BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu:
Lịch sử cũng như các môn học khác, có vai trò tác động đến con người không
chỉ về trí tuệ mà còn cả về tư tưởng, tình cảm. Bên cạnh đó, còn góp phần xây
dựng con người phát triển về "Đức Trí Thể Mĩ" ở những mức độ khác nhau.
Nếu Văn học giúp học sinh thấy được cái hay, cái đẹp trong thơ ca để càng yêu
quý hơn con người, dân tộc Việt Nam thì thông qua Lịch sử ở trường trung học
phổ thông nhằm giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về
lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan
khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách
mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động và thái độ ứng xử đúng đắn
trong cuộc sống xã hội. Bởi “ Bắt nguồn từ một sự thực là trong khoa học Lịch sử
có những yếu tố nghệ thuật”.
Mặc dù có vai trò, chức năng, nhiệm vụ quan trọng trong giáo dục thế hệ trẻ,
nhưng hiện nay, việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện còn
những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan, nhiều sự kiện
nên chưa tạo được hứng thú học lịch sử đối với học sinh và một thực tế đáng
buồn là học sinh không thích học môn Lịch sử, xem nhẹ môn Lịch sử. Các em tiếp
thu kiến thức một cách hời hợt, rời rạc, nông cạn về kiến thức lịch sử, không
nắm được mối liên hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về
kiến thức liên môn… Vì đa phần các em cho rằng học Lịch sử phải ghi nhớ quá
nhiều sự kiện khô khan, Lịch sử là một môn học nghiên cứu về quá khứ mà quá
khứ là cái đã qua không thể thay đổi nên chỉ học cho qua chứ không có gì vận
dụng vào thực tế.
Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân gây nên song cơ bản không phải do bản
thân môn Lịch sử mà do quan niệm, phương pháp dạy học chưa phù hợp, chưa
đáp ứng được 2 yêu cầu môn học đề ra. Giáo viên dạy Lịch sử chưa phát huy
được thế mạnh của bộ môn, chưa chỉ ra cho các em nhận thức được đây là bộ
môn khoa học, cần phải só sự học tập, nghiên cứu nghiêm túc. Giáo viên chưa
thực hiện được không khí của lịch sử trong giờ học nên để học sinh rơi vào tình
trạng thụ động, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh làm cho không khí
học tập mệt mỏi, làm cho giờ học trở nên khô khan, nặng nề.
Dạy học theo theo chủ đề tích hợp là một trong những nguyên tắc quan trọng
trong dạy học học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng. Đây được coi là một
quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời
nâng cao chất lượng giáo dục. Dạy học tích hợp làm cho người học lịch sử nhận
thức được sự phát triển xã hội một cách liên tục, thống nhất, thấy được mối liên
hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục được tính tản mạn
rời rạc trong kiến thức.
Dạy học liên môn trong môn lịch sử là hình thức liên kết những kiến thức với
môn lịch sử như Ngữ văn, Địa lí, Tin học, Giáo dục công dân......để học sinh tiếp
thu kiến thức, biết vận dụng kiến thức lịch sử vào cuộc sống và ngược lại từ
cuộc sống để giải quyết các vấn đề liên quan đến lịch sử.
Từ những lí do trên, tôi chọn giải pháp "Tích hợp kiến thức liên môn nhằm
nâng cao hiệu quả dạy học Lịch sử ở trường TH PT" để nhằm trao đổi với
đồng nghiệp về việc vận dụng phương pháp trên để giải quyết một vấn đề lịch
sử cụ thể. Nhằm giúp giáo viên lịch sử có thể áp dụng vào giảng dạy môn lịch sử
một cách sinh động, giúp cho học sinh hứng thú hơn với bộ môn lịch sử trong
chương trình lịch sử cấp THPT.
