sở  xác định vấn đề  báo cáo, người viết sẽ  có cơ 
sở để tiến hành thu thập thông tin liên quan đến vấn đề đó một cách nhanh 
nhất, hiệu quả nhất.
Khi sử dụng các thông tin thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau, cần 
chọn lọc những thông tin có liên quan đến chủ  đề  báo cáo. Các thông tin 
chọn lọc nên ghi thành phiếu rời, hoặc photo thành tờ  rời và bỏ  vào túi hồ 
sơ báo cáo, sắp xếp theo trật tự để dễ sử dụng khi viết báo cáo. Các tập số 

liệu, bảng số liệu, bản đồ, tranh ảnh,... nên để riêng.
1.5.2. Xử lý, tổng hợp thông tin
Công việc này bao gồm phân tích, tổng hợp, khái quát hóa nguồn tư liệu 
đã thu thập được.
­ Phân tích tư liệu: Cần xem xét tư  liệu thu thập được có chính xác, cập 
nhật không? Nội dung tư liệu bao hàm vấn đề gì? Liên quan đến nội dung nào  
của báo cáo?,...

4


­ Tổng hợp tư  liệu: bổ  sung thêm những thông tin còn thiếu, lựa chọn  
những nội dung của tư  liệu cần làm rõ cho nội dung của báo cáo, liên hệ 
các thông tin với nhau nhằm xác lập tính thống nhất và rút ra các nhận xét 
cần thiết phù hợp với bản chất của sự việc, hiện tượng trong chủ đề  báo 
cáo.
­ Khái quát hóa: trong báo cáo cần nêu những nhận xét, ý kiến nhận định  
khái quát hóa, hoặc từ  kết quả  hiện tượng có thể  có những đề  xuất thích 
hợp về giải pháp, biện pháp.
1.5.3. Trình bày thông tin
Hình thức trình bày thông tin có thể là bản báo cáo, hoặc trình bày miệng 
(trên cơ sở đề cương chuẩn bị sẵn).
Để trình bày thông tin địa lý khoa học, việc đầu tiên cần phải xây dựng  
được đề cương (dàn ý) bài báo cáo. Đề cương (dàn ý) bài báo cáo xây dựng  
ở mức độ khái quát, sau đó chi tiết hóa để làm cơ sở cho việc viết một bản 
báo cáo hoàn chỉnh.
a. Bài viết báo cáo
­ Bản báo cáo của học sinh nên có những nội dung sau:
+ Giới thiệu ngắn gọn về  vấn đề  báo cáo: tên đề  tài, địa điểm, thời 
gian, mục đích và nhiệm vụ cụ thể của hoạt động.

+ Trình bày vắn tắt các hoạt động và phương pháp đã thực hiện.
+ Trình bày, mô tả những kết quả thực hiện được.
+ Kết luận, đề xuất ý kiến (nếu có).
­ Ngôn ngữ của báo cáo:
+ Văn phong khoa học, ngắn gọn, súc tích, không dùng văn nói trong báo 
cáo.
+ Trình bày vấn đề khách quan, không thể hiện cảm xúc của mình hoặc 
mô tả theo hình thức văn học.
+ Câu trong báo cáo nên dùng ở thể bị động. Ví dụ: không viết: ”chúng  
tôi đã nghiên cứu kỹ vấn đề  trên và thấy rằng...” mà nên viết ”Từ kết quả 
nghiên cứu vấn đề trên, có thể thấy...”
+ Để báo cáo ngắn gọn và làm rõ vấn đề, nên tăng cường sử dụng bản 
đồ, lược đồ, tranh ảnh, biểu đồ, sơ đồ, bảng số liệu, các số liệu rời,....
­ Trình bày bản báo cáo:
+ Dùng đề mục hợp lí.
5


+ Nếu câu trích nguyên văn trong tài liệu thì để  trong ngoặc kép và ghi  
rõ xuất xứ (nguồn).
+ Các tư liệu, số liệu, bảng số liệu được sử dụng ở trong báo cáo phải ghi  
rõ nguồn.
+ Các số liệu thống kê phải ghi rõ năm thống kê.
+ Các báo cáo làm trong thời gian dài, có nhiều nội dung cần phải có  
danh mục tài liệu tham khảo (xếp theo vần A, B, C họ của tác giả).

b. Trình bày miệng trên cơ sở đề cương đã chuẩn bị sẵn phải chú ý  
những điểm sau:
­ Phần thuyết trình trước lớp bao gồm việc trình bày một nội dung báo  
cáo, kết luận vấn đề, nêu câu hỏi cho người nghe hoặc đề nghị người nghe 

đặt câu hỏi, liên hệ với các vấn đề liên quan vừa trình bày.
­ Báo cáo miệng thường dùng cho các học sinh lớp lớn, thể hiện sự vận  
dụng tổng hợp nhiều kĩ thuật khác nhau như: thuyết trình, đối thoại,... Khi  
sử  dụng phương pháp này nghĩa là học sinh đã đặt mình vào vị  trí của 
người vừa tìm tòi, thu thập, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa kiến thức,  
vừa phổ biến tri thức địa lý cho những người xung quanh.
2. Thực trạng việc rèn luyện kỹ  năng viết báo cáo Địa lý cho học sinh  
THPT
2.1. Thực trạng về phía giáo viên
Qua điều tra thực tiễn về  phía giáo viên, có thể  thấy rằng đa số  đều 
nhận định việc rèn luyện kỹ  năng viết báo cáo là rất quan trọng và có ý 
nghĩa lớn trong việc rèn luyện kỹ năng địa lý. Tuy nhiên, mức độ rèn luyện 
các kỹ năng này còn chưa nhiều và gặp nhiều khó khăn trong khi tiến hành.  
Các giáo viên tuy có chú ý rèn luyện kỹ  năng viết báo cáo cho học sinh 
nhưng mới chỉ dừng lại  ở mức độ  hướng dẫn, học sinh làm theo. Phương 
pháp để  rèn luyện cho học sinh các kỹ  năng viết báo cáo nhìn chung còn  
lúng túng về  các bước thực hiện, hoặc tiến trình rèn luyện các kỹ  năng  
chưa lôgic nên học sinh rất khó nắm bắt. Giáo viên thường làm mẫu cho 
học sinh, ngay cả  trong các bài thực hành. Đa số  các giáo viên chưa tiến  
hành rèn luyện kỹ năng viết báo cáo bằng cách đặt câu hỏi, ra bài tập, bài 
thực hành về  các kĩ năng thu thập, xử  lý, tổng hợp và trình bày thông tin.  
Nói cách khác, giáo viên mới chỉ hình thành ở học sinh một số kỹ năng viết  
6


báo cáo chứ  chưa thực sự  rèn luyện kỹ  năng này cho học sinh trong quá 
trình dạy học. Điều này sẽ  hạn chế  việc rèn luyện kỹ  năng địa lí cho học  
sinh, đặc biệt với yêu cầu giáo dục ngày nay là chú trọng nhiều hơn về kỹ 
năng bên cạnh kiến thức được cung cấp, hướng dẫn học sinh tự học.
2.2. Thực trạng về phía học sinh

