MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong các yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học Địa lý theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh, đa số giáo viên đều lựa chọn các phương
pháp nhằm phát triển tư duy, tính tích cực của học sinh. Tuy nhiên các
phương pháp dạy học tích cực yêu cầu hướng vào việc rèn luyện kỹ năng thu
thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, kỹ năng phân tích, tổng hợp, khái
quát để rút ra kết luận về các thông tin thu thập được, kỹ năng trình bày kết
quả nghiên cứu thông tin một cách khoa học, thuyết phục – còn gọi là kỹ năng
báo cáo và các phương pháp mà giáo viên vận dụng để rèn luyện kỹ năng viết
và trình bày báo cáo cho học sinh – thì giáo viên vẫn còn nhiều lúng túng
trong quá trình sử dụng. Đây là những phương pháp dạy học tích cực có tác
dụng tốt trong dạy học phát triển các kỹ năng học tập của học sinh, phù hợp
với xu hướng rèn luyện khả năng hoạt động độc lập, chủ động trong quá trình
nhận thức. Phương pháp này còn rèn luyện cho học sinh các kỹ năng phân
tích, liên hệ, trình bày,… khi tìm hiểu một vấn đề yêu cầu vận dụng kiến thức
đã học và liên hệ thực tiễn một cách hiệu quả hơn.
Lớp 10 là lớp đầu cấp THPT nên các em chưa hình thành đầy đủ về kỹ
năng viết báo cáo, vì vậy việc rèn luyện kỹ năng viết báo cáo cho các em là
tiền đề để các em hoàn thiện hơn kỹ năng này đồng thời là cơ sở cho việc viết
báo cáo ở các lớp sau.
Để tăng cường việc rèn luyện cho học sinh các kỹ năng thu thập, xử lí
thông tin, từ đó tổng hợp và trình bày thông tin góp phần hình thành những
năng lực cần thiết của người lao động mới ở học sinh, góp phần nâng cao hiệu
quả dạy học bộ môn Địa lý trung học phổ thông (THPT), tôi đã chọn nghiên
cứu vấn đề “Rèn luyện kỹ năng viết báo cáo Địa lý cho học sinh lớp 10
trung học phổ thông”. Hi vọng sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ
môn Địa lý.
2. Mục tiêu của đề tài
Xác định được hệ thống kỹ năng viết báo cáo Địa lý và các phương pháp rèn
luyện các kỹ năng đó nhằm nâng cao chất lượng dạy học Địa lý 10 THPT.
3. Nhiệm vụ của đề tài
- Nghiên cứu cơ sở lí luận cho việc xác định hệ thống kỹ năng cần thiết cho việc
viết báo cáo Địa lý trong dạy học.
1
- Tìm hiểu thực trạng dạy và học các bài viết báo cáo Địa lý trong chương trình
Địa lý 10 THPT (ban cơ bản) hiện nay.
- Xác định hệ thống kỹ năng cần thiết cho việc viết báo cáo Địa lý trong dạy học
Địa lý THPT, từ đó xác định phương pháp phù hợp để rèn luyện các kỹ năng đó.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để thấy được tính khả thi và hiệu quả của việc
sử dụng hệ thống kỹ năng viết báo cáo Địa lý trong dạy học Địa lý 10 THPT.
4. Phạm vi nghiên cứu
Các bài viết báo cáo Địa lý lớp 10 THPT (Ban cơ bản).
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lí thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC RÈN
LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT BÁO CÁO ĐỊA LÝ CHO HỌC SINH LỚP 10
THPT
1. Báo cáo Địa lý
1.1. Khái niệm
- Báo cáo là một hình thức mà trong đó, học sinh dưới sự hướng dẫn của
giáo viên, thu thập, phân tích, tổng hợp số liệu, tư liệu, trình bày thành báo
cáo, sau đó thuyết trình trước nhóm hay toàn lớp.
- Báo cáo Địa lý là một dạng bài thực hành, mà trong đó học sinh dưới sự
hướng dẫn của giáo viên, tiến hành thu thập, phân tích, tổng hợp, khái quát
hóa thông tin địa lý, sau đó viết và trình bày báo cáo về một vấn đề địa lý
trước lớp hoặc trước nhóm.
Báo cáo có thể tiến hành trong chương trình nội khóa hoặc ngoại khóa.
1.2. Phân loại báo cáo Địa lý
Báo cáo Địa lý có thể trình bày dưới nhiều dạng khác nhau:
- Báo cáo Địa lý trình bày dưới dạng một bài viết (dài hay ngắn) về một
vấn đề địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội của địa phương, quốc gia hay một vấn
đề toàn cầu. Đây là loại phổ biến hiện nay trong chương trình phổ thông.
- Báo cáo Địa lý có thể là một số sưu tập tranh ảnh được sắp xếp theo hệ
thống kèm theo lời thuyết minh, một số hệ thống lược đồ, hình vẽ, tranh ảnh,
sơ đồ thể hiện một chủ đề nhất định.
1.3. Nội dung báo cáo Địa lý
Nội dung báo cáo địa lý rất phong phú. Đó là các vấn đề về tự nhiên, kinh
tế - xã hội của địa phương, đất nước và toàn cầu.
- Báo cáo có thể được tiến hành sau khi tổng kết bài học, một chủ đề, một
chương, hay tổng kết chương trình nhằm hệ thống hóa kiến thức đã học.
- Ngoài ra, báo cáo còn được tiến hành sau khi khảo sát, điều tra các đối
tượng địa lí ở địa phương.
1.4. Tầm quan trọng của báo cáo Địa lý trong dạy học
Trong dạy học báo cáo địa lý có vai trò quan trọng, nó rèn luyện cho học
sinh các khả năng như:
- Nói, giao tiếp và trình bày quan điểm của mình trước người khác.
- Thu thập những thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như sách vở, tài liệu
tham khảo, số liệu trên thực địa,
- Hiểu được phương pháp trình bày một báo cáo khoa học dù là đơn giản.
3
- Hiểu những vấn đề được trình bày một cách kỹ lưỡng theo hướng ”học qua
làm”.
- Đối đáp hoặc thảo luận, tranh luận với người khác một cách lôgic.
- Hợp tác với các bạn trong nhóm, tổ, lớp.
- Nâng cao kĩ năng sống.
Như vậy, kỹ năng báo cáo thường dùng cho học sinh ở THPT thể hiện
sự vận dụng tổng hợp nhiều kỹ thuật khác nhau như tìm tòi, khám phá,
quan sát, phỏng vấn, thuyết trình, đối thoại, Rèn luyện được kỹ năng này
nghĩa là HS đã đặt mình vào vị trí của người vừa có khám phá, tìm tòi,
phân tích, tổng hợp, khái quát hóa kiến thức, vừa phổ biến các tri thức địa
lý cho những người xung quanh mình.
1.5. Các hoạt động làm cơ sở hình thành kỹ năng viết báo cáo địa lý
1.5.1. Thu thập thông tin
Muốn thu thập thông tin thì cần thiết phải xác định được vấn đề báo cáo là
gì? Cụ thể hơn là phải xác định tên hoặc nội dung mà bài báo cáo cần đề cập
đến. Trên cơ sở xác định vấn đề báo cáo, người viết sẽ có cơ sở để tiến hành
thu thập thông tin liên quan đến vấn đề đó một cách nhanh nhất, hiệu quả
nhất.
Khi sử dụng các thông tin thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau, cần
chọn lọc những thông tin có liên quan đến chủ đề báo cáo. Các thông tin chọn
lọc nên ghi thành phiếu rời, hoặc photo thành tờ rời và bỏ vào túi hồ sơ báo
cáo, sắp xếp theo trật tự để dễ sử dụng khi viết báo cáo. Các tập số liệu, bảng
số liệu, bản đồ, tranh ảnh, nên để riêng.
1.5.2. Xử lý, tổng hợp thông tin
Công việc này bao gồm phân tích, tổng hợp, khái quát hóa nguồn tư liệu
đã thu thập được.
- Phân tích tư liệu: Cần xem xét tư liệu thu thập được có chính xác, cập nhật
không? Nội dung tư liệu bao hàm vấn đề gì? Liên quan đến nội dung nào của
báo cáo?,
- Tổng hợp tư liệu: bổ sung thêm những thông tin còn thiếu, lựa chọn
những nội dung của tư liệu cần làm rõ cho nội dung của báo cáo, liên hệ các
thông tin với nhau nhằm xác lập tính thống nhất và rút ra các nhận xét cần
thiết phù hợp với bản chất của sự việc, hiện tượng trong chủ đề báo cáo.
- Khái quát hóa: trong báo cáo cần nêu những nhận xét, ý kiến nhận định
khái quát hóa, hoặc từ kết quả hiện tượng có thể có những đề xuất thích hợp
về giải pháp, biện pháp.
4
1.5.3. Trình bày thông tin
Hình thức trình bày thông tin có thể là bản báo cáo, hoặc trình bày miệng
(trên cơ sở đề cương chuẩn bị sẵn).
Để trình bày thông tin địa lý khoa học, việc đầu tiên cần phải xây dựng
được đề cương (dàn ý) bài báo cáo. Đề cương (dàn ý) bài báo cáo xây dựng ở
mức độ khái quát, sau đó chi tiết hóa để làm cơ sở cho việc viết một bản báo
cáo hoàn chỉnh.
a. Bài viết báo cáo
- Bản báo cáo của học sinh nên có những nội dung sau:
+ Giới thiệu ngắn gọn về vấn đề báo cáo: tên đề tài, địa điểm, thời gian,
mục đích và nhiệm vụ cụ thể của hoạt động.