2. Tên sáng kiến: "Tích hợp kiến thức liên môn nhằm nâng cao hiệu quả dạy
học Lịch sử ở trường THPT"
3. Tác giả sáng kiến:
Họ và tên: Nguyễn Thị Tuấn
Địa chỉ: Trường THPT Nguyễn Viết Xuân
Số điện thoại: 0354337379
Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến
Nguyễn Thị Tuấn, giáo viên Lịch sử Trường THPT Nguyễn Viết Xuân – Vĩnh
Tường – Vĩnh Phúc.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Nghiên cứu phương pháp tích hợp kiến thức liên
môn trong giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường THPT.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: Năm học 2017
2018
7. Mô tả về bản chất của sáng kiến
7.1. Về nội dung của sáng kiến
Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói
chung và dạy học Lịch Sử nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện
đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo
dục.
Dạy học liên môn là hình thức tìm tòi những nội dung giao thoa giữa các môn
học với môn Lịch Sử, những khái niệm, tư tưởng chung giữa các môn học, tức là
con đường tích hợp những nội dung từ một số môn học có liên hệ với nhau “Từ
những năm 60 của thế kỉ XX, người ta đã đưa vào giáo dục ý tưởng tích hợp trong
việc xây dựng chương 3 trình dạy học. Tích hợp là một khái niệm của lí thuyết
hệ thống, nó chỉ trạng thái liên kết các phần tử riêng rẽ thành cái toàn thể, cũng
như quá trình dẫn đến trạng thái này”
Hiện nay, Bộ GD&ĐT đã đưa vấn đề vận dụng kiến thức liên môn vào giảng
dạy trong các trường phổ thông. Tuy nhiên đây là một hình thức dạy học mới,
giáo viên chưa được tiếp xúc nhiều và chưa có kinh nghiệm giảng dạy. Vì vậy
việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy các bộ môn còn gặp nhiều khó
khăn lúng túng
Môn lịch sử là bộ môn có vai trò quan trọng, qua đó học sinh có thể hiểu biết
về lịch sử dân tộc và thế giới, từ đó hoàn thiện và phát triển nhân cách con người.
Tuy nhiên, thực trạng của việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ thông
hiện còn những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan với
nhiều sự kiện lịch sử nặng về chiến tranh cách mạng, ít đề cập về lịch sử văn
hóa, nghệ thuật, chưa xen kẽ với văn học, khoa học…nên chưa tạo được sự hứng
thú học sử đối với học sinh. Học sinh còn hiểu một cách rời rạc, không nắm
được mối quan hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về
kiến thức liên môn. Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu cuộc sống hiện t ại và
tương lai đặt cho giáo viên lịch sử nhiệm vụ: Làm thế nào nâng cao chất lượng
dạy và học lịch sử, kích thích sự hứng thú học lịch sử cho học sinh. Để hoàn thành
nhiệm vụ này đòi hỏi giáo viên dạy lịch sử không chỉ có kiến thức vững vàng về
bộ môn lịch sử mà còn phải có những hiểu biết vững chắc về các bộ môn địa lý,
văn học, nghệ thuật, khoa học…để vận dụng vào bài giảng lịch sử làm phong phú
và hấp dẫn thêm bài giảng.
Trong chương trình phổ thông, giáo viên có thể sử dụng phương pháp tích hợp
trong hầu hết các bài dạy, từ đó làm tăng hứng thú cho học sinh.
Trong giảng dạy bộ môn Lịch sử, người giáo viên đóng vai trò quan trọng trong
việc làm sống lại các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những kiến thức
trong sách giáo khoa thì khó có thể tạo dựng lại không khí lịch sử cần thiết để thu
hút các em đi sâu tìm hiểu, khám phá quá khứ của dân tộc, của thế giới. Để tạo
nên những cảm xúc thực sự trước những sự kiện thì việc vận dụng kiến thức liên
môn vào giảng dạy lịch sử là điều cần thiết, nó góp phần làm cho bài giảng trở
nên sinh động và hấp dẫn, nâng cao hứng thú học tập của học sinh.