Qua phiếu điều tra 180 học sinh lớp 10 của trường THPT Trường Chinh  
tôi nhận thấy tỉ lệ học sinh thực hiện khá ­ tốt các kỹ năng viết báo cáo địa  
lý còn rất thấp, đa số  các em chỉ  đạt  ở  mức trung bình ­ yếu (chiếm trên  
80%). Ngoài ra, qua phỏng vấn chúng tôi cũng thu được ý kiến cho rằng các 
bài thực hành có nội dung viết báo cáo là rất khó thực hiện đối với các em 
(176/180, chiếm 97,8%). Đa số  các em còn lúng túng về  trình tự  các bước 
để thực hiện một số kỹ năng viết báo cáo do các em ít được rèn luyện.
Khi điều tra về  các phương pháp, cách thức mà giáo viên thường tiến 
hành trong quá trình dạy học để rèn luyện cho các em về kỹ năng viết báo 
cáo thì chúng tôi thu được kết quả  giáo viên thường làm mẫu cho các em 
thực hiện bài viết báo cáo. Việc ra bài tập, làm bài thực hành để rèn luyện 
kỹ năng, kích thích các em chủ  động, tích cực, tự  học có thực hiện nhưng  
chưa nhiều.
2.3. Nguyên nhân của thực trạng
Rèn luyện kỹ năng viết báo cáo địa lý thực sự  là một nội dung khó đối 
với cả  giáo viên và học sinh. Các kỹ  năng thu thập, xử  lý, tổng hợp, trình 
bày thông tin là các kỹ  năng đòi hỏi sự  tư  duy, kết hợp với kiến thức có 
được trong quá trình học tập, phải qua quá trình rèn luyện thì mới nhuần 
nhuyễn và hình thành kỹ  năng tự  học. Các kỹ  năng này góp phần định  
hướng cho học sinh về  cách học, định hướng cho giáo viên về  cách dạy  
trong bối cảnh giáo dục hiện nay. Vì nó có tính tích cực, đổi mới tư  duy  
trong dạy và học nên khi tiến hành ít nhiều sẽ gây lúng túng.
Thực tiễn cho thấy các kỹ  năng thu thập, xử  lý, tổng hợp, trình bày 
thông tin (gọi tắt là kỹ năng viết báo cáo) chưa được chú trọng đúng mức. 
Mặc dù trong chương trình có đưa vào các bài thực hành viết báo cáo nhưng  
cũng chỉ   ở  mức nêu vấn đề. Ít tài liệu hướng dẫn các bước rèn luyện và 
nâng cao kỹ năng viết báo cáo cho học sinh. Do đó, trong quá trình dạy học,  
các giáo viên thường sử  dụng các kinh nghiệm dạy học của mình để  tiến 
hành rèn luyện kỹ năng viết báo cáo cho học sinh, cách thức của mỗi người 
là khác nhau, chưa có sự thống nhất, chưa mang tính lôgic.


7


Mặt khác, giáo viên gặp nhiều khó khăn trong việc rèn luyện kỹ  năng 
viết báo cáo do sự  hạn chế  về mặt thời gian một tiết học, đặc biệt trong  
các bài thực hành viết báo cáo. Do đó, các giáo viên thường chuẩn bị kĩ các  
tư  liệu, thông tin sẵn để  cung cấp cho học sinh, đồng thời quá trình rèn 
luyện cũng mang tính chất làm mẫu để  học sinh bắt chước làm theo mẫu 
định sẵn, nhằm đảm bảo thời gian trong một tiết học. Họ cho rằng đó là 
cách làm dễ dàng nhất khi tiến hành dạy các bài thực hành có nội dung viết 
báo cáo.
Khi được hỏi vì sao không tiến hành các bước rèn luyện kỹ  năng để 
định hướng cho các em, rồi tự các em thực hiện, hình thành và rèn luyện kỹ 
năng thì các giáo viên đều cho rằng: Tư duy của các em đa phần chưa thích 
ứng với việc tự  làm bài theo định hướng của giáo viên mà vẫn phụ  thuộc 
vào mẫu. Việc rèn luyện kỹ  năng viết báo cáo muốn thực hiện được thì  
cần một quá trình lâu dài, có thể từ các cấp, các lớp học ở  dưới lên. Ngay  
một lúc, trong một tiết học các giáo viên khó có thể rèn luyện từng kỹ năng 
một cách cụ thể cho học sinh.

8


CHƯƠNG 2. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT BÁO CÁO ĐỊA LÝ 
CHO HỌC SINH LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. Hệ thống kỹ năng viết báo cáo Địa lý cần rèn luyện cho học sinh
­ Kỹ năng xác định vấn đề báo cáo.
Để xác định vấn đề báo cáo thường có hai cách:
Một là, giáo viên xác định vấn đề báo cáo cho học sinh.

Hai là, học sinh tự xác định vấn đề báo cáo. HS có thể có sự hướng dẫn, 
định hướng giúp đỡ của giáo viên trong việc xác định vấn đề báo cáo.
Tuy nhiên, trong dạy học hiện nay, giáo viên nên sử  dụng cách thứ  hai, 
yêu cầu và rèn luyện cho học sinh kỹ năng tự xác định vấn đề báo cáo.
­ Kỹ năng thu thập thông tin báo cáo.
Dựa vào vấn đề báo cáo vừa xác định được để tiến hành thu thập thông 
tin cho bài viết báo cáo. Do đó, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh biết 
cách thu thập thông tin báo cáo bám sát chủ đề đưa ra. Đây là kỹ năng cần 
được rèn luyện nhiều lần để tạo thành kỹ xảo, mang tính sáng tạo. Từ đó, 
mỗi học sinh sẽ  tự  phát triển các kỹ  năng vừa rèn luyện được để  hình  
thành cho mình cách thu thập thông tin thế nào là nhanh và hiệu quả nhất.
­ Kỹ năng xử lý, tổng hợp thông tin.
Xử  lý, tổng hợp thông tin là kỹ  năng khó và rất cần thiết không chỉ 
nhằm phục vụ  cho việc viết báo cáo mà còn hỗ  trợ  cho học sinh các kỹ 
năng tư duy, tổng hợp tri thức trong quá trình học tập môn địa lý.
­ Kỹ năng lập đề cương báo cáo.
Để  khắc phục sự  lúng túng về  cách trình bày, sắp xếp các ý tưởng, 
thông tin trong bài báo cáo, lại vừa tiết kiệm thời gian để viết báo cáo hoàn  
chỉnh thì học sinh cần biết cách lập đề cương (dàn ý) bài báo cáo. Việc xây  
dựng được bộ  khung sườn cho bài viết sẽ  giúp học sinh sớm hình dung ra 
được các nội dung chính cần trình bày, giúp học sinh dễ  dàng hơn trong 
việc triển khai các ý chính thành các ý chi tiết.
­ Kỹ năng trình bày báo cáo.
Đây là kỹ  năng vừa mang tính kỹ  thuật vừa có tính sáng tạo. Mỗi học  
sinh sẽ có nhiều cách trình bày bài báo cáo khác nhau. Do đó, giáo viên cần  
định hướng rèn luyện cho học sinh cách trình bày báo cáo sao cho rõ ràng, 
mang tính thuyết phục và hạn chế  được những sai phạm mắc phải trong  
khi trình bày bài báo cáo.

9



2. Các nguyên tắc, quy trình rèn luyện kỹ năng viết báo cáo Địa lý cho 
học sinh
2.1. Các nguyên tắc rèn luyện kỹ năng viết báo cáo Địa lý cho học sinh
2.1.1. Rèn luyện kỹ năng viết báo cáo địa lý phải gắn liền với việc củng cố  
và phát triển kiến thức đã học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng.
Để việc rèn luyện kỹ năng viết báo cáo địa lý cho học sinh thì cần phải  
nắm vững chương trình, nội dung SGK, bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng 
theo hướng dẫn của Bộ giáo dục và Đào tạo.
2.1.2. Đảm bảo tính sư phạm
Quy trình và phương pháp rèn luyện kỹ năng viết báo cáo địa lý cho học 
sinh cần phải đảm bảo tính sư  phạm, phù hợp với cơ  sở  khoa học của lý  
luận dạy học. Các phương pháp giảng dạy được tiến hành để rèn luyện kỹ 
năng này phải phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, kích thích sự học 
hỏi, tu duy của học sinh.
2.1.3. Đảm bảo tính khả thi
Rèn luyện kỹ  năng viết báo cáo địa lý là một vấn đề  khó đối với giáo 
viên và học sinh, do đó khi tiến hành cần chú ý tính khả thi của quy trình và 
phương pháp thực hiện. Nếu quy trình và phương pháp thực hiện khó có 
thể tiến hành trong thực tiễn dạy học thì nó chỉ là lý thuyết suông. Các cách  
thức hướng dẫn, rèn luyện cho học sinh các kỹ  năng thu thập, xử  lý, tổng 
hợp, trình bày thông tin địa lý cần phải được xem xét sao cho phù hợp với 
điều kiện sư  phạm của ngành giáo dục, đảm bảo tính giáo dục, dễ  thực  
hiện đối với người dạy và người học thì mới đạt kết quả cao.
2.2. Quy trình rèn luyện kĩ năng viết báo cáo Địa lý cho học sinh
Bước 1. Xác định mục tiêu rèn luyện kỹ năng
Đây là bước khởi đầu quan trọng đối với việc rèn luyện một kỹ  năng 
bất kì cho học sinh. Viết báo cáo địa lý là một vấn đề  khó vì nó bao gồm  
nhiều khâu, nhiều giai đoạn mà giáo viên phải rèn luyện cho học sinh trong  