+ Trình bày vắn tắt các hoạt động và phương pháp đã thực hiện.
+ Trình bày, mô tả những kết quả thực hiện được.
+ Kết luận, đề xuất ý kiến (nếu có).
- Ngôn ngữ của báo cáo:
+ Văn phong khoa học, ngắn gọn, súc tích, không dùng văn nói trong báo
cáo.
+ Trình bày vấn đề khách quan, không thể hiện cảm xúc của mình hoặc
mô tả theo hình thức văn học.
+ Câu trong báo cáo nên dùng ở thể bị động. Ví dụ: không viết: ”chúng tôi
đã nghiên cứu kỹ vấn đề trên và thấy rằng ” mà nên viết ”Từ kết quả nghiên
cứu vấn đề trên, có thể thấy ”
+ Để báo cáo ngắn gọn và làm rõ vấn đề, nên tăng cường sử dụng bản đồ,
lược đồ, tranh ảnh, biểu đồ, sơ đồ, bảng số liệu, các số liệu rời,
- Trình bày bản báo cáo:
+ Dùng đề mục hợp lí.
+ Nếu câu trích nguyên văn trong tài liệu thì để trong ngoặc kép và ghi rõ
xuất xứ (nguồn).
+ Các tư liệu, số liệu, bảng số liệu được sử dụng ở trong báo cáo phải ghi rõ
nguồn.
+ Các số liệu thống kê phải ghi rõ năm thống kê.
+ Các báo cáo làm trong thời gian dài, có nhiều nội dung cần phải có danh
mục tài liệu tham khảo (xếp theo vần A, B, C họ của tác giả).
5
b. Trình bày miệng trên cơ sở đề cương đã chuẩn bị sẵn phải chú ý
những điểm sau:
- Phần thuyết trình trước lớp bao gồm việc trình bày một nội dung báo cáo,
kết luận vấn đề, nêu câu hỏi cho người nghe hoặc đề nghị người nghe đặt câu
hỏi, liên hệ với các vấn đề liên quan vừa trình bày.
- Báo cáo miệng thường dùng cho các học sinh lớp lớn, thể hiện sự vận
dụng tổng hợp nhiều kĩ thuật khác nhau như: thuyết trình, đối thoại, Khi sử
dụng phương pháp này nghĩa là học sinh đã đặt mình vào vị trí của người vừa
tìm tòi, thu thập, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa kiến thức, vừa phổ biến tri
thức địa lý cho những người xung quanh.
2. Thực trạng việc rèn luyện kỹ năng viết báo cáo Địa lý cho học sinh THPT
2.1. Thực trạng về phía giáo viên
Qua điều tra thực tiễn về phía giáo viên, có thể thấy rằng đa số đều nhận
định việc rèn luyện kỹ năng viết báo cáo là rất quan trọng và có ý nghĩa lớn
trong việc rèn luyện kỹ năng địa lý. Tuy nhiên, mức độ rèn luyện các kỹ năng
này còn chưa nhiều và gặp nhiều khó khăn trong khi tiến hành. Các giáo viên
tuy có chú ý rèn luyện kỹ năng viết báo cáo cho học sinh nhưng mới chỉ dừng
lại ở mức độ hướng dẫn, học sinh làm theo. Phương pháp để rèn luyện cho
học sinh các kỹ năng viết báo cáo nhìn chung còn lúng túng về các bước thực
hiện, hoặc tiến trình rèn luyện các kỹ năng chưa lôgic nên học sinh rất khó
nắm bắt. Giáo viên thường làm mẫu cho học sinh, ngay cả trong các bài thực
hành. Đa số các giáo viên chưa tiến hành rèn luyện kỹ năng viết báo cáo bằng
cách đặt câu hỏi, ra bài tập, bài thực hành về các kĩ năng thu thập, xử lý, tổng
hợp và trình bày thông tin. Nói cách khác, giáo viên mới chỉ hình thành ở học
sinh một số kỹ năng viết báo cáo chứ chưa thực sự rèn luyện kỹ năng này cho
học sinh trong quá trình dạy học. Điều này sẽ hạn chế việc rèn luyện kỹ năng
địa lí cho học sinh, đặc biệt với yêu cầu giáo dục ngày nay là chú trọng nhiều
hơn về kỹ năng bên cạnh kiến thức được cung cấp, hướng dẫn học sinh tự
học.
2.2. Thực trạng về phía học sinh
Qua phiếu điều tra 180 học sinh lớp 10 của trường THPT Trường Chinh
tôi nhận thấy tỉ lệ học sinh thực hiện khá - tốt các kỹ năng viết báo cáo địa lý
còn rất thấp, đa số các em chỉ đạt ở mức trung bình - yếu (chiếm trên 80%).
Ngoài ra, qua phỏng vấn chúng tôi cũng thu được ý kiến cho rằng các bài thực
hành có nội dung viết báo cáo là rất khó thực hiện đối với các em (176/180,
chiếm 97,8%). Đa số các em còn lúng túng về trình tự các bước để thực hiện
một số kỹ năng viết báo cáo do các em ít được rèn luyện.
6
Khi điều tra về các phương pháp, cách thức mà giáo viên thường tiến hành
trong quá trình dạy học để rèn luyện cho các em về kỹ năng viết báo cáo thì
chúng tôi thu được kết quả giáo viên thường làm mẫu cho các em thực hiện
bài viết báo cáo. Việc ra bài tập, làm bài thực hành để rèn luyện kỹ năng, kích
thích các em chủ động, tích cực, tự học có thực hiện nhưng chưa nhiều.
2.3. Nguyên nhân của thực trạng
Rèn luyện kỹ năng viết báo cáo địa lý thực sự là một nội dung khó đối với
cả giáo viên và học sinh. Các kỹ năng thu thập, xử lý, tổng hợp, trình bày
thông tin là các kỹ năng đòi hỏi sự tư duy, kết hợp với kiến thức có được
trong quá trình học tập, phải qua quá trình rèn luyện thì mới nhuần nhuyễn và
hình thành kỹ năng tự học. Các kỹ năng này góp phần định hướng cho học
sinh về cách học, định hướng cho giáo viên về cách dạy trong bối cảnh giáo
dục hiện nay. Vì nó có tính tích cực, đổi mới tư duy trong dạy và học nên khi
tiến hành ít nhiều sẽ gây lúng túng.
Thực tiễn cho thấy các kỹ năng thu thập, xử lý, tổng hợp, trình bày thông
tin (gọi tắt là kỹ năng viết báo cáo) chưa được chú trọng đúng mức. Mặc dù
trong chương trình có đưa vào các bài thực hành viết báo cáo nhưng cũng chỉ
ở mức nêu vấn đề. Ít tài liệu hướng dẫn các bước rèn luyện và nâng cao kỹ
năng viết báo cáo cho học sinh. Do đó, trong quá trình dạy học, các giáo viên
thường sử dụng các kinh nghiệm dạy học của mình để tiến hành rèn luyện kỹ
năng viết báo cáo cho học sinh, cách thức của mỗi người là khác nhau, chưa
có sự thống nhất, chưa mang tính lôgic.
Mặt khác, giáo viên gặp nhiều khó khăn trong việc rèn luyện kỹ năng viết
báo cáo do sự hạn chế về mặt thời gian một tiết học, đặc biệt trong các bài
thực hành viết báo cáo. Do đó, các giáo viên thường chuẩn bị kĩ các tư liệu,
thông tin sẵn để cung cấp cho học sinh, đồng thời quá trình rèn luyện cũng
mang tính chất làm mẫu để học sinh bắt chước làm theo mẫu định sẵn, nhằm
đảm bảo thời gian trong một tiết học. Họ cho rằng đó là cách làm dễ dàng
nhất khi tiến hành dạy các bài thực hành có nội dung viết báo cáo.
Khi được hỏi vì sao không tiến hành các bước rèn luyện kỹ năng để định
hướng cho các em, rồi tự các em thực hiện, hình thành và rèn luyện kỹ năng
thì các giáo viên đều cho rằng: Tư duy của các em đa phần chưa thích ứng với
việc tự làm bài theo định hướng của giáo viên mà vẫn phụ thuộc vào mẫu.
Việc rèn luyện kỹ năng viết báo cáo muốn thực hiện được thì cần một quá
trình lâu dài, có thể từ các cấp, các lớp học ở dưới lên. Ngay một lúc, trong
một tiết học các giáo viên khó có thể rèn luyện từng kỹ năng một cách cụ thể
cho học sinh.
7
CHƯƠNG 2. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG VIẾT BÁO CÁO ĐỊA LÝ
CHO HỌC SINH LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1. Hệ thống kỹ năng viết báo cáo Địa lý cần rèn luyện cho học sinh
- Kỹ năng xác định vấn đề báo cáo.
Để xác định vấn đề báo cáo thường có hai cách:
Một là, giáo viên xác định vấn đề báo cáo cho học sinh.
Hai là, học sinh tự xác định vấn đề báo cáo. HS có thể có sự hướng dẫn,
định hướng giúp đỡ của giáo viên trong việc xác định vấn đề báo cáo.