Lịch Sử, Ngữ văn, Địa lí, GDCD... có liên hệ với nhau, kiến thức môn này sẽ
hỗ trợ cho môn kia, văn học sẽ cung cấp cho ta những tư liệu lịch sử mà nhờ đó
học sinh có thể nhận thức một cách rõ ràng, như khi học tác phẩm Tắt Đèn của
Ngô Tất Tố, học sinh sẽ hiểu về những thuế, những sưu dịch mà nhân dân phải
gánh chịu, hiểu được những chính sách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp, đặc
biệt hiểu và thông cảm sâu sắc cho tình cảnh người nông dân Việt Nam, làm việc
cực nhọc “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” nhưng vẫn không đủ sống, mà ta
nghĩ là bằng ngôn từ của mình giáo viên khó có thể khắc họa hết những tủi nhục,
những đắng cay mà người dân phải gánh chịu trong thời kỳ pháp thuộc. Và cũng
khó tìm thấy một ngôn từ nào để diễn tả cho hết sức mạnh như vũ bão của quân
ta trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược hơn những lời thơ của
Nguyễn Trãi:
Đánh một trận sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận tan tác chim muông
Cơn gió to trút sạch lá khô
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ
(Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi)
Cũng bằng phương pháp trên ta áp dụng khi dạy về "Cuộc kháng chiến chống
Tống thời Lý" (bài 19 lịch sử 10)
Năm 1077, 30 vạn quân Tống tràn sang nước ta đã bị đánh tan trên trận tuyến
sông như Nguyệt. Học đến đây giáo viên tích hợp kiến thức môn Địa lý, sử dụng
bản đồ để học sinh hình dung được địa hình và vị trí của sông Như Nguyệt (Bắc
Ninh).
Ngoài ra, giáo viên có thể sử dụng thêm thơ ca bài “Thơ thần” mà Lý Thường
Kiệt cho người đọc bên đền Trương Hống, Trương Hát với tư cách là nghệ thuật
chiến tranh tâm lí của Lý Thường Kiệt:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời”
Bài thơ như một lời hiệu triệu, nức lòng toàn quân, toàn dân, khiến cho tinh
thần, ý chí quyết tâm của quân dân ta ngày càng tăng. Đồng thời cũng là lời cảnh
cáo đanh thép với kẻ thù về những hành động sai trái của chúng, khiến kẻ thù
khiếp vía.
Hoặc khi dạy phần "Phong trào đấu tranh chống quân xâm lược Minh và khởi
nghĩa Lam Sơn" (bài 19 lịch sử 10). Khi giảng diễn biến trận Chi Lăng –Xương
Giang, giáo viên có thể trích dẫn các câu thơ trong bài “Bình Ngô Đại Cáo” của
Nguyễn Trãi:
“… Ngày 18 trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế
Ngày 20 trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu
Ngày 25 bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày 28 Thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn
… Xương Giang Bình Than máu trôi đỏ nước…
Bị ta chặn ở Lê Hoa quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vở mật…”
Giặc rơi vào thế cùng quẫn, HS có thể vận dụng kiến thức môn GDCD để nói về
việc nghĩa quân đã "thể đức hiếu sinh" cấp ngựa, thuyền cho chúng về nước
thông qua câu thơ:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo...