một thời gian dài để hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh. Do đó, để có  
được một bài viết báo cáo hoàn chỉnh, chất lượng thì học sinh cần nắm 
vững các khâu, các kỹ  năng cụ  thể  của bài viết báo cáo địa lý. Việc xác  
định mục tiêu rèn luyện kỹ  năng địa lý sẽ  góp phần bám sát mục tiêu của 
môn học, của bài học cần hướng tới. Trên cơ sở đó, giáo viên thiết lập các 
hoạt động dạy học phù hợp với mục tiêu rèn luyện kỹ năng đặt ra, tổ chức  

10


các hình thức, phương pháp dạy học sao cho phù hợp với việc đạt được 
mục tiêu về rèn  luyện kỹ năng đó một cách tối ưu nhất.
Ví dụ: Khi dạy bài thực hành bất kỳ, việc đầu tiên là giáo viên yêu cầu  
học sinh xác định rõ mục tiêu, yêu cầu kỹ năng cần thực hiện của bài thực  
hành đó. Bước này giáo viên nên hướng dẫn cho học sinh nhận thức rõ mục 
tiêu, yêu cầu và các nhiệm vụ cần thực hiện. Học sinh phải xác định được 
các bước thực hiện và sản phẩm của các bước là gì. Thông qua đó học sinh  
sẽ  nhận thức được các kỹ  năng cần thực hiện, rèn luyện trong suốt giờ 
học.
Bước 2. Trang bị cho học sinh các kiến thức về kỹ năng cần thiết
Để rèn luyện bất kĩ kỹ năng địa lý nào cho học sinh thì cần phải trang bị 
cho học sinh các kiến thức về kỹ năng cần thiết để vận dụng vào quá trình  
nhận thức của học sinh. Sau khi xác định kỹ  năng cần rèn luyện cho học 
sinh, giáo viên cần xem xét đối tượng học sinh của mình về  năng lực học 
tập, kỹ  năng liên quan  ở  mức độ  nào, còn thiếu hay cần bổ  sung các kiến 
thức, kỹ  năng gì để  cung cấp, trang bị  cho các em. Khi đã có đầy đủ  các  
kiến thức và kỹ năng cơ bản, việc rèn luyện kỹ năng đó sẽ tiến hành được  
dễ dàng, thuận lợi hơn.
Ví dụ: Để  rèn luyện kỹ  năng thu thập thông tin địa lý thì giáo viên cần 
trang bị  cho học sinh vốn kiến thức địa lý nhất định về  chủ  đề  địa lý cần 

thu thập. Nhờ đó, thông tin thu thập được sẽ  có trọng tâm và quá trình tìm  
kiếm, thu thập thông tin dễ dàng hơn, phạm vi tìm kiếm thông tin được thu  
hẹp hơn. Ngoài ra học sinh cần có một số  kỹ  năng như: kỹ  năng đọc tài  
liệu, kỹ năng tìm kiếm, sưu tầm tài liệu, thông tin,...đôi khi còn cần cả  kỹ 
năng khảo sát, phỏng vấn, điều tra để thu thập thông tin từ thực tế đối với  
các đề tài mang tính thực tế cao.
Bước 3. Lựa chọn phương pháp, cách thức rèn luyện kỹ  năng cho  
học sinh
Sau khi học sinh đã có được các kiến thức và kỹ năng địa lý cơ bản, giáo 
viên cần xác định các cách thức, hình thức tổ chức dạy học phù hợp để rèn  
luyện kỹ  năng đó. Các phương pháp, hình thức tổ  chức dạy học được lựa 
chọn cần bám sát mục tiêu bài học (kiến thức, kỹ  năng), phù hợp với đối 
tượng học sinh và dễ  tiến hành trong điều kiện cơ  sở  giáo dục hiện tại.  
Ngoài ra, giáo viên cần chú ý đến việc chọn các phương pháp dạy học mới  
theo hướng tích cực, lấy học sinh làm trung tâm để  phát huy tính tích cực,  
chủ động, sáng tạo của học sinh.
11


Ví dụ: Để  rèn luyện kỹ năng xử  lý thông tin, giáo viên có thể  lựa chọn  
các phương pháp dạy học thích hợp như: phương pháp đàm thoại gợi mở, 
phương pháp thảo luận nhóm,... Giáo viên có thể  hình thành và rèn luyện 
cho học sinh kỹ  năng này bằng cách bước đầu làm mẫu, sau đó ra các bài  
tập từ  dễ  đến khó, từ  đơn giản đến phức tạp để  học sinh thực hiện rèn 
luyện kỹ năng đó cho thuần thục.
Bước 4. Thiết lập các hoạt động của GV và HS để  rèn luyện kỹ  
năng
Dựa   vào   việc   lựa   chọn   phương   pháp,   cách   thức   rèn   luyện   kỹ   năng 
tương ứng mà giáo viên thiết lập các hoạt động của giáo viên và học sinh  
một cách cụ  thể  trong quá trình dạy học. Các hoạt động của giáo viên và  

học sinh có thể được thiết kế linh hoạt, không nhất thiết tất cả các bước,  
các khâu của quá trình rèn luyện kỹ năng phải tiến hành tại lớp, trong một 
tiết học, mà có thể  tiến hành  ở  nhà, trong thời gian dài tùy theo nội dung,  
kỹ năng cần đạt được.
Khi thiết lập các hoạt động của giáo viên và học sinh thì cần chú ý đến  
các hoạt động của học sinh nhiều hơn, đề  cao chủ  thể  học tập của học  
sinh nhiều hơn là hoạt động dạy của giáo viên. Học sinh phải làm việc  
nhiều hơn trong quá trình nhận thức thì mới hình thành và rèn luyện kỹ 
năng. Giáo viên có thể  đóng vai trò bước đầu làm mẫu, sau đó hướng dẫn 
và học sinh từ việc làm theo đến việc tự  thực hiện kỹ năng đó. Mặt khác, 
các hoạt động dạy và học phải linh hoạt, kích thích tính tò mò, tự  tìm tòi, 
sáng tạo của học sinh, phải khiến tất cả học sinh trong lớp ch ủ động tham 
gia vào các bước của quá trình rèn luyện kỹ năng. Giáo viên nên tránh việc  
thiết lập các hoạt động dạy học đơn thuần chỉ  dành cho các học sinh khá, 
giỏi, các học sinh tích cực, mà không bao quát toàn bộ lớp học.
Ví dụ: Khi rèn luyện kỹ  năng viết báo cáo, giáo viên có thể  thiết lập  
hoạt động của học sinh là yêu cầu mỗi học sinh đều tự  mình viết thành 
một bài báo cáo về  chủ  đề  của nhóm sau quá trình làm việc theo nhóm. 
Việc này có thể  tránh được tình trạng nếu chỉ  làm một bài viết báo cáo 
chung cho cả  nhóm thì chỉ  có một số  học sinhng nhóm tham gia rèn luyện 
kỹ  năng viết/trình bày báo cáo cho cả  nhóm. Các học sinh khác nghiễm 
nhiên giao khoán cho bạn và không quan tâm đến việc rèn luyện kỹ  năng  
trình bày báo cáo đó như thế nào. Còn khi trình bày, giáo viên có thể gọi bất  
kì học sinh trong nhóm trình bày, sau đó các bạn trong nhóm có thể bổ sung 
thêm các ý kiến để hoàn thiện bài trình bày của nhóm.
12