Tuy nhiên, trong dạy học hiện nay, giáo viên nên sử dụng cách thứ hai,
yêu cầu và rèn luyện cho học sinh kỹ năng tự xác định vấn đề báo cáo.
- Kỹ năng thu thập thông tin báo cáo.
Dựa vào vấn đề báo cáo vừa xác định được để tiến hành thu thập thông tin
cho bài viết báo cáo. Do đó, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh biết cách
thu thập thông tin báo cáo bám sát chủ đề đưa ra. Đây là kỹ năng cần được
rèn luyện nhiều lần để tạo thành kỹ xảo, mang tính sáng tạo. Từ đó, mỗi học
sinh sẽ tự phát triển các kỹ năng vừa rèn luyện được để hình thành cho mình
cách thu thập thông tin thế nào là nhanh và hiệu quả nhất.
- Kỹ năng xử lý, tổng hợp thông tin.
Xử lý, tổng hợp thông tin là kỹ năng khó và rất cần thiết không chỉ nhằm
phục vụ cho việc viết báo cáo mà còn hỗ trợ cho học sinh các kỹ năng tư duy,
tổng hợp tri thức trong quá trình học tập môn địa lý.
- Kỹ năng lập đề cương báo cáo.
Để khắc phục sự lúng túng về cách trình bày, sắp xếp các ý tưởng, thông
tin trong bài báo cáo, lại vừa tiết kiệm thời gian để viết báo cáo hoàn chỉnh thì
học sinh cần biết cách lập đề cương (dàn ý) bài báo cáo. Việc xây dựng được
bộ khung sườn cho bài viết sẽ giúp học sinh sớm hình dung ra được các nội
dung chính cần trình bày, giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc triển khai các
ý chính thành các ý chi tiết.
- Kỹ năng trình bày báo cáo.
Đây là kỹ năng vừa mang tính kỹ thuật vừa có tính sáng tạo. Mỗi học sinh
sẽ có nhiều cách trình bày bài báo cáo khác nhau. Do đó, giáo viên cần định
hướng rèn luyện cho học sinh cách trình bày báo cáo sao cho rõ ràng, mang
tính thuyết phục và hạn chế được những sai phạm mắc phải trong khi trình
bày bài báo cáo.
8
2. Các nguyên tắc, quy trình rèn luyện kỹ năng viết báo cáo Địa lý cho
học sinh
2.1. Các nguyên tắc rèn luyện kỹ năng viết báo cáo Địa lý cho học sinh
2.1.1. Rèn luyện kỹ năng viết báo cáo địa lý phải gắn liền với việc củng cố và
phát triển kiến thức đã học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng.
Để việc rèn luyện kỹ năng viết báo cáo địa lý cho học sinh thì cần phải
nắm vững chương trình, nội dung SGK, bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng
theo hướng dẫn của Bộ giáo dục và Đào tạo.
2.1.2. Đảm bảo tính sư phạm
Quy trình và phương pháp rèn luyện kỹ năng viết báo cáo địa lý cho học
sinh cần phải đảm bảo tính sư phạm, phù hợp với cơ sở khoa học của lý luận
dạy học. Các phương pháp giảng dạy được tiến hành để rèn luyện kỹ năng
này phải phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, kích thích sự học hỏi, tu
duy của học sinh.
2.1.3. Đảm bảo tính khả thi
Rèn luyện kỹ năng viết báo cáo địa lý là một vấn đề khó đối với giáo viên
và học sinh, do đó khi tiến hành cần chú ý tính khả thi của quy trình và
phương pháp thực hiện. Nếu quy trình và phương pháp thực hiện khó có thể
tiến hành trong thực tiễn dạy học thì nó chỉ là lý thuyết suông. Các cách thức
hướng dẫn, rèn luyện cho học sinh các kỹ năng thu thập, xử lý, tổng hợp, trình
bày thông tin địa lý cần phải được xem xét sao cho phù hợp với điều kiện sư
phạm của ngành giáo dục, đảm bảo tính giáo dục, dễ thực hiện đối với người
dạy và người học thì mới đạt kết quả cao.
2.2. Quy trình rèn luyện kĩ năng viết báo cáo Địa lý cho học sinh
Bước 1. Xác định mục tiêu rèn luyện kỹ năng
Đây là bước khởi đầu quan trọng đối với việc rèn luyện một kỹ năng bất kì
cho học sinh. Viết báo cáo địa lý là một vấn đề khó vì nó bao gồm nhiều
khâu, nhiều giai đoạn mà giáo viên phải rèn luyện cho học sinh trong một thời
gian dài để hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh. Do đó, để có được một
bài viết báo cáo hoàn chỉnh, chất lượng thì học sinh cần nắm vững các khâu,
các kỹ năng cụ thể của bài viết báo cáo địa lý. Việc xác định mục tiêu rèn
luyện kỹ năng địa lý sẽ góp phần bám sát mục tiêu của môn học, của bài học
cần hướng tới. Trên cơ sở đó, giáo viên thiết lập các hoạt động dạy học phù
hợp với mục tiêu rèn luyện kỹ năng đặt ra, tổ chức các hình thức, phương
pháp dạy học sao cho phù hợp với việc đạt được mục tiêu về rèn luyện kỹ
năng đó một cách tối ưu nhất.
9
Ví dụ: Khi dạy bài thực hành bất kỳ, việc đầu tiên là giáo viên yêu cầu học
sinh xác định rõ mục tiêu, yêu cầu kỹ năng cần thực hiện của bài thực hành
đó. Bước này giáo viên nên hướng dẫn cho học sinh nhận thức rõ mục tiêu,
yêu cầu và các nhiệm vụ cần thực hiện. Học sinh phải xác định được các bước
thực hiện và sản phẩm của các bước là gì. Thông qua đó học sinh sẽ nhận
thức được các kỹ năng cần thực hiện, rèn luyện trong suốt giờ học.
Bước 2. Trang bị cho học sinh các kiến thức về kỹ năng cần thiết
Để rèn luyện bất kĩ kỹ năng địa lý nào cho học sinh thì cần phải trang bị
cho học sinh các kiến thức về kỹ năng cần thiết để vận dụng vào quá trình
nhận thức của học sinh. Sau khi xác định kỹ năng cần rèn luyện cho học sinh,
giáo viên cần xem xét đối tượng học sinh của mình về năng lực học tập, kỹ
năng liên quan ở mức độ nào, còn thiếu hay cần bổ sung các kiến thức, kỹ
năng gì để cung cấp, trang bị cho các em. Khi đã có đầy đủ các kiến thức và
kỹ năng cơ bản, việc rèn luyện kỹ năng đó sẽ tiến hành được dễ dàng, thuận
lợi hơn.
Ví dụ: Để rèn luyện kỹ năng thu thập thông tin địa lý thì giáo viên cần
trang bị cho học sinh vốn kiến thức địa lý nhất định về chủ đề địa lý cần thu
thập. Nhờ đó, thông tin thu thập được sẽ có trọng tâm và quá trình tìm kiếm,
thu thập thông tin dễ dàng hơn, phạm vi tìm kiếm thông tin được thu hẹp hơn.
Ngoài ra học sinh cần có một số kỹ năng như: kỹ năng đọc tài liệu, kỹ năng
tìm kiếm, sưu tầm tài liệu, thông tin, đôi khi còn cần cả kỹ năng khảo sát,
phỏng vấn, điều tra để thu thập thông tin từ thực tế đối với các đề tài mang
tính thực tế cao.
Bước 3. Lựa chọn phương pháp, cách thức rèn luyện kỹ năng cho học
sinh
Sau khi học sinh đã có được các kiến thức và kỹ năng địa lý cơ bản, giáo
viên cần xác định các cách thức, hình thức tổ chức dạy học phù hợp để rèn
luyện kỹ năng đó. Các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học được lựa chọn
cần bám sát mục tiêu bài học (kiến thức, kỹ năng), phù hợp với đối tượng học
sinh và dễ tiến hành trong điều kiện cơ sở giáo dục hiện tại. Ngoài ra, giáo
viên cần chú ý đến việc chọn các phương pháp dạy học mới theo hướng tích
cực, lấy học sinh làm trung tâm để phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh.
Ví dụ: Để rèn luyện kỹ năng xử lý thông tin, giáo viên có thể lựa chọn các
phương pháp dạy học thích hợp như: phương pháp đàm thoại gợi mở, phương
pháp thảo luận nhóm, Giáo viên có thể hình thành và rèn luyện cho học sinh
kỹ năng này bằng cách bước đầu làm mẫu, sau đó ra các bài tập từ dễ đến
10
khó, từ đơn giản đến phức tạp để học sinh thực hiện rèn luyện kỹ năng đó cho
thuần thục.
Bước 4. Thiết lập các hoạt động của GV và HS để rèn luyện kỹ năng
Dựa vào việc lựa chọn phương pháp, cách thức rèn luyện kỹ năng tương
ứng mà giáo viên thiết lập các hoạt động của giáo viên và học sinh một cách
cụ thể trong quá trình dạy học. Các hoạt động của giáo viên và học sinh có thể
được thiết kế linh hoạt, không nhất thiết tất cả các bước, các khâu của quá
trình rèn luyện kỹ năng phải tiến hành tại lớp, trong một tiết học, mà có thể
tiến hành ở nhà, trong thời gian dài tùy theo nội dung, kỹ năng cần đạt được.