Những câu thơ đã thể hiện rõ tấm lòng nhân đạo của quân ta “mở đường hiếu
sinh” cho giặc. Việc làm đó vừa khiến cho giặc nể phục, coi trọng ta mà cũng
không dám sang xâm lược nước ta nữa. Mùa xuân năm 1428, khởi nghĩa thắng lợi,
Nguyễn Trãi viết “Cáo bình Ngô” khẳng định:
“Xã tắc từ đây bền vững
Giang sơn từ đây đổi mới”
Trong trận Ngọc Hồi Đống Đa (bài 23 lịch sử 10 cơ bản), giáo viên tích hợp
môn Địa lý để trình bày về diễn biến
Lược đồ trận Ngọc Hồi Đống Đa
Đồng thời tích hợp kiến thức môn Ngữ văn để nói về hình ảnh người anh hùng áo
vải Tây Sơn với ý chí quyết tâm đánh giặc bảo vệ nền độc lập dân tộc
“Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phẩn
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”
Bên cạnh đó phần nào cũng vạch rõ bộ mặt phản dân bất tài của bè lũ Lê Chiêu
Thống….Với thắng lợi lẫy lừng đó không thể không nhắc đến công lao to lớn
của Quang Trung Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải mà chính vợ ông là công
chúa Ngọc Hân đã ghi lại sự nghiệp của chồng mình như sau :
“Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước, xiết bao công trình”
Khi dạy bài 19:“Nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp xâm lược (Từ
năm 1858 đến trước năm 1873) (Lịch sử lớp 11 cơ bản) về tình hình Việt Nam
giữa thế kỷ XIX, trước khi Pháp xâm lược, Việt Nam là nước độc lập có chủ
quyền, kinh tế có những bước phát triển nhưng đã bộc lộ những suy yếu.....Ở
phần này giáo viên có thể sử dụng một số câu ca dao, tục ngữ, một số câu thơ để
làm nổi bật sự khủng hoảng của chế độ phong kiến dưới triều Nguyễn vào giữa
thế kỉ XIX như:
“Vạn niên là Vạn niên nào Thành xây xương lính, hào đào máu dân”
Hay câu ca dao:
“Con ơi mẹ bảo con này cướp đem là giặc, cướp ngày là quan”
Hay những câu thơ của nhà thơ Nguyễn Công Trứ:
“Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy”…
Hay những câu thơ:
“ Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông”
Khi giảng về hành động của Pháp sau khi bị thất thủ ở Đà Nẵng, Pháp tấn
công vào Nam Kỳ thì học sinh có thể vận dụng kiến thức Địa Lí để trả lời câu
hỏi Vì sao thực dân Pháp sau khi thất thủ ở Đà Nẵng lại tấn công Nam kỳ? và để
hiểu rõ hơn tâm trạng hốt hoảng, hoang mang khi triều đình đã không chủ động
đánh giặc khi thực dân Pháp tấn công của người dân giáo viên có thể sử dụng bài
thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu.
Khi nhận xét về thái độ chống Pháp của triều đình và của nhân dân ta, giáo
viên có thể sử dụng những câu thơ trong bài thơ: “Văn tế Nghĩa sĩ Cần
Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu. Cũng qua bài thơ này cho học sinh hiểu rõ được
tương quan so sánh lực lượng giữa ta và Pháp (từ quân số, sự thiện chiến, vũ khí
trang bị…).
Dạy phần "Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945" (lịch sử lớp 12), giáo viên
có thể nhấn mạnh khí thế bừng bừng như thác đổ của cuộc khởi nghĩa đang lan
rộng khắp các địa phương trong toàn quốc bằng đoạn trích:
“ Đồng cỏ héo đã bùng lên lửa cháy
Nước non ơi hết thảy vùng lên
Bắc, Trung, Nam khắp ba miền
Toàn dân khởi nghĩa chính quyền về tay…”
Học sinh sẽ chú ý lắng nghe, khi được gọi nhận xét, các em có khả năng nhận
xét được không khí trong cuộc khởi nghĩa khi liên tưởng đến những sự kiện mình
đang học bằng hình ảnh miêu tả của bài thơ. Đồng thời còn giúp các em đánh giá
đúng vai trò của quần chúng nhân dân là những người làm nên lịch sử Là động
lực chính đưa cách mạng đến thành công.
Hay khi dạy bài 20 “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp xâm
lược kết thúc” (Lịch sử 12), giáo viên dùng kiến thức môn Địa lý để xác định cho
học sinh thấy vị trí địa lý của Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn nằm ở
phía tây rừng núi Tây Bắc, gần biên giới với Lào, có vị trí then chốt ở Đông
Dương và Đông Nam Á sau đó trình bày diễn biến trên bản đồ. Sau khi khái quát
về kết quả của chiến dịch Điện Biên phủ, giáo viên có thể trích dẫn mấy câu thơ
của Tố Hữu như sau:
“… 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn…”.