Bước 5. Kiểm tra, đánh giá kết quả
Kiểm tra đánh giá là để  xem hiệu quả  của việc rèn luyện kỹ  năng đạt 

được đến đâu. Thông qua việc kiểm tra kết quả rèn luyện kỹ năng địa lý có  
thể  đánh giá mức độ  đạt được của học sinh so với mục tiêu kỹ  năng đã 
được quy định, từ đó đề xuất các điều chỉnh thích hợp nhằm nâng cao chất 
lượng và hiệu quả của công việc đó. Bên cạnh việc ghi nhận những gì đạt  
được, giáo viên có thể  sử  dụng nó làm cơ  sở  để  xây dựng tiếp các kế 
hoạch rèn luyện kỹ  năng khác  ở  mức độ  cao hơn. Ngoài ra, qua kiểm tra,  
đánh giá, giáo viên có thể  điều chỉnh các phương pháp dạy học, các cách 
thức rèn luyện kỹ  năng sao cho phù hợp nhất, mang tính phát triển nhất.  
Giáo viên còn có thể nắm được sự tiến bộ rõ rệt hay giảm sút của học sinh  
để   động viên hay giúp  đỡ  kịp thời qua việc kiểm tra,  đánh giá thường 
xuyên.
Cũng qua kiểm tra, đánh giá, giáo viên có thể làm sáng tỏ được năng lực  
và kết quả  rèn luyện kỹ  năng nói riêng và kết quả  học tập nói chung của  
học sinh, từ  đó giúp các em có khả  năng tự  đánh giá, tự  nhận ra được sự 
tiến bộ của mình, có thêm động cơ  trong học tập. Nhờ kiểm tra, đánh giá, 
học sinh sẽ  có điều kiện để  tiến hành các thao tác tư  duy như  ghi nhớ, tái 
hiện, khái quá hóa, hệ thống hóa kiến thức, kỹ năng vừa được hình thành, 
học sinh sẽ  có thể  vận dụng các tri thức vừa có được để  thực hiện các  
hành động khác, thực hiện các kỹ năng khác một cách thuần thục.
Ví dụ: Để rèn luyện kỹ năng lập dàn ý báo cáo, sau khi giáo viên hướng 
dẫn học sinh các bước cần thiết để lập một dàn ý bài báo cáo, giáo viên rèn 
luyện cho học sinh bằng cách ra bài tập về nhà cho học sinh là viết dàn ý 
báo cáo cho một chủ đề  khác. Nhưng nếu chỉ dừng lại  ở hoạt động ra bài 
tập về  nhà cho học sinh mà giáo viên không tiến hành kiểm tra, đánh giá  
việc học sinh có thực hiện bài tập đó hay không, thực hiện nó như thế nào 
thì việc rèn luyện kỹ năng sẽ không thể đạt kết quả như mong muốn. Giáo 
viên nên bố trí thời gian phù hợp để có thể tiến hành kiểm tra, đánh giá qua 
đó biết được mức độ thực hiện của học sinh; còn về phía học sinh nhờ có  
hoạt động kiểm tra, đáng giá mà có động cơ  thực hiện việc rèn luyện kỹ 
năng, đồng thời có thể  tự  đánh giá khả  năng của mình thông qua kết quả 

kiểm tra, đánh giá của giáo viên.
3. Các phương pháp rèn luyện kỹ  năng viết báo cáo Địa lý trong dạy 
học

13


3.1. Rèn luyện kỹ năng xác định vấn đề báo cáo
Bước 1. Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện.
Giáo viên có thể  đưa ra các vấn đề  địa lý cần quan tâm trong chương 
trình các học sinh được học. Phân tích các chủ  đề, xem xét tính cấp thiết 
của chủ  đề, xem xét về  khả  năng thực hiện được và sở  thích của mình. 
Cần trả lời các câu hỏi: Vấn đề đó có nội dung gì? Có cấp thiết không? Có  
khả  năng thực hiện được không? Vấn đề  đó có hấp dẫn đối với mình  
không?... Sau khi chọn được chủ  để  báo cáo thì cần đặt tên cho bản báo 
cáo. Tên của bản báo cáo phải ngắn gọn, súc tích, khoa học, bám sát chủ 
đề được chọn. Tên chủ đề thường bắt đầu bằng một động từ, mà động từ 
này quyết định các hoạt động cần tiến hành đối với chủ  đề  được chọn, ví 
dụ như: tìm hiểu, phân tích, nghiên cứu,...
Ví dụ: Đối với một bài thực hành có nội dung viết báo cáo cụ thể, giáo  
viên nên định hướng cho học sinh xác định chủ đề báo cáo dựa vào yêu cầu, 
mục tiêu của bài học. Giáo viên có thể đặt câu hỏi để học sinh tự đề xuất 
tên của bài viết báo cáo, sau đó cùng cả lớp thảo luận nhanh để chọn ra tên  
chủ đề báo cáo thích hợp nhất. Ví dụ như: khi dạy bài thực hành ”Viết báo 
cáo về  kênh đào Xuyê và Panama” (chương trình Địa lý 10), giáo viên sau  
khi yêu cầu học sinh đọc kĩ SGK để  nêu nhiệm vụ  của bài thực hành thì  
yêu cầu học sinh xác định vấn đề báo cáo bằng cách để học sinh thảo luận  
với nhau và đề xuất tên của báo cáo (học sinh lên ghi trên bảng). Sau đó, cả 
lớp cùng giáo viên phân tích để lựa chọn tên thích hợp cho báo cáo.
Bước 2. Giáo viên ra bài tập cho học sinh.

Để học sinh có thể rèn luyện thêm về kỹ năng xác định vấn đề báo cáo, 
giáo viên sau khi làm mẫu nên đưa ra bài tập về nhà cho học sinh. Lí do ra  
bài tập về nhà là vì ở lớp học, trong một tiết học (lý thuyết hay thực hành) 
sẽ không có nhiều thời gian để  học sinh làm bài tập rèn luyện thêm về  kỹ 
năng này.
Bước 3. Kiểm tra, đánh giá.
Giáo viên có thể  sử  dụng thời gian đầu giờ  hoặc cuối giờ  để  kiểm tra  
việc thực hiện bài tập về nhà của học sinh bằng cách yêu cầu học sinh nộp  
lại bài tập để  thuận tiện cho việc kiểm tra, đánh giá. Đồng thời sau khi 
đánh giá, giáo viên cũng cần dành thời gian để  tiến hành nhận xét, định  
hướng lại cho học sinh, động viên, khuyến khích để các em làm tốt hơn.

14


Tương tự, giáo viên tiếp tục yêu cầu học sinh làm bài tập xác định vấn  
đề báo cáo sau khi học xong một chương, nhằm rèn luyện kỹ năng cho học  
sinh, hình thành nên thói quen, học sinh sẽ có kỹ năng thuần thục hơn trong  
việc xác định vấn đề  báo cáo  ở  các chương sau và việc xác định vấn đề 
báo cáo cũng sẽ  nhanh hơn. Về sau, giáo viên có thể yêu cầu học sinh xác 
định vấn đề báo cáo sau khi học xong một chương nào đó vào cuối giờ học.  
Khi đó, học sinh có thể  xác định dễ  dàng tại lớp, trình bày ý tưởng, lí do  
của mình khi chọn vấn đề đó. Việc lặp lại nhiều lần các kỹ năng xác định  
vấn đề báo cáo bên cạnh việc rèn luyện kỹ năng viết báo cáo, còn củng cố 
kiến thức trọng tâm của chương, góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
3.2. Rèn luyện kỹ năng thu thập thông tin Địa lý
Bước 1. Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện.
Bước này thường được tiến hành trong các giờ lên lớp, có thể là giờ học 
có hoặc không có yêu cầu thực hành viết báo cáo.
Giáo viên đặt câu hỏi để  yêu cầu học sinh thu thập thông tin cụ  thể từ 