Khi thiết lập các hoạt động của giáo viên và học sinh thì cần chú ý đến các
hoạt động của học sinh nhiều hơn, đề cao chủ thể học tập của học sinh nhiều
hơn là hoạt động dạy của giáo viên. Học sinh phải làm việc nhiều hơn trong
quá trình nhận thức thì mới hình thành và rèn luyện kỹ năng. Giáo viên có thể
đóng vai trò bước đầu làm mẫu, sau đó hướng dẫn và học sinh từ việc làm
theo đến việc tự thực hiện kỹ năng đó. Mặt khác, các hoạt động dạy và học
phải linh hoạt, kích thích tính tò mò, tự tìm tòi, sáng tạo của học sinh, phải
khiến tất cả học sinh trong lớp chủ động tham gia vào các bước của quá trình
rèn luyện kỹ năng. Giáo viên nên tránh việc thiết lập các hoạt động dạy học
đơn thuần chỉ dành cho các học sinh khá, giỏi, các học sinh tích cực, mà
không bao quát toàn bộ lớp học.
Ví dụ: Khi rèn luyện kỹ năng viết báo cáo, giáo viên có thể thiết lập hoạt
động của học sinh là yêu cầu mỗi học sinh đều tự mình viết thành một bài báo
cáo về chủ đề của nhóm sau quá trình làm việc theo nhóm. Việc này có thể
tránh được tình trạng nếu chỉ làm một bài viết báo cáo chung cho cả nhóm thì
chỉ có một số học sinhng nhóm tham gia rèn luyện kỹ năng viết/trình bày báo
cáo cho cả nhóm. Các học sinh khác nghiễm nhiên giao khoán cho bạn và
không quan tâm đến việc rèn luyện kỹ năng trình bày báo cáo đó như thế nào.
Còn khi trình bày, giáo viên có thể gọi bất kì học sinh trong nhóm trình bày,
sau đó các bạn trong nhóm có thể bổ sung thêm các ý kiến để hoàn thiện bài
trình bày của nhóm.
Bước 5. Kiểm tra, đánh giá kết quả
Kiểm tra đánh giá là để xem hiệu quả của việc rèn luyện kỹ năng đạt được
đến đâu. Thông qua việc kiểm tra kết quả rèn luyện kỹ năng địa lý có thể
đánh giá mức độ đạt được của học sinh so với mục tiêu kỹ năng đã được quy
định, từ đó đề xuất các điều chỉnh thích hợp nhằm nâng cao chất lượng và
hiệu quả của công việc đó. Bên cạnh việc ghi nhận những gì đạt được, giáo
viên có thể sử dụng nó làm cơ sở để xây dựng tiếp các kế hoạch rèn luyện kỹ
năng khác ở mức độ cao hơn. Ngoài ra, qua kiểm tra, đánh giá, giáo viên có
11
thể điều chỉnh các phương pháp dạy học, các cách thức rèn luyện kỹ năng sao
cho phù hợp nhất, mang tính phát triển nhất. Giáo viên còn có thể nắm được
sự tiến bộ rõ rệt hay giảm sút của học sinh để động viên hay giúp đỡ kịp thời
qua việc kiểm tra, đánh giá thường xuyên.
Cũng qua kiểm tra, đánh giá, giáo viên có thể làm sáng tỏ được năng lực
và kết quả rèn luyện kỹ năng nói riêng và kết quả học tập nói chung của học
sinh, từ đó giúp các em có khả năng tự đánh giá, tự nhận ra được sự tiến bộ
của mình, có thêm động cơ trong học tập. Nhờ kiểm tra, đánh giá, học sinh sẽ
có điều kiện để tiến hành các thao tác tư duy như ghi nhớ, tái hiện, khái quá
hóa, hệ thống hóa kiến thức, kỹ năng vừa được hình thành, học sinh sẽ có thể
vận dụng các tri thức vừa có được để thực hiện các hành động khác, thực hiện
các kỹ năng khác một cách thuần thục.
Ví dụ: Để rèn luyện kỹ năng lập dàn ý báo cáo, sau khi giáo viên hướng
dẫn học sinh các bước cần thiết để lập một dàn ý bài báo cáo, giáo viên rèn
luyện cho học sinh bằng cách ra bài tập về nhà cho học sinh là viết dàn ý báo
cáo cho một chủ đề khác. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở hoạt động ra bài tập về
nhà cho học sinh mà giáo viên không tiến hành kiểm tra, đánh giá việc học
sinh có thực hiện bài tập đó hay không, thực hiện nó như thế nào thì việc rèn
luyện kỹ năng sẽ không thể đạt kết quả như mong muốn. Giáo viên nên bố trí
thời gian phù hợp để có thể tiến hành kiểm tra, đánh giá qua đó biết được mức
độ thực hiện của học sinh; còn về phía học sinh nhờ có hoạt động kiểm tra,
đáng giá mà có động cơ thực hiện việc rèn luyện kỹ năng, đồng thời có thể tự
đánh giá khả năng của mình thông qua kết quả kiểm tra, đánh giá của giáo
viên.
3. Các phương pháp rèn luyện kỹ năng viết báo cáo Địa lý trong dạy học
3.1. Rèn luyện kỹ năng xác định vấn đề báo cáo
Bước 1. Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện.
Giáo viên có thể đưa ra các vấn đề địa lý cần quan tâm trong chương trình
các học sinh được học. Phân tích các chủ đề, xem xét tính cấp thiết của chủ
đề, xem xét về khả năng thực hiện được và sở thích của mình. Cần trả lời các
câu hỏi: Vấn đề đó có nội dung gì? Có cấp thiết không? Có khả năng thực
hiện được không? Vấn đề đó có hấp dẫn đối với mình không? Sau khi chọn
được chủ để báo cáo thì cần đặt tên cho bản báo cáo. Tên của bản báo cáo
phải ngắn gọn, súc tích, khoa học, bám sát chủ đề được chọn. Tên chủ đề
thường bắt đầu bằng một động từ, mà động từ này quyết định các hoạt động
cần tiến hành đối với chủ đề được chọn, ví dụ như: tìm hiểu, phân tích, nghiên
cứu,
12
Ví dụ: Đối với một bài thực hành có nội dung viết báo cáo cụ thể, giáo
viên nên định hướng cho học sinh xác định chủ đề báo cáo dựa vào yêu cầu,
mục tiêu của bài học. Giáo viên có thể đặt câu hỏi để học sinh tự đề xuất tên
của bài viết báo cáo, sau đó cùng cả lớp thảo luận nhanh để chọn ra tên chủ đề
báo cáo thích hợp nhất. Ví dụ như: khi dạy bài thực hành ”Viết báo cáo về
kênh đào Xuyê và Panama” (chương trình Địa lý 10), giáo viên sau khi yêu
cầu học sinh đọc kĩ SGK để nêu nhiệm vụ của bài thực hành thì yêu cầu học
sinh xác định vấn đề báo cáo bằng cách để học sinh thảo luận với nhau và đề
xuất tên của báo cáo (học sinh lên ghi trên bảng). Sau đó, cả lớp cùng giáo
viên phân tích để lựa chọn tên thích hợp cho báo cáo.
Bước 2. Giáo viên ra bài tập cho học sinh.
Để học sinh có thể rèn luyện thêm về kỹ năng xác định vấn đề báo cáo,
giáo viên sau khi làm mẫu nên đưa ra bài tập về nhà cho học sinh. Lí do ra bài
tập về nhà là vì ở lớp học, trong một tiết học (lý thuyết hay thực hành) sẽ
không có nhiều thời gian để học sinh làm bài tập rèn luyện thêm về kỹ năng
này.
Bước 3. Kiểm tra, đánh giá.
Giáo viên có thể sử dụng thời gian đầu giờ hoặc cuối giờ để kiểm tra việc
thực hiện bài tập về nhà của học sinh bằng cách yêu cầu học sinh nộp lại bài
tập để thuận tiện cho việc kiểm tra, đánh giá. Đồng thời sau khi đánh giá, giáo
viên cũng cần dành thời gian để tiến hành nhận xét, định hướng lại cho học
sinh, động viên, khuyến khích để các em làm tốt hơn.
Tương tự, giáo viên tiếp tục yêu cầu học sinh làm bài tập xác định vấn đề
báo cáo sau khi học xong một chương, nhằm rèn luyện kỹ năng cho học sinh,
hình thành nên thói quen, học sinh sẽ có kỹ năng thuần thục hơn trong việc
xác định vấn đề báo cáo ở các chương sau và việc xác định vấn đề báo cáo
cũng sẽ nhanh hơn. Về sau, giáo viên có thể yêu cầu học sinh xác định vấn đề
báo cáo sau khi học xong một chương nào đó vào cuối giờ học. Khi đó, học
sinh có thể xác định dễ dàng tại lớp, trình bày ý tưởng, lí do của mình khi
chọn vấn đề đó. Việc lặp lại nhiều lần các kỹ năng xác định vấn đề báo cáo
bên cạnh việc rèn luyện kỹ năng viết báo cáo, còn củng cố kiến thức trọng
tâm của chương, góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
3.2. Rèn luyện kỹ năng thu thập thông tin Địa lý
Bước 1. Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện.