Không chỉ mô tả về khí thế của chiến dịch mà còn hướng cho học sinh đi tìm
hiểu nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, ta thấy
rằng các em rất xúc động về những hình ảnh mà mình thu nhận được. Điều này
có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục tinh thần cảm phục đối với công lao của
các thế hệ đi trước. Đồng thời cũng góp phần nâng cao ý thức bảo vệ quê hương
đất nước trong nhận thức của các em.
Khi nói về ý nghĩa “Chiến thắng của Điện Biên phủ” giáo viên trích câu thơ:
“Chín năm làm một Điện Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Khi dạy bài 9: "Vương quốc Campuchia và vương Lào" (lịch sử lớp 10 cơ
bản), giáo viên tích hợp môn Kiến trúc bằng cách cho học sinh xem các hình ảnh:
Đền Ăngcovát (Căm pu chia), tháp Thạt Luổng (Lào)... để học sinh thấy được
trình độ kiến trúc của con người thời phong kiến. Qua đó thấy được lịch sử phát
triển của các triều đại phong kiến thời đó.
Hoặc khi dạy bài 20: "Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ
X XV" (lịch sử lớp 10 cơ bản), giáo viên có thể tích hợp kiến thức môn Mĩ
thuật, kiến trúc, điêu khắc như cho học sinh xem hình ảnh chùa Một Cột, tháp
chùa Phổ Minh (Nam Định), lan can đá chạm rồng tại thềm điện Kính Thiên (Hà
Nội)....để học sinh thấy được nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc của Đại Việt từ
thế kỉ X XV.
Chùa Một cột
Đôi rồng đá thềm trước Điện Kính Thiên
Bài 36: "sự hình thành và phát triển của phong trào công nhân" (lịch sử
lớp 10 cơ bản): giáo viên tích hợp môn GDCD bằng cách cho học sinh xem bức
ảnh “ Lao động trẻ em trong hầm mỏ ở Anh”. Giáo viên đưa ra câu hỏi cho học
sinh thảo luận: Vì sao giới chủ lại thích sử dụng lao động trẻ em? Liên hệ với trẻ
em ngày nay, công ước về quyền trẻ em… Từ đó thấy được tính ưu việt của chế
độ ta. Đồng thời liên hệ ngay ở địa phương: Một số trẻ em chưa đến tuổi lao
động cũng đã bỏ học đi làm và bị bóc lột sức lao động mà không biết.
Hay trong bài 22: “ Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ nhất của thực dân Pháp" (lịch sử lớp 11 cơ bản), giáo viên cho học sinh
xem các bức tranh “Nông dân, công nhân Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc” Từ
đó học sinh thấy rõ chính sách khai thác, bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp đối
với nước ta.
Lịch sử giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về Văn học, như phải hiểu hoàn cảnh
tác phẩm đó ra đời như thế nào mới hiểu hết được dụng ý nghệ thuật cũng như
nội dung sâu sa mà tác giả muốn gửi đến người đọc là gì. Ngược lại Văn học,
Địa lý, GDCD, kiến trúc, Mĩ thuật... làm cho các sự kiện, các kiến thức của lịch
sử dễ dàng thấm vào tiềm thức của con người. Nói về sự hỗ trợ của Lịch sử đối
với các môn học khác, G. Elton đã nói “Nhà sử học cũng có thể dạy cho các khoa
học khác rất nhiều điều. Anh ta có thể giúp các khoa học này hiểu thế giới quan
của nhiều phương án xây dựng sơ đồ, vạch rõ những mối quan hệ tương hỗ mà
một chuyên môn hẹp khó nhận thấy, giúp các khoa học xã hội hiểu rằng đối
tượng mà chúng có quan hệ là những con người. Trong khi tiếp nhận các khoa
học khác tính chính xác và tầm rộng của sự khái quát, đồng thời Lịch Sử có thể
hoàn thành nghĩa vụ của mình bằng cách xây dựng một thái độ nghiêm túc đối với
các tài liệu và tránh những khái quát không có cơ sở vững chắc”.