nhiều nguồn thông tin như: sách giáo khoa, bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, tư 
liệu tham khảo,... Câu hỏi đặt ra một cách cụ thể, tiệm cận vấn đề cần thu 
thập sẽ  giúp học sinh có định hướng thu thập thông tin nhanh chóng, hiệu  
quả.
Câu hỏi có thể là do giáo viên đặt ra hoặc có thể sử dụng các câu hỏi có 
trong sách giáo khoa nhằm thu thập thông tin cần thiết.
Câu hỏi có thể có nhiều dạng khác nhau như: nhận xét, trình bày, chứng 
minh, so sánh, phân tích,...
Ví dụ: Khi dạy bài 38 (Địa lý 10) – ”Viết báo cáo ngắn về  kênh đào 
Xuy­ê và kênh đào Pa­na­ma”, giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi để yêu cầu 
học sinh thu thập thông tin cho bài viết báo cáo như sau:
­ Dựa vào bản đồ  các nước trên thế  giới và bản đồ  tự  nhiên thế  giới, 
hãy trình bày đặc điểm về vị trí địa lý của kênh đào Xuy­ê?
­ Dựa vào thông tin trong phần tư  liệu tham khảo (SGK), hãy trình bày 
quá trình xây dựng và hoàn thành kênh đào Xuy­ê?
­ Hãy tính xem quãng đường vận chuyển qua kênh Xuy­ê được rút ngắn  
bao nhiêu hải lí và bao nhiêu phần trăm so với tuyến đường đi vòng qua 
châu Phi?
­ Sự  hoạt động đều đặn của kênh Xuy­ê đem lại lợi ích gì cho ngành 
hàng hải thế giới?
15


­ Nếu đóng cửa kênh đào Xuy­ê thì sẽ gây tổn thất kinh tế như thế nào 
đối với Ai Cập, đối với các nước ven Địa Trung Hải và Biển Đen?
Các câu hỏi trên có thể ghi ra thành phiếu học tập để phát cho học sinh 
nhằm giúp học sinh nắm rõ yêu cầu của công việc thu thập thông tin. Sau  
khi đặt câu hỏi, giáo viên tiến hành các hoạt động như: trao đổi, thảo luận,  
trình bày, góp ý, chuẩn xác kiến thức,... để hoàn thiện thông tin.
Ví dụ: Để  thu thập các thông tin trên, giáo viên chia lớp thành 4 nhóm.  

Giáo viên phát phiếu học tập (có ghi nội dung các câu hỏi nêu trên) cho mỗi  
nhóm. Các thành viên trong mỗi nhóm trao đổi thảo luận để trả lời các câu 
hỏi. Sau đó, đại diện mỗi nhóm trình bày, các nhóm khác bổ  sung, góp ý.  
Giáo viên nhận xét và bổ sung một số thông tin còn thiếu.
Bước 2. Giáo viên ra bài tập về nhà cho học sinh.
Bước này nhằm rèn luyện về  kỹ  năng thu thập thông tin cho học sinh. 
Mục   đích   là   để   học   sinh   được   tiến   hành   công   việc   thu   thập   thông   tin  
thường xuyên, từ  đó hình thành thói quen, kỹ  năng kỹ  xảo thu thập thông 
tin, phục vụ đắc lực cho các bài viết báo cáo sau này.
Các bài tập ra cho học sinh có thể là bài tập về nhà để thu thập thông tin 
cho bài mới, nhằm tìm hiểu bài mới, hoặc có thể  sử  dụng bài tập về  nhà 
để củng cố kiến thức đã học. Để rèn luyện kỹ năng thu thập thông tin hiệu 
quả, các giáo viên nên tiến hành thường xuyên việc ra bài tập về  nhà với 
các câu hỏi cụ thể để tìm hiểu bài mới hoặc củng cố bài học. Các bài tập 
về nhà nhằm tìm hiểu bài mới hay củng cố bài cũ dưới dạng các câu hỏi sẽ 
giúp học sinh học tập có định hướng cụ  thể, có trọng tâm, đồng thời cũng 
giúp giáo viên dễ  dàng hơn trong khâu kiểm tra, đánh giá. Các câu hỏi, bài 
tập giáo viên nên ghi ra phiếu học tập để phát cho học sinh nhằm tiết kiệm  
thời gian và đạt hiệu quả cao khi ra bài tập về nhà cho học sinh.
Học sinh trên cơ  sở  hoàn thành các câu hỏi trên không những củng cố 
kiến thức vừa học một cách sâu sắc, có liên hệ thực tiễn, mà còn rèn luyện 
thêm kỹ  năng thu thập thông tin, đặc biệt là rèn luyện kỹ  năng thu thập  
thông tin từ thực tiễn, từ các tư liệu tham khảo phong phú khác ngoài SGK 
như  tài liệu đọc thêm, các trang web thông tin,... Không những thế, ngoài 
việc thu thập thông tin dưới dạng kênh chữ, giáo viên có thể  yêu cầu học  
sinh thu thập thông tin dưới dạng kênh hình.
Bước 3. Kiểm tra, đánh giá.

16



Sau khi tiến hành các bước rèn luyện kỹ  năng thu thập thông tin dưới 
dạng đạt câu hỏi, bài tập cho học sinh, giáo viên cần tiến hành bước kiểm 
tra, đánh giá.
Kiểm tra, đánh giá kỹ  năng thu thập thông tin có thể  tiến hành  ở  đầu 
giờ, trong quá trình dạy học.
Ví dụ: Đầu giờ  học, giáo viên kiểm tra việc chuẩn bị  bài mới của học 
sinh thông qua việc hoàn thiện các bài tập về nhà mà giáo viên đã giao, với  
mục đích thu thập thông tin cần thiết phục vụ cho việc tìm hiểu bài mới. 
Giáo viên có thể đánh giá để cho điểm kỹ năng cũng như  nhận xét về  thái 
độ  thực hiện bài tập về  nhà của học sinh, từ  đó có biện pháp nhắc nhở,  
định hướng học sinh kịp thời.
Trong quá trình dạy học, giáo viên kiểm tra, đánh giá kỹ  năng thu thập 
thông tin của học sinh bằng cách tổ  chức các hoạt động dạy học như: sau  
khi tiến hành thảo luận thì yêu cầu học sinh phải trình bày kết quả  thảo 
luận trước lớp. Giáo viên cùng học sinh cả  lớp có những nhận xét, góp ý 
về  kết quả  thảo luận đó. Sau cùng, giáo viên có nhận xét, định hướng cụ 
thể để chốt lại thông tin cần thiết phải thu thập.
Kiểm tra, đánh giá còn là căn cứ để giáo viên tiến hành tăng hay giảm mức  
độ khó, dễ của các câu hỏi, bài tập rèn luyện kỹ năng thu thập thông tin cho  
học sinh sau này.
3.3. Rèn luyện kỹ năng xử lí, tổng hợp thông tin Địa lý
Bước 1. Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện.
Để hướng dẫn học sinh xử lý, tổng hợp thông tin, giáo viên cần đặt câu 
hỏi để giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh. Câu hỏi có yêu cầu xử lý, tổng  
hợp thông tin được đặt ra từ  mức độ  dễ  đến khó, từ  cụ  thể  đến khái quát  
hóa để rèn luyện kỹ năng.
Giáo viên nên đặt câu hỏi rèn luyện kỹ năng xử lý, tổng hợp thông tin đi  
kèm với yêu cầu học sinh làm việc với bảng số liệu, bản đồ, lược đồ, biểu 
đồ, tranh  ảnh, thông tin... Yêu cầu của các câu hỏi thường dưới dạng: so  

sánh, xử  lý số  liệu, phân tích, chứng minh, rút ra nhận định,... Để  dễ  dàng 
hơn trong việc hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ  năng xử  lý, tổng hợp  
thông tin, các câu hỏi đặt ra cần thiết kế  theo dạng phiếu học tập, sau đó 
phát cho học sinh (theo nhóm/ cá nhân).
Giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác thông tin, tổng hợp thông tin để 
hoàn thành phiếu học tập, học sinh trong các nhóm trao đổi, bổ  sung cho  
17