Bước này thường được tiến hành trong các giờ lên lớp, có thể là giờ học có
hoặc không có yêu cầu thực hành viết báo cáo.
13
Giáo viên đặt câu hỏi để yêu cầu học sinh thu thập thông tin cụ thể từ
nhiều nguồn thông tin như: sách giáo khoa, bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, tư liệu
tham khảo, Câu hỏi đặt ra một cách cụ thể, tiệm cận vấn đề cần thu thập sẽ
giúp học sinh có định hướng thu thập thông tin nhanh chóng, hiệu quả.
Câu hỏi có thể là do giáo viên đặt ra hoặc có thể sử dụng các câu hỏi có
trong sách giáo khoa nhằm thu thập thông tin cần thiết.
Câu hỏi có thể có nhiều dạng khác nhau như: nhận xét, trình bày, chứng
minh, so sánh, phân tích,
Ví dụ: Khi dạy bài 38 (Địa lý 10) – ”Viết báo cáo ngắn về kênh đào Xuy-ê
và kênh đào Pa-na-ma”, giáo viên đưa ra hệ thống câu hỏi để yêu cầu học sinh
thu thập thông tin cho bài viết báo cáo như sau:
- Dựa vào bản đồ các nước trên thế giới và bản đồ tự nhiên thế giới, hãy
trình bày đặc điểm về vị trí địa lý của kênh đào Xuy-ê?
- Dựa vào thông tin trong phần tư liệu tham khảo (SGK), hãy trình bày quá
trình xây dựng và hoàn thành kênh đào Xuy-ê?
- Hãy tính xem quãng đường vận chuyển qua kênh Xuy-ê được rút ngắn
bao nhiêu hải lí và bao nhiêu phần trăm so với tuyến đường đi vòng qua châu
Phi?
- Sự hoạt động đều đặn của kênh Xuy-ê đem lại lợi ích gì cho ngành hàng
hải thế giới?
- Nếu đóng cửa kênh đào Xuy-ê thì sẽ gây tổn thất kinh tế như thế nào đối
với Ai Cập, đối với các nước ven Địa Trung Hải và Biển Đen?
Các câu hỏi trên có thể ghi ra thành phiếu học tập để phát cho học sinh
nhằm giúp học sinh nắm rõ yêu cầu của công việc thu thập thông tin. Sau khi
đặt câu hỏi, giáo viên tiến hành các hoạt động như: trao đổi, thảo luận, trình
bày, góp ý, chuẩn xác kiến thức, để hoàn thiện thông tin.
Ví dụ: Để thu thập các thông tin trên, giáo viên chia lớp thành 4 nhóm.
Giáo viên phát phiếu học tập (có ghi nội dung các câu hỏi nêu trên) cho mỗi
nhóm. Các thành viên trong mỗi nhóm trao đổi thảo luận để trả lời các câu
hỏi. Sau đó, đại diện mỗi nhóm trình bày, các nhóm khác bổ sung, góp ý.
Giáo viên nhận xét và bổ sung một số thông tin còn thiếu.
Bước 2. Giáo viên ra bài tập về nhà cho học sinh.
Bước này nhằm rèn luyện về kỹ năng thu thập thông tin cho học sinh. Mục
đích là để học sinh được tiến hành công việc thu thập thông tin thường xuyên,
từ đó hình thành thói quen, kỹ năng kỹ xảo thu thập thông tin, phục vụ đắc
lực cho các bài viết báo cáo sau này.
14
Các bài tập ra cho học sinh có thể là bài tập về nhà để thu thập thông tin
cho bài mới, nhằm tìm hiểu bài mới, hoặc có thể sử dụng bài tập về nhà để
củng cố kiến thức đã học. Để rèn luyện kỹ năng thu thập thông tin hiệu quả,
các giáo viên nên tiến hành thường xuyên việc ra bài tập về nhà với các câu
hỏi cụ thể để tìm hiểu bài mới hoặc củng cố bài học. Các bài tập về nhà nhằm
tìm hiểu bài mới hay củng cố bài cũ dưới dạng các câu hỏi sẽ giúp học sinh
học tập có định hướng cụ thể, có trọng tâm, đồng thời cũng giúp giáo viên dễ
dàng hơn trong khâu kiểm tra, đánh giá. Các câu hỏi, bài tập giáo viên nên ghi
ra phiếu học tập để phát cho học sinh nhằm tiết kiệm thời gian và đạt hiệu quả
cao khi ra bài tập về nhà cho học sinh.
Học sinh trên cơ sở hoàn thành các câu hỏi trên không những củng cố kiến
thức vừa học một cách sâu sắc, có liên hệ thực tiễn, mà còn rèn luyện thêm kỹ
năng thu thập thông tin, đặc biệt là rèn luyện kỹ năng thu thập thông tin từ
thực tiễn, từ các tư liệu tham khảo phong phú khác ngoài SGK như tài liệu
đọc thêm, các trang web thông tin, Không những thế, ngoài việc thu thập
thông tin dưới dạng kênh chữ, giáo viên có thể yêu cầu học sinh thu thập
thông tin dưới dạng kênh hình.
Bước 3. Kiểm tra, đánh giá.
Sau khi tiến hành các bước rèn luyện kỹ năng thu thập thông tin dưới dạng
đạt câu hỏi, bài tập cho học sinh, giáo viên cần tiến hành bước kiểm tra, đánh
giá.
Kiểm tra, đánh giá kỹ năng thu thập thông tin có thể tiến hành ở đầu giờ,
trong quá trình dạy học.
Ví dụ: Đầu giờ học, giáo viên kiểm tra việc chuẩn bị bài mới của học sinh
thông qua việc hoàn thiện các bài tập về nhà mà giáo viên đã giao, với mục
đích thu thập thông tin cần thiết phục vụ cho việc tìm hiểu bài mới. Giáo viên
có thể đánh giá để cho điểm kỹ năng cũng như nhận xét về thái độ thực hiện
bài tập về nhà của học sinh, từ đó có biện pháp nhắc nhở, định hướng học
sinh kịp thời.
Trong quá trình dạy học, giáo viên kiểm tra, đánh giá kỹ năng thu thập
thông tin của học sinh bằng cách tổ chức các hoạt động dạy học như: sau khi
tiến hành thảo luận thì yêu cầu học sinh phải trình bày kết quả thảo luận trước
lớp. Giáo viên cùng học sinh cả lớp có những nhận xét, góp ý về kết quả thảo
luận đó. Sau cùng, giáo viên có nhận xét, định hướng cụ thể để chốt lại thông
tin cần thiết phải thu thập.
15
Kiểm tra, đánh giá còn là căn cứ để giáo viên tiến hành tăng hay giảm mức
độ khó, dễ của các câu hỏi, bài tập rèn luyện kỹ năng thu thập thông tin cho học
sinh sau này.
3.3. Rèn luyện kỹ năng xử lí, tổng hợp thông tin Địa lý
Bước 1. Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện.
Để hướng dẫn học sinh xử lý, tổng hợp thông tin, giáo viên cần đặt câu hỏi
để giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh. Câu hỏi có yêu cầu xử lý, tổng hợp
thông tin được đặt ra từ mức độ dễ đến khó, từ cụ thể đến khái quát hóa để rèn
luyện kỹ năng.
Giáo viên nên đặt câu hỏi rèn luyện kỹ năng xử lý, tổng hợp thông tin đi
kèm với yêu cầu học sinh làm việc với bảng số liệu, bản đồ, lược đồ, biểu đồ,
tranh ảnh, thông tin Yêu cầu của các câu hỏi thường dưới dạng: so sánh, xử
lý số liệu, phân tích, chứng minh, rút ra nhận định, Để dễ dàng hơn trong
việc hướng dẫn học sinh rèn luyện kỹ năng xử lý, tổng hợp thông tin, các câu
hỏi đặt ra cần thiết kế theo dạng phiếu học tập, sau đó phát cho học sinh (theo
nhóm/ cá nhân).
Giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác thông tin, tổng hợp thông tin để
hoàn thành phiếu học tập, học sinh trong các nhóm trao đổi, bổ sung cho nhau
và điền vào phiếu học tập. Sau đó, đại diện nhóm phát biểu, các nhóm khác
bổ sung. Giáo viên chuẩn kiến thức.
Bước 2. Giáo viên ra bài tập về nhà cho học sinh.
Bài tập về nhà với yêu cầu xử lý, tổng hợp thông tin là rất cần thiết để học
sinh rèn luyện thêm về kỹ năng xử lý, tổng hợp thông tin. Do đây là kỹ năng
khó nên học sinh cần phải rèn luyện thường xuyên. Giáo viên có thể ra các bài
tập xử lý, tổng hợp thông tin thuận lợi nhất là sau khi học xong một bài học,
yêu cầu học sinh về nhà làm bài tập. Các bài tập đặt ra để rèn luyện kỹ năng
xử lý, tổng hợp thông tin tại lớp rất khó tiến hành vì thời gian không cho
phép. Bài tập về nhà có yêu cầu xử lý, tổng hợp thông tin ngoài ý nghĩa rèn
luyện kỹ năng còn có thể giúp học sinh củng cố tri thức, tiếp thu tri thức, phát
triển tư duy và khả năng vận dụng tri thức. Học sinh thông qua việc làm bài
tập rèn luyện kỹ năng này sẽ có điều kiện phát triển kỹ năng tự học: tự phân
tích, tự tổng hợp, khái quát hóa các thông tin.