nhau và điền vào phiếu học tập. Sau đó, đại diện nhóm phát biểu, các nhóm  
khác bổ sung. Giáo viên chuẩn kiến thức.
Bước 2. Giáo viên ra bài tập về nhà cho học sinh.
Bài tập về nhà với yêu cầu xử lý, tổng hợp thông tin là rất cần thiết để 
học sinh rèn luyện thêm về kỹ năng xử lý, tổng hợp thông tin. Do đây là kỹ 
năng khó nên học sinh cần phải rèn luyện thường xuyên. Giáo viên có thể 
ra các bài tập xử lý, tổng hợp thông tin thuận lợi nhất là sau khi học xong  
một bài học, yêu cầu học sinh về nhà làm bài tập. Các bài tập đặt ra để rèn  
luyện kỹ  năng xử  lý, tổng hợp thông tin tại lớp rất khó tiến hành vì thời 
gian không cho phép. Bài tập về  nhà có yêu cầu xử  lý, tổng hợp thông tin  
ngoài ý nghĩa rèn luyện kỹ năng còn có thể giúp học sinh củng cố tri thức,  
tiếp thu tri thức, phát triển tư duy và khả năng vận dụng tri thức. Học sinh  
thông qua việc làm bài tập rèn luyện kỹ năng này sẽ có điều kiện phát triển  
kỹ năng tự học: tự phân tích, tự tổng hợp, khái quát hóa các thông tin.
Ví dụ 1: Sau khi dạy xong bài 41 (Địa lý 10) – ”Môi trường và tài nguyên 
thiên nhiên”, để  rèn luyện kỹ  năng tổng hợp, khái quát hóa thông tin, giáo 
viên ra bài tập về nhà cho học sinh là: ”Em hãy chứng minh rằng sự tiến bộ 
của khoa học công nghệ có thể giúp con người giải quyết tình trạng đe dọa 
khan hiếm tài nguyên khoáng sản”. Với câu hỏi này, học sinh về nhà phải 
thu thập thông tin về  các tiến bộ  khoa học công nghệ, từ  đó xử  lý, phân  
tích, tổng hợp các thông tin để  làm rõ vấn đề  giải quyết tình trạng khan  

hiếm tài nguyên khoáng sản.
Bước 3. Kiểm tra, đánh giá.
Để  hoàn thiện kỹ  năng xử  lý, tổng hợp thông tin, sau khi ra bài tập về 
nhà cho học sinh, giáo viên cần tiến hành kiểm tra, đánh giá kịp thời. Đây là 
kỹ năng khó nên công tác kiểm tra, đánh giá càng được chú trọng. Kiểm tra,  
đánh giá kỹ  năng xử  lý, tổng hợp thông tin có thể  tiến hành vào đầu giờ 
học (kiểm tra học sinh làm bài tập về  nhà được giao). Ngoài ra, giáo viên  
cũng nên đưa yêu cầu về  kỹ  năng xử  lý, tổng hợp thông tin vào trong các 
bài kiểm tra định kì (1 tiết, kiểm tra học kì) để  phân hóa học sinh trong 
kiểm tra, đánh giá. Các câu hỏi kiểm tra có thể đưa vào ở mức độ phân tích,  
vận dụng. Việc làm này hoàn toàn phù hợp với xu hướng đổi mới trong 
kiểm tra, đánh giá, từ  đó thúc đẩy quá trình đổi mới trong dạy và học của 
giáo viên và học sinh, giúp học sinh chú trọng phát triển tư  duy, kỹ  năng 
một cách chủ động, sáng tạo.

18


3.4. Rèn luyện kỹ năng lập đề cương viết báo cáo
Bước 1. Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện.
Trong bước này, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh cách lập đề 
cương bài  báo cáo địa lý bằng cách đặt các câu hỏi như:
­ Chủ đề nội dung báo cáo là gì?
­ Cấu trúc bao gồm mấy phần? Đó là các phần nào? Ý chính của từng 
phần?
Phần lập dàn ý (đại cương và chi tiết) rất quan trọng, nó giúp người  
viết phác họa ra một bố cục trình bày bao quát một số đặc điểm khái quát, 
quan trọng. GV nên hướng dẫn HS xác định giới hạn trong khoảng 2 – 4  
đặc điểm chủ  chốt thể  hiện rõ nét, tạo nên khung sườn cho bản báo cáo. 
Nhờ  đó, việc chi tiết hóa nội dung của bản báo cáo trên cơ  sở  dàn ý đại 

cương sẽ dễ dàng hơn.
Đối với nội dung này, giáo viên có thể định hướng cho học sinh về cấu  
trúc một bài báo cáo khoa học bao gồm 3 phần: phần mở  đầu, phần nội  
dung, phần kết luận. Trong phần mở đầu cần phải nêu được tính cấp thiết  
của vấn đề, làm rõ vì sao chọn vấn đề đó và khái quát về nội dung vấn đề. 
Phần nội dung phải chi tiết hơn thông qua các ý lớn, ý nhỏ  thể  hiện các 
vấn đề  liên quan đến chủ  đề  báo cáo, nhằm làm rõ vấn đề, thuyết phục 
người nghe, người đọc. Phần kết luận phải vừa ngắn gọn vừa thể  hiện  
được trọng tâm vấn đề  cần đề  cập, cần có đề  xuất, kiến nghị  để  phát  
triển vấn đề  báo cáo. Hoặc có thể  đặt ra các vấn đề  nảy sinh, các mâu 
thuẫn mới cần giải quyết để người đọc, người nghe bàn luận thêm và giải  
quyết.
­ Cần thu thập cái gì? Ở đâu? Bằng cách nào?
­ Cần chuẩn bị  các phương tiện gì? (bản đồ, biểu đồ, bảng số  liệu,  
tranh ảnh, máy chiếu,...)
­ Ngoài ra, học sinh cần xác định thời gian nghiên cứu vấn đề (Khi nào?  
Bao lâu?). Trong đề  cương báo cáo cũng cần thể  hiện rõ các tài liệu tham 
khảo cần thiết để thực hiện việc viết báo cáo.
Ví dụ: Khi dạy bài thực hành viết báo cáo ngắn về  kênh đào Xuy­ê và 
kênh đào Pa­na­ma, sau khi xác định tên (chủ đề) báo cáo, giáo viên tổ chức  
hướng dẫn học sinh lập đề cương bài báo cáo như sau:
Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, thảo luận để trả lời các câu hỏi sau để 
hoàn thành đề cương bài cáo cáo:
19


­ Chủ đề nội dung bài báo cáo là gì?
­ Bài báo cáo bao gồm mấy phần? Đó là các phần nào? Nội dung chính  
của từng phần là gì?
­ Cần phải làm gì để  có được các thông tin cần thiết về  hai kênh đào 

này?
­ Cần chuẩn bị các phương tiện gì? (bản đồ, bảng số liệu, tranh ảnh, máy  
chiếu,...)
Học sinh thảo luận (5 phút) và cử  đại diện ghi chép ý kiến thảo luận  
của nhóm. Sau đó giáo viên gọi các đại diện trong nhóm trình bày dàn ý của 
nhóm mình.
Cả  lớp cùng thảo luận về  các dàn ý đã được trình bày. Giáo viên tổng 
kết rút ra kết luận để thống nhất một dàn ý tiêu biểu nhất.
Sau đó giáo viên cần phải rút ra các ghi nhớ  nhằm giúp học sinh rút ra 
được các vấn đề cần lưu ý khi lập dàn ý bài viết.
Bước 2. Giáo viên ra bài tập cho học sinh.
Bước này nhằm mục đích để học sinh luyện tập ở nhà để rèn luyện kỹ 
năng. Giáo viên có thể chọn các vấn đề trong nội dung chương trình mà các 
em đã học để yêu cầu học sinh lập dàn ý. Yêu cầu học sinh làm bài tập vào  
vở bài tập hoặc vào giấy để nộp lại. Vì là bài tập về nhà nên giáo viên có  
thể nhắc nhở học sinh lưu ý trong đề  cương bài báo cáo phải có thời gian 
thực hiện (Khi nào? Bao lâu?), tài liệu tham khảo để  hoàn thành bài báo 
cáo.
Bước này có thể thực hiện khi kết thúc bài thực hành viết báo cáo, hoặc 
có thể tiến hành ở bất kì tiết học nào. Chủ  đề  yêu cầu học sinh lập dàn ý 
báo cáo để  luyện tập có thể  là một nội dung học sinh vừa học xong hoặc  
một nội dung mới nào đó mà học sinh chưa học (tuy nhiên phải nằm trong  
nội dung chương trình giáo dục phổ thông) nhằm rèn luyện kỹ năng.
Để  thuận tiện cho việc rèn luyện kỹ  năng lập đề  cương báo cáo, giáo 
viên nên chuẩn bị trước bằng cách lập phiếu học tập với các câu hỏi định 
hướng ghi trong phiếu về chủ đề cần viết để phát cho học sinh. Phiếu học  
tập này vừa có ý nghĩa định hướng học sinh thực hiện bài tập một cách cụ 
thể, rõ ràng, vừa có thể giúp giáo viên tiết kiệm thời gian trong khâu dặn dò 
học sinh thực hiện bài tập.
Bước 3. Kiểm tra, đánh giá.