Ví dụ 1: Sau khi dạy xong bài 41 (Địa lý 10) – ”Môi trường và tài nguyên
thiên nhiên”, để rèn luyện kỹ năng tổng hợp, khái quát hóa thông tin, giáo
viên ra bài tập về nhà cho học sinh là: ”Em hãy chứng minh rằng sự tiến bộ
của khoa học công nghệ có thể giúp con người giải quyết tình trạng đe dọa
khan hiếm tài nguyên khoáng sản”. Với câu hỏi này, học sinh về nhà phải thu
16
thập thông tin về các tiến bộ khoa học công nghệ, từ đó xử lý, phân tích, tổng
hợp các thông tin để làm rõ vấn đề giải quyết tình trạng khan hiếm tài nguyên
khoáng sản.
Bước 3. Kiểm tra, đánh giá.
Để hoàn thiện kỹ năng xử lý, tổng hợp thông tin, sau khi ra bài tập về nhà
cho học sinh, giáo viên cần tiến hành kiểm tra, đánh giá kịp thời. Đây là kỹ
năng khó nên công tác kiểm tra, đánh giá càng được chú trọng. Kiểm tra,
đánh giá kỹ năng xử lý, tổng hợp thông tin có thể tiến hành vào đầu giờ học
(kiểm tra học sinh làm bài tập về nhà được giao). Ngoài ra, giáo viên cũng
nên đưa yêu cầu về kỹ năng xử lý, tổng hợp thông tin vào trong các bài kiểm
tra định kì (1 tiết, kiểm tra học kì) để phân hóa học sinh trong kiểm tra, đánh
giá. Các câu hỏi kiểm tra có thể đưa vào ở mức độ phân tích, vận dụng. Việc
làm này hoàn toàn phù hợp với xu hướng đổi mới trong kiểm tra, đánh giá, từ
đó thúc đẩy quá trình đổi mới trong dạy và học của giáo viên và học sinh,
giúp học sinh chú trọng phát triển tư duy, kỹ năng một cách chủ động, sáng
tạo.
3.4. Rèn luyện kỹ năng lập đề cương viết báo cáo
Bước 1. Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện.
Trong bước này, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh cách lập đề cương
bài báo cáo địa lý bằng cách đặt các câu hỏi như:
- Chủ đề nội dung báo cáo là gì?
- Cấu trúc bao gồm mấy phần? Đó là các phần nào? Ý chính của từng
phần?
Phần lập dàn ý (đại cương và chi tiết) rất quan trọng, nó giúp người viết
phác họa ra một bố cục trình bày bao quát một số đặc điểm khái quát, quan
trọng. GV nên hướng dẫn HS xác định giới hạn trong khoảng 2 – 4 đặc điểm
chủ chốt thể hiện rõ nét, tạo nên khung sườn cho bản báo cáo. Nhờ đó, việc
chi tiết hóa nội dung của bản báo cáo trên cơ sở dàn ý đại cương sẽ dễ dàng
hơn.
Đối với nội dung này, giáo viên có thể định hướng cho học sinh về cấu
trúc một bài báo cáo khoa học bao gồm 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung,
phần kết luận. Trong phần mở đầu cần phải nêu được tính cấp thiết của vấn
đề, làm rõ vì sao chọn vấn đề đó và khái quát về nội dung vấn đề. Phần nội
dung phải chi tiết hơn thông qua các ý lớn, ý nhỏ thể hiện các vấn đề liên
quan đến chủ đề báo cáo, nhằm làm rõ vấn đề, thuyết phục người nghe, người
đọc. Phần kết luận phải vừa ngắn gọn vừa thể hiện được trọng tâm vấn đề cần
đề cập, cần có đề xuất, kiến nghị để phát triển vấn đề báo cáo. Hoặc có thể đặt
17
ra các vấn đề nảy sinh, các mâu thuẫn mới cần giải quyết để người đọc, người
nghe bàn luận thêm và giải quyết.
- Cần thu thập cái gì? Ở đâu? Bằng cách nào?
- Cần chuẩn bị các phương tiện gì? (bản đồ, biểu đồ, bảng số liệu, tranh
ảnh, máy chiếu, )
- Ngoài ra, học sinh cần xác định thời gian nghiên cứu vấn đề (Khi nào?
Bao lâu?). Trong đề cương báo cáo cũng cần thể hiện rõ các tài liệu tham
khảo cần thiết để thực hiện việc viết báo cáo.
Ví dụ: Khi dạy bài thực hành viết báo cáo ngắn về kênh đào Xuy-ê và
kênh đào Pa-na-ma, sau khi xác định tên (chủ đề) báo cáo, giáo viên tổ chức
hướng dẫn học sinh lập đề cương bài báo cáo như sau:
Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, thảo luận để trả lời các câu hỏi sau để
hoàn thành đề cương bài cáo cáo:
- Chủ đề nội dung bài báo cáo là gì?
- Bài báo cáo bao gồm mấy phần? Đó là các phần nào? Nội dung chính
của từng phần là gì?
- Cần phải làm gì để có được các thông tin cần thiết về hai kênh đào này?
- Cần chuẩn bị các phương tiện gì? (bản đồ, bảng số liệu, tranh ảnh, máy
chiếu, )
Học sinh thảo luận (5 phút) và cử đại diện ghi chép ý kiến thảo luận của
nhóm. Sau đó giáo viên gọi các đại diện trong nhóm trình bày dàn ý của nhóm
mình.
Cả lớp cùng thảo luận về các dàn ý đã được trình bày. Giáo viên tổng kết
rút ra kết luận để thống nhất một dàn ý tiêu biểu nhất.
Sau đó giáo viên cần phải rút ra các ghi nhớ nhằm giúp học sinh rút ra
được các vấn đề cần lưu ý khi lập dàn ý bài viết.
Bước 2. Giáo viên ra bài tập cho học sinh.
Bước này nhằm mục đích để học sinh luyện tập ở nhà để rèn luyện kỹ
năng. Giáo viên có thể chọn các vấn đề trong nội dung chương trình mà các
em đã học để yêu cầu học sinh lập dàn ý. Yêu cầu học sinh làm bài tập vào vở
bài tập hoặc vào giấy để nộp lại. Vì là bài tập về nhà nên giáo viên có thể
nhắc nhở học sinh lưu ý trong đề cương bài báo cáo phải có thời gian thực
hiện (Khi nào? Bao lâu?), tài liệu tham khảo để hoàn thành bài báo cáo.
Bước này có thể thực hiện khi kết thúc bài thực hành viết báo cáo, hoặc có
thể tiến hành ở bất kì tiết học nào. Chủ đề yêu cầu học sinh lập dàn ý báo cáo
để luyện tập có thể là một nội dung học sinh vừa học xong hoặc một nội dung
18
mới nào đó mà học sinh chưa học (tuy nhiên phải nằm trong nội dung chương
trình giáo dục phổ thông) nhằm rèn luyện kỹ năng.
Để thuận tiện cho việc rèn luyện kỹ năng lập đề cương báo cáo, giáo viên
nên chuẩn bị trước bằng cách lập phiếu học tập với các câu hỏi định hướng
ghi trong phiếu về chủ đề cần viết để phát cho học sinh. Phiếu học tập này
vừa có ý nghĩa định hướng học sinh thực hiện bài tập một cách cụ thể, rõ
ràng, vừa có thể giúp giáo viên tiết kiệm thời gian trong khâu dặn dò học sinh
thực hiện bài tập.
Bước 3. Kiểm tra, đánh giá.
Sau khi học sinh thực hiện bài tập (vào vở, vào giấy hoặc vào phiếu học
tập) thì giáo viên cần phải tiến hành kiểm tra, đánh giá. Học sinh nộp lại bài
tập cho giáo viên. Giáo viên có thể nhận xét, đánh giá vào đầu giờ học một số
bài làm của học sinh, hoặc có thể chấm điểm, nhận xét ở nhà, sau đó trả bài
lại cho học sinh. Lưu ý trong nhận xét, đánh giá, giáo viên nên rút ra các ghi
nhớ, các lưu ý để học sinh rút kinh nghiệm, hoàn thiện hơn cho các bài tập
sau.
Việc kiểm tra, đánh giá có thể tiến hành ở đầu giờ học, trong giờ học hoặc
cuối giờ học bằng nhiều hình thức khác nhau. Tuỳ vào trình độ học sinh mà
có thể yêu cầu học sinh phát biểu thành lời từ đề cương (dàn ý) báo cáo hoặc
yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi tương ứng với nội dung bài viết. Trong
quá trình kiểm tra, giáo viên nên lưu ý các học sinh yếu, học sinh chưa tích
cực học tập để điều chỉnh và giúp đỡ kịp thời.
3.5. Rèn luyện kỹ năng trình bày báo cáo Địa lý
Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện.
Trình bày báo cáo có thể dưới dạng bài viết hay trình bày miệng.
* Đối với báo cáo trình bày dưới dạng bài viết:
Giáo viên đặt câu hỏi để gợi ý, định hướng cho học sinh các nội dung,
trình tự (cách trình bày) của báo cáo. Bên cạnh việc đặt câu hỏi, giáo viên có
thể cung cấp cho học sinh một số mẫu trình bày bản báo cáo thông dụng.
Ví dụ: Hình thức thông dụng để trình bày một bản báo cáo như sau:
1. Tên vấn đề.
2. Địa điểm, thời gian thực hiện, tên người thực hiện.
3. Nội dung chính: bố cục bao gồm 3 phần (mở đầu, nội dung, kết luận).
- Phần mở đầu: Khái quát vấn đề báo cáo, nêu cấu trúc báo cáo. Phần này
nhằm định hướng cho người đọc vào những nội dung chi tiết của vấn đề đang
được nghiên cứu, thường bao gồm những lý do để làm cuộc nghiên cứu, phạm
19
vi của công việc, sự hình thành phương pháp của vấn đề nghiên cứu, những
mục tiêu cần đạt đến và cơ sở để hình thành cuộc nghiên cứu.
- Phần nội dung: trình bày cụ thể nội dung báo cáo theo đề cương, dàn ý đã
lập. Nêu nhận xét, đề xuất nếu có. Phần này thường dài nhất trong bản báo
cáo vì khối lượng các dữ liệu, số liệu thu thập rất lớn. Để diễn giải các dữ
liệu, số liệu này thì người viết phải sắp xếp, tổ chức sao cho có thể truyền đạt
được ý nghĩa của các dữ liệu thu thập được. Việc này cần đến các kỹ thuật
thống kê và phân tích. Có một số phương tiện giúp ta trình bày kết quả nghiên
cứu như các bản đồ, biểu đồ, hình ảnh, và khi sử dụng phải giải thích đầy
đủ, rõ ràng.
- Phần kết luận: Tóm tắt quá trình thực hiện báo cáo. Phần này các kết luận
và đề xuất những hành động cần phải rút ra từ việc suy luận của kết quả bằng
các phương pháp quy nạp hoặc diễn giải. Những kết luận có thể được chứng
minh hoặc phủ nhận những tiền đề hoặc những giải thuyết đã được đưa ra.
Những kết luận phải xuất phát hợp lý từ các kết quả nghiên cứu, tìm hiểu để
tránh sai lầm.
Các kết luận có được là điều kiện tốt nhất để từ đó đưa ra các đề xuất về
giải pháp, trong đó cần ghi rõ nhiệm vụ của ai, làm gì ở đâu, lúc nào và tại
sao? Các đề nghị không chỉ phụ thuộc vào bản chất của quyết định mà còn
phụ thuộc vào kiến thức của người thực hiện về toàn cảnh của vấn đề.
Trong quá trình nghiên cứu có thể nảy sinh một số vấn đề vượt ra ngoài
phạm vi nghiên cứu và chưa thể đi sâu nghiên cứu song cũng nên đề cập đến
trong báo cáo. Khi đó tác giả báo cáo phải trình bày rõ những giới hạn báo
cáo để độc giả hiểu.
4. Phụ lục: Phần này cung cấp thêm các chỉ dẫn, các tư liệu đã được đưa ra
trong phần chính của báo cáo. Tư liệu trong phụ lục chứa nội dung thông tin
chi tiết và (hoặc) triển khai thông tin có trong bản báo cáo.
5. Danh mục tài liệu tham khảo đã được sử dụng: Đây là phần cuối cùng
trong bản trình bày báo cáo. Nó chứa đựng những thông tin chi tiết để tham
khảo, hoặc những tài liệu gốc được tìm thấy trong nhiều dạng thông tin chẳng
hạn như bài viết, sách, tạp chí, Dù là học sinh phổ thông, chưa yêu cầu cao
về việc sắp xếp các tài liệu tham khảo theo như quy cách của một bài nghiên
cứu khoa học, nhưng ít nhất các em cũng cần biết sắp xếp thứ tự tài liệu tham
khảo theo trật tự nhất định. Ví dụ như: tài liệu tham khảo được xếp riêng theo
từng ngôn ngữ (Anh, Việt,…); tài liệu tham khảo được xếp theo thứ tự A, B,
C của họ tên tác giả (đối với tác giả là người nước ngoài thì xếp thứ tự A, B,
C theo họ, đối với tác giả là người Việt Nam thì xếp thứ tự A, B, C theo tên,
…
20
Tương ứng với từng nội dung, giáo viên thiết lập các hoạt động giữa giáo
viên và học sinh để hướng dẫn học sinh cách trình bày báo cáo. Đồng thời,
giáo viên cần song hành định hướng, điều chỉnh cho học sinh về văn phong,
ngôn ngữ sử dụng trong báo cáo phải đảm bảo tính khoa học, ngắn gọn và
dùng ở thể bị động.
Báo cáo nếu được minh họa bằng các phương tiện trực quan như bản đồ,
biểu đồ, bảng biểu, sơ đồ, tranh ảnh, thì sẽ mang tính thuyết phục cao, tăng
tính rõ ràng, rành mạch và gây ấn tượng. Do đó, giáo viên cần định hướng
cho học sinh cách chọn lọc và đưa các phương tiện trực quan vào trong báo
cáo.
Ngoài ra, giáo viên có thể hướng dẫn (làm mẫu) cho học sinh cách ghi các
câu trích nguyên văn từ tài liệu tham khảo, cách ghi nguồn tham khảo, cách
liệt kê các tài liệu tham khảo (nếu có).
* Đối với bài cáo cáo thuyết trình bằng miệng:
Phần lớn các báo cáo nghiên cứu được trình bày dưới dạng văn bản, nhưng
sẽ có hiệu quả hơn nếu được trình bày các kết nghiên cứu bằng miệng (thuyết
trình) trước một tập thể. Qua đó có thể biết được các phản ứng, trả lời các câu
hỏi và đối phó lại với mọi sự phản đối hoặc nghi ngờ nảy sinh ra. Tuy nhiên
việc thuyết trình không thể thay thế cho báo cáo bằng văn bản.
Để buổi thuyết trình có hiệu quả cần thực hiện theo các bước sau đây:
1: Xác định các đối tượng nghe thuyết trình:
Giáo viên cần lưu ý học sinh giải quyết các câu hỏi sau: Ai nghe? Đặc
điểm của họ? Thông tin nào về đề tài sẽ được trình bày mà họ biết rồi hoặc
chưa biết? Họ có khả năng hiểu vấn đề gì mà không cần giải thích tỉ mỉ, lĩnh
vực nào cần được nhấn mạnh và những câu hỏi họ có khả năng sẽ nêu ra?
Đây là công việc rất cần thiết để việc truyền đạt có hiệu quả cao.
2: Lựa chọn kỹ thuật truyền đạt:
Có 4 hình thức cơ bản của việc phát biểu: Nói ứng khẩu; Nói bằng cách
dùng trí nhớ; Đọc một bài soạn trước; Tuỳ ứng.
Không nên sử dụng 2 phương pháp đầu để trình bày kết quả nghiên cứu
khi việc trình bày đòi hỏi yếu tố chính xác cao. Nói bằng trí nhớ không thể
truyền đạt được những thông tin quan trọng do khó có thể nhớ chính xác và
làm cho cuộc trình bày có thể không linh hoạt. Dù trình bày bằng cách nào thì
việc truyền đạt cũng phải được tập dượt và chuẩn bị kỹ.
3: Xem xét việc sử dụng những phương tiện nghe nhìn:
Để lựa chọn các phương tiện nghe nhìn thích hợp, giáo viên cần lưu ý học
sinh xem xét những điều sau đây:
21
+ Cần tạo ra việc nhìn thấy để tăng cường. Nổi bật hoặc đơn giản hoá các
ý tưởng của người trình bày.
+ Thông tin nhìn thấy được nên dễ hiểu và không nên hỗn độn với quá
nhiều chất liệu, một lúc chỉ nên diễn đạt một ý tưởng hay một khái niệm mà
thôi.
+ Hình ảnh nhìn thấy cần đủ lớn để toàn thể người nghe có thể thấy dễ
dàng do đó phải chú ý đến khối lượng và vị trí người nghe.
+ Lựa chọn kỹ thuật trình bày có minh hoạ bằng mắt hiệu quả nhất
Bước 2: Giáo viên ra bài tập cho học sinh.
Tại lớp học, chỉ có một vài tiết học có thể rèn luyện kỹ năng trình bày báo
cáo, thông thường là các tiết thực hành có nội dung viết báo cáo. Do đó, việc
tăng cường rèn luyện kỹ năng trình bày báo cáo cần được tiến hành thường
xuyên hơn thông qua việc ra bài tập về nhà cho học sinh thực hiện. Bài tập về
nhà có thể có nội dung gắn liền với nội dung học sinh vừa tìm hiểu xong, giáo
viên yêu cầu học sinh về nhà làm bài viết báo cáo trình bày tóm tắt các nội
dung vừa học. Bài tập về nhà có thể liên quan đến một chủ đề nào đó do giáo
viên đặt ra nhằm rèn luyện thêm cho học sinh kỹ năng trình bày thông tin.
Đối với kỹ năng trình bày báo cáo bằng miệng thì có thể được luyện tập
nhiều hơn cho học sinh thông qua các tiết học trên lớp. Khi giáo viên tiến
hành tổ chức hoạt động nhận thức cho học sinh trong các tiết học lý thuyết
thông qua phương pháp thảo luận, giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh
trình bày các vấn đề được giao. Thông qua việc trình bày kết quả thảo luận,
học sinh vừa rèn luyện được kỹ năng trình bày thông tin, vừa tăng sự tự tin,
mạnh dạn khi trình bày trước tập thể. Ngoài ra, qua các tiết học này, giáo viên
có thể điều chỉnh, hướng dẫn học sinh về tác phong trình bày, ngôn từ, cách
mở đầu, gợi mở, hay kết thúc một vấn đề cần trình bày trước lớp như thế nào
là đạt hiệu quả và gây sự chú ý cho người nghe.