20


Sau khi học sinh thực hiện bài tập (vào vở, vào giấy hoặc vào phiếu học 
tập) thì giáo viên cần phải tiến hành kiểm tra, đánh giá. Học sinh nộp lại  
bài tập cho giáo viên. Giáo viên có thể nhận xét, đánh giá vào đầu giờ học 
một số bài làm của học sinh, hoặc có thể chấm điểm, nhận xét ở  nhà, sau 
đó trả bài lại cho học sinh. Lưu ý trong nhận xét, đánh giá, giáo viên nên rút 
ra các ghi nhớ, các lưu ý để  học sinh rút kinh nghiệm, hoàn thiện hơn cho  
các bài tập sau.
Việc kiểm tra, đánh giá có thể  tiến hành  ở  đầu giờ  học, trong giờ  học  
hoặc cuối giờ  học bằng nhiều hình thức khác nhau. Tuỳ  vào trình độ  học 
sinh mà có thể  yêu cầu học sinh phát biểu thành lời từ  đề  cương (dàn ý) 
báo cáo hoặc yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi tương ứng với nội dung  
bài viết. Trong quá trình kiểm tra, giáo viên nên lưu ý các học sinh yếu, học  
sinh chưa tích cực học tập để điều chỉnh và giúp đỡ kịp thời.
3.5. Rèn luyện kỹ năng trình bày báo cáo Địa lý
Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện.
Trình bày báo cáo có thể dưới dạng bài viết hay trình bày miệng.
* Đối với báo cáo trình bày dưới dạng bài viết:
Giáo viên đặt câu hỏi để  gợi ý, định hướng cho học sinh các nội dung, 
trình tự  (cách trình bày) của báo cáo. Bên cạnh việc đặt câu hỏi, giáo viên 
có thể  cung cấp cho học sinh một số  mẫu trình bày bản báo cáo thông  
dụng.
Ví dụ: Hình thức thông dụng để trình bày một bản báo cáo như sau:
1. Tên vấn đề.
2. Địa điểm, thời gian thực hiện, tên người thực hiện.
3. Nội dung chính: bố  cục bao gồm 3 phần (mở   đầu, nội dung, kết  
luận).

­ Phần mở  đầu: Khái quát vấn đề  báo cáo, nêu cấu trúc báo cáo. Phần  
này nhằm định hướng cho người đọc vào những nội dung chi tiết của vấn  
đề   đang   được   nghiên   cứu,   thường   bao   gồm   những   lý   do   để   làm   cuộc 
nghiên cứu, phạm vi của công việc, sự hình thành phương pháp của vấn đề 
nghiên cứu, những mục tiêu cần đạt  đến và cơ  sở   để  hình thành cuộc 
nghiên cứu.
­ Phần nội dung: trình bày cụ thể nội dung báo cáo theo đề cương, dàn ý 
đã lập. Nêu nhận xét, đề xuất nếu có. Phần này thường dài nhất trong bản  
báo cáo vì khối lượng các dữ  liệu, số  liệu thu thập rất lớn. Để  diễn giải  
21


các dữ liệu, số liệu này thì người viết phải sắp xếp, tổ chức sao cho có thể 
truyền đạt được ý nghĩa của các dữ liệu thu thập được. Việc này cần đến 
các kỹ thuật thống kê và phân tích. Có một số phương tiện giúp ta trình bày 
kết quả  nghiên cứu như  các bản đồ, biểu đồ, hình  ảnh,... và khi sử  dụng 
phải giải thích đầy đủ, rõ ràng.
­ Phần kết luận: Tóm tắt quá trình thực hiện báo cáo. Phần này các kết 
luận và đề xuất những hành động cần phải rút ra từ việc suy luận của kết  
quả bằng các phương pháp quy nạp hoặc diễn giải. Những kết luận có thể 
được chứng minh hoặc phủ nhận những tiền đề hoặc những giải thuyết đã 
được đưa ra. Những kết luận phải xuất phát hợp lý từ  các kết quả nghiên 
cứu, tìm hiểu để tránh sai lầm.
Các kết luận có được là điều kiện tốt nhất để từ đó đưa ra các đề xuất  
về giải pháp, trong đó cần ghi rõ nhiệm vụ của ai, làm gì ở đâu, lúc nào và  
tại sao? Các đề nghị không chỉ phụ thuộc vào bản chất của quyết định mà  
còn phụ  thuộc vào kiến thức của người thực hiện về  toàn cảnh của vấn 
đề. 
Trong quá trình nghiên cứu có thể nảy sinh một số vấn đề vượt ra ngoài 
phạm vi nghiên cứu và chưa thể  đi sâu nghiên cứu song cũng nên đề  cập 

đến trong báo cáo. Khi đó tác giả báo cáo phải trình bày rõ những giới hạn  
báo cáo để độc giả hiểu.
4. Phụ  lục: Phần này cung cấp thêm các chỉ  dẫn, các tư  liệu đã được 
đưa ra trong phần chính của báo cáo. Tư liệu trong phụ lục chứa nội dung 
thông tin chi tiết và (hoặc) triển khai thông tin có trong bản báo cáo. 
5. Danh mục tài liệu tham khảo đã được sử  dụng: Đây là phần cuối  
cùng trong bản trình bày báo cáo. Nó chứa đựng những thông tin chi tiết để 
tham khảo, hoặc những tài liệu gốc được tìm thấy trong nhiều dạng thông 
tin chẳng hạn như bài viết, sách, tạp chí,... Dù là học sinh phổ thông, chưa 
yêu cầu cao về việc sắp xếp các tài liệu tham khảo theo như quy cách của  
một bài nghiên cứu khoa học, nhưng ít nhất các em cũng cần biết sắp xếp  
thứ  tự  tài liệu tham khảo theo trật tự  nhất định. Ví dụ  như: tài liệu tham 
khảo được xếp riêng theo từng ngôn ngữ (Anh, Việt,…); tài liệu tham khảo 
được xếp theo thứ tự A, B, C của họ tên tác giả  (đối với tác giả  là người  
nước ngoài thì xếp thứ  tự  A, B, C theo họ, đối với tác giả  là người Việt  
Nam thì xếp thứ tự A, B, C theo tên,…
Tương  ứng với từng nội dung, giáo viên thiết lập các hoạt động giữa 
giáo viên và học sinh để hướng dẫn học sinh cách trình bày báo cáo. Đồng  
22


thời, giáo viên cần song hành định hướng, điều chỉnh cho học sinh về  văn 
phong, ngôn ngữ sử dụng trong báo cáo phải đảm bảo tính khoa học, ngắn  
gọn và dùng ở thể bị động.
Báo cáo nếu được minh họa bằng các phương tiện trực quan như  bản  
đồ, biểu đồ, bảng biểu, sơ  đồ, tranh  ảnh,... thì sẽ  mang tính thuyết phục  
cao, tăng tính rõ ràng, rành mạch và gây  ấn tượng. Do đó, giáo viên cần 
định hướng cho học sinh cách chọn lọc và đưa các phương tiện trực quan 
vào trong báo cáo.
Ngoài ra, giáo viên có thể  hướng dẫn (làm mẫu) cho học sinh cách ghi 