Bước 3. Kiểm tra, đánh giá.
Để khắc phục vấn đề về thời gian hạn chế trong một tiết học và để dễ dàng
kiểm tra, đánh giá sự tiến bộ của học sinh trong việc rèn luyện kỹ năng trình
bày thông tin, giáo viên nên yêu cầu học sinh tiến hành các bài tập và nộp lại
bằng giấy (bài viết). Giáo viên có thể thu các bài viết để về nhà xem và nhận
xét, có thể cho điểm (nếu cần). Cách khác là giáo viên có thể cho các điểm
cộng các bài viết, sau đó cộng các điểm đó lại để tính điểm tổng cho học sinh.
Điều đó sẽ tăng cường được tính nghiêm túc trong rèn luyện kỹ năng trình
bày thông tin của học sinh.
22
Để làm được điều này, giáo viên cần lập kế hoạch rèn luyện và kiểm tra,
đánh giá định kì trong từng học kì. Việc định trước sẽ ra bài tập với nội dung
nào, vào thời gian nào, có bao nhiêu bài tập và mức độ như thế nào sẽ thuận
tiện cho việc kiểm tra, đánh giá. Giáo viên cần thông báo trước cho học sinh
hay đưa ra các quy ước trước về kiểm tra, đánh giá các bài tập đặt ra trong
một học kì để học sinh chủ động, tích cực hơn trong rèn luyện các kỹ năng
cần thiết.
4. Thí dụ minh họa về rèn luyện kỹ năng viết báo cáo cho học sinh trong
môn Địa lý 10 THPT
Bài 38. Thực hành: Viết báo cáo ngắn về kênh đào Xuy-ê và kênh đào
Pa-na-ma (Địa lý 10 – Cơ bản).
I. Mục tiêu bài học:
Sau bài học, HS cần:
1. Kiến thức:
- Hiểu được vị trí chiến lược và vai trò của hai kênh biển nổi tiếng: Xuy-ê
và Pa-na-ma.
- Hiểu được những lợi ích về kinh tế nhờ có sự hoạt động của các kênh đào
này.
2. Kỹ năng:
- Biết tổng hợp tài liệu, phân tích bảng số liệu kết hợp với phân tích bản
đồ.
- Viết được báo cáo ngắn và trình bày kết quả trước lớp.
II. Thiết bị dạy học:
- Lược đồ kênh đào Xuy-ê và Pa-na-ma (phóng to).
- Lược đồ vị trí của kênh đào Xuy-ê, kênh đào Pa-na-ma và một số cảng
lớn trên thế giới.
- Bản đồ tự nhiên và bản đồ các nước châu Phi.
- Bản đồ tự nhiên và bản đồ các nước châu Mĩ.
- Tập bản đồ Thế giới và các châu lục.
- Các tài liệu bổ sung về kênh đào Xuy-ê và kênh đào Pa-na-ma.
- Tranh ảnh về hai kênh đào.
III. Hoạt động dạy học:
1. Ổn định lớp.
2. Kiểm tra bài cũ:
GV kiểm tra việc hoàn thành các bài tập về nhà để chuẩn bị cho bài thực
hành mà GV đã giao cho HS ở tiết học trước.
23
3. Bài mới:
Mở bài: GV yêu cầu 1 HS nêu nhiệm vụ (mục tiêu) của bài thực hành.
- Xử lý số liệu.
- Lập đề cương chi tiết cho báo cáo về kênh đào Xuy-ê và Pa-na-ma.
- Viết báo cáo ngắn về kênh đào Xuy-ê và Pa-na-ma.
- Trình bày tóm tắt báo cáo trong thời gian ngắn (5 phút).
I. Bài tập 1. Kênh đào Xuy-ê:
Hoạt động 1: (Cả lớp) Đề xuất tên của báo cáo.
Bước 1: GV yêu cầu HS tìm hiểu yêu cầu của bài tập 1 để đề xuất tên báo
cáo.
Bước 2: HS trao đổi với bạn cùng bàn về tên của bản báo cáo.
Bước 3: HS lên bảng ghi đề xuất tên của bản báo cáo.
Bước 4: Cả lớp phân tích và chọn lựa tên thích hợp cho bản báo cáo.
Ví dụ: ”Tìm hiểu về kênh đào Xuy-ê”,
Hoạt động 2: (Cả lớp/nhóm) Xác định các thông tin để viết báo cáo.
Bước 1: GV treo các bản đồ, lược đồ lên bảng. GV yêu cầu HS xác định
trên Tập bản đồ Thế giới và các châu lục vị trí của kênh đào Xuy-ê, các đại
dương, biển được nối liền thông qua kênh đào Xuy-ê. Sau đó GV gọi 1-2 HS
lên bảng xác định trên bản đồ treo tường vị trí các đối tượng trên. Cuối cùng,
GV giúp HS chuẩn kiến thức trên bản đồ treo tường.
Bước 2: Xử lý số liệu.
Mỗi bàn là một nhóm học tập. GV yêu cầu các nhóm hoàn thành phiếu học
tập 1 (GV có thể chia cho mỗi nhóm tính số liệu của một hàng để tiết kiệm
thời gian). GV treo phiếu học tập 1 (phóng to) lên bảng. Sau khi xử lý số liệu,
HS các nhóm lên bảng điền các thông tin vào phiếu học tập 1. Cả lớp góp ý
chỉnh sửa. GV đưa ra bảng thông tin phản hồi để đối chiếu, chuẩn kiến thức.
Bước 3: Thu thập thông tin.
* GV yêu cầu các nhóm đọc SGK, dựa vào kết quả vừa tính toán, dựa vào
các bản đồ, lược đồ trên bảng, thảo luận các câu hỏi sau:
- Hoạt động đều dặn của kênh Xuy-ê đem lại lợi ích gì cho ngành hàng hải thế
giới?
- Nếu kênh đào bị đóng cửa như thời gian 8 năm (1967 – 1975) do chiến
tranh, thì sẽ gây những tổn thất kinh tế như thế nào đối với Ai Cập, các nước
ven Địa Trung Hải và Biển Đen?
* Đại diện nhóm lên trình bày. GV giúp HS chuẩn kiến thức. GV có thể
yêu cầu HS trả lời các câu hỏi sau để làm rõ một số thông tin:
24
- Tại sao kênh đào Xuy-ê lại rơi vào tay đế quốc Anh?
- Đế quốc Anh đã được lợi ích gì từ kênh đào này?
- Những lợi ích do sự hoạt động của kênh đào và những thiệt hạn nếu như
kênh đào bị đóng cửa?
Hoạt động 3: (Nhóm) Viết dàn ý báo cáo.
Bước 1: Xây dựng dàn ý đại cương.
- GV yêu cầu HS các nhóm dựa vào chủ đề báo cáo, trao đổi để xây dựng
dàn ý đại cương báo cáo (nội dung chính) về kênh đào Xuy-ê.
- Một số nhóm trình bày. Các nhóm khác góp ý, bổ sung.
- GV nhận xét và thống nhất nội dung chính của báo cáo:
1. Khái quát về Kênh Xuy-ê.
2. Lợi ích đem lại từ kênh đào Xuy-ê.
3. Những tổn thất kinh tế nếu kênh đào Xuy-ê bị đóng cửa.
Bước 2: Xây dựng dàn ý chi tiết.
- Trên cơ sở thông tin vừa có được, kết hợp với tư liệu về kênh đào Xuy-ê
ở phần III – Tư liệu tham khảo (SGK), tư liệu (thông tin, hình ảnh liên quan)
mà học sinh tìm hiểu thêm ở nhà (bài tập về nhà), HS tiến hành thảo luận
nhóm, sau đó ghi lại những nét chính về kênh đào Xuy-ê vào bảng học tập
(bảng phụ).
* GV gợi ý: Có thể tập hợp một số thông tin về kênh đào Xuy-ê qua các ý
sau:
1. Khái quát về kênh đào Xuy-ê:
- Thuộc quốc gia nào. Các biển và đại dương được nối liền.
- Thời gian xây dựng, thời gian mở cho các tàu qua lại.
- Chiều dài.
- Trọng tải tàu qua.
- Nước quản lý trước kia. Năm được đưa về nước chủ quản.
2. Những lợi ích mà kênh đào Xuy-ê đem lại cho ngành hàng hải thế giới.
3. Những tổn thất kinh tế đối với Ai Cập và các nước ven Địa Trung Hải
và Biển Đen nếu kênh đào bị đóng cửa.
- HS lần lượt trả lời các câu hỏi theo các gợi ý trên để hoàn thành nội dung
dàn ý chi tiết cho bản báo cáo.
Bước 3: GV gọi 1 – 2 HS lên bảng trình bày đề cương chi tiết bản báo cáo
(mỗi HS trình bày trong vòng 5 phút). Sau mỗi báo cáo, GV và HS khác nhận
xét, góp ý để hoàn thiện nội dung dàn ý chi tiết của báo cáo.
25