các câu trích nguyên văn từ  tài liệu tham khảo, cách ghi nguồn tham khảo, 
cách liệt kê các tài liệu tham khảo (nếu có).
* Đối với bài cáo cáo thuyết trình bằng miệng:
Phần lớn các báo cáo nghiên cứu được trình bày dưới dạng văn bản, 
nhưng sẽ  có hiệu quả  hơn nếu được trình bày các kết nghiên cứu bằng 
miệng (thuyết trình) trước một tập thể. Qua đó có thể biết được các phản  
ứng, trả lời các câu hỏi  và đối phó lại với mọi sự phản đối hoặc nghi ngờ 
nảy sinh ra. Tuy nhiên việc thuyết trình không thể  thay thế  cho báo cáo 
bằng văn bản.
Để buổi thuyết trình có hiệu quả cần thực hiện theo các bước sau đây:
 1: Xác định các đối tượng nghe thuyết trình:
Giáo viên cần lưu ý học sinh giải quyết các câu hỏi sau: Ai nghe? Đặc  
điểm của họ? Thông tin nào về  đề  tài sẽ  được trình bày mà họ  biết rồi  
hoặc chưa biết? Họ có khả năng hiểu vấn đề gì mà không cần giải thích tỉ 
mỉ, lĩnh vực nào cần được nhấn mạnh và những câu hỏi họ có khả năng sẽ 
nêu ra? Đây là công việc  rất cần thiết để việc truyền đạt có hiệu quả cao.
2: Lựa chọn kỹ thuật truyền đạt:
Có 4 hình thức cơ bản của việc phát biểu: Nói ứng khẩu; Nói bằng cách 
dùng trí nhớ; Đọc một bài soạn trước; Tuỳ ứng.
Không nên sử dụng 2 phương pháp đầu để trình bày kết quả nghiên cứu 
khi việc trình bày đòi hỏi yếu tố chính xác cao. Nói bằng trí nhớ không thể 
truyền đạt được những thông tin quan trọng do khó có thể nhớ chính xác và 
làm cho cuộc trình bày có thể không linh hoạt. Dù trình bày bằng cách nào 
thì việc truyền đạt cũng phải được tập dượt và chuẩn bị kỹ.
3: Xem xét việc sử dụng những phương tiện nghe nhìn:

23


Để  lựa chọn các phương tiện nghe nhìn thích hợp, giáo viên cần lưu ý 

học sinh xem xét những điều sau đây:
+ Cần tạo ra việc nhìn thấy để tăng cường. Nổi bật hoặc đơn giản hoá 
các ý tưởng của người trình bày.
+ Thông tin nhìn thấy được nên dễ hiểu và không nên hỗn độn với quá 
nhiều chất liệu, một lúc chỉ  nên diễn đạt một ý tưởng hay một khái niệm  
mà thôi.
+ Hình ảnh nhìn thấy cần đủ lớn để toàn thể người nghe có thể thấy dễ 
dàng do đó phải chú ý đến khối lượng và vị trí người nghe.
+ Lựa chọn kỹ thuật trình bày có minh hoạ bằng mắt hiệu quả nhất
Bước 2: Giáo viên ra bài tập cho học sinh.
Tại lớp học, chỉ  có một vài tiết học có thể  rèn luyện kỹ  năng trình bày 
báo cáo, thông thường là các tiết thực hành có nội dung viết báo cáo. Do đó, 
việc tăng cường rèn luyện kỹ  năng trình bày báo cáo cần được tiến hành 
thường xuyên hơn thông qua việc ra bài tập về nhà cho học sinh thực hiện. 
Bài tập về nhà có thể có nội dung gắn liền với nội dung học sinh vừa tìm 
hiểu xong, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà làm bài viết báo cáo trình bày 
tóm tắt các nội dung vừa học. Bài tập về nhà có thể liên quan đến một chủ 
đề  nào đó do giáo viên đặt ra nhằm rèn luyện thêm cho học sinh kỹ  năng 
trình bày thông tin.
Đối với kỹ năng trình bày báo cáo bằng miệng thì có thể được luyện tập 
nhiều hơn cho học sinh thông qua các tiết học trên lớp. Khi giáo viên tiến 
hành tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh trong các tiết học lý thuyết 
thông qua phương pháp thảo luận, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh  
trình bày các vấn đề  được giao. Thông qua việc trình bày kết quả  thảo 
luận, học sinh vừa rèn luyện được kỹ năng trình bày thông tin, vừa tăng sự 
tự tin, mạnh dạn khi trình bày trước tập thể. Ngoài ra, qua các tiết học này,  
giáo viên có thể  điều chỉnh, hướng dẫn học sinh về  tác phong trình bày,  
ngôn từ, cách mở  đầu, gợi mở, hay kết thúc một vấn đề  cần trình bày  
trước lớp như thế nào là đạt hiệu quả và gây sự chú ý cho người nghe.
Bước 3. Kiểm tra, đánh giá.

Để khắc phục vấn đề về thời gian hạn chế trong một tiết học và để dễ 
dàng kiểm tra, đánh giá sự  tiến bộ  của học sinh trong việc rèn luyện kỹ 
năng trình bày thông tin, giáo viên nên yêu cầu học sinh tiến hành các bài  
tập và nộp lại bằng giấy (bài viết). Giáo viên có thể thu các bài viết để về 
24


nhà xem và nhận xét, có thể cho điểm (nếu cần). Cách khác là giáo viên có 
thể  cho các điểm cộng các bài viết, sau đó cộng các điểm đó lại để  tính 
điểm tổng cho học sinh. Điều đó sẽ tăng cường được tính nghiêm túc trong  
rèn luyện kỹ năng trình bày thông tin của học sinh.
Để  làm được điều này, giáo viên cần lập kế  hoạch rèn luyện và kiểm  
tra, đánh giá định kì trong từng học kì. Việc định trước sẽ ra bài tập với nội 
dung nào, vào thời gian nào, có bao nhiêu bài tập và mức độ như thế nào sẽ 
thuận tiện cho việc kiểm tra, đánh giá. Giáo viên cần thông báo trước cho 
học sinh hay đưa ra các quy ước trước về kiểm tra, đánh giá các bài tập đặt 
ra trong một học kì để học sinh chủ động, tích cực hơn trong rèn luyện các 
kỹ năng cần thiết.
4. Thí dụ  minh họa về  rèn luyện kỹ  năng viết báo cáo cho học sinh 
trong môn Địa lý 10 THPT
Bài 38. Thực hành: Viết báo cáo ngắn về  kênh đào Xuy­ê và kênh 
đào Pa­na­ma (Địa lý 10 – Cơ bản).
I. Mục tiêu bài học:
Sau bài học, HS cần:
1. Kiến thức:
­ Hiểu được vị  trí chiến lược và vai trò của hai kênh biển nổi tiếng: 
Xuy­ê và Pa­na­ma.
­ Hiểu được những lợi ích về kinh tế nhờ có sự hoạt động của các kênh  
đào này.
2. Kỹ năng:

­ Biết tổng hợp tài liệu, phân tích bảng số  liệu kết hợp với phân tích 
bản đồ.
­ Viết được báo cáo ngắn và trình bày kết quả trước lớp.
II. Thiết bị dạy học:
­ Lược đồ kênh đào Xuy­ê và Pa­na­ma (phóng to).
­ Lược đồ vị trí của kênh đào Xuy­ê, kênh đào Pa­na­ma và một số cảng 
lớn trên thế giới.
­ Bản đồ tự nhiên và bản đồ các nước châu Phi.
­ Bản đồ tự nhiên và bản đồ các nước châu Mĩ.
­ Tập bản đồ Thế giới và các châu lục.
­ Các tài liệu bổ sung về kênh đào Xuy­ê và kênh đào Pa­na­ma.
25


×