Minh họa thiết kế giáo án tích hợp kiến thức liên môn vào một bài cụ thể
TIẾT 26 BÀI 20
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA DÂN TỘC
TRONG CÁC THẾ KỈ X – XV
(Lịch sử 10 chương trình cơ bản)
I. Mục đích yêu cầu
1. Về kiến thức
Giúp người học hiểu và nắm được những kiến thức cơ bản về nguồn gốc,
thành tựu và đặc điểm của văn hóa dân tộc trong các thế kỉ X – XV
Gắn liền với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nhân dân ta không ngừng
nỗ lực xây dựng một nền văn hóa dân tộc đặc sắc. Ở các thế kỉ X – XV, công
cuộc xây dựng văn hóa diễn ra đều đặn, nhất quán.
Tích hợp kiến thức về Nho giáo, Phật giáo, môn văn học, môn mĩ thuật để giúp
học sinh hiểu sâu sắc về những thành tự văn hóa mà nhân dân ta sáng tạo trong
các thế kỉ X – XV là sự kế thừa và phát triển nền văn hóa Việt Cổ thời Hùng
Vương dựng nước (văn minh sông Hồng) đồng thời có sự giao thoa với các nền
văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ, tạo ra một nền văn hóa đa dạng.
Thông qua tích hợp kiến thức văn học, mĩ thuật, âm nhạc, kiến trúc, khoa học
quân sự cùng những kiến thức thực tiễn, lịch sử địa phương để giúp học sinh
hiểu được đặc điểm của văn hóa Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV mang đậm
tư tưởng yêu nước, tự hào và độc lập dân tộc.
2. Về tư tưởng tình cảm
Qua tích hợp kiến thức về tôn giáo (Nho giáo, Phật giáo) văn học, nghệ
thuật, khoa học quân sự…giúp học sinh khắc sâu lòng yêu nước, bồi dưỡng niềm
tự hào về văn hóa dân tộc . Từ đó nâng cao ý thức trân trọng, bảo tồn và phát huy
sáng tạo các giá trị văn hóa – lịch sử của quê hương, đất nước.
3. Về kĩ năng:
Rèn luyện kĩ năng quan sát, tư duy, phát hiện những nét đẹp trong văn hóa.
II. Thiết bị và tư liệu dạy học
Tranh ảnh minh họa có liên quan đến bài học: Phật Tổ, Khổng Tử, Lão Tử, các
chùa tiêu biểu ở nước ta từ thế kỉ X – XV (chùa Dâu, chùa Phật tích, chùa Keo,
chùa Một Cột…), chân dung Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi…
Thơ văn: bài Nam Quốc Sơn Hà (Lý Thường Kiệt), trích đoạn trong “Hịch
Tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn), “Bình Ngô Đại Cáo” (Nguyễn Trãi)...
Tư liệu về Nho giáo, Phật giáo, chùa Một Cột, tháp Bình Sơn, súng thần cơ…
Phiếu học tập và phiếu kiểm tra đánh giá cuối giờ học.
III. Tiến trình tổ chức giờ dạy – học
1. Ổn định lớp 10 D2
2. Dẫn dắt vào bài mới
Các em thân mến! Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết về đất nước một
cách thật bình dị mà sâu sắc:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn….”
Đất nước có từ ngày xửa ngày xưa, đất nước là hình hài của quá trình lao
động, chiến đấu không ngừng của bao thế hệ cha ông. Quá trình ấy đã kết tụ
thành những giá trị văn hóa bản địa vững chắc, khẳng định sự trường tồn của
quốc gia dân tộc.
Bài học hôm nay sẽ cho chúng ta hiểu sâu hơn về sự hình thành và phát
triển của văn hóa dân tộc từ thế kỉ X đến thế kỉ XV.
3. Hoạt động dạy và học
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Hoạt động 1 hoạt động nhóm:
Giáo viên: chia lớp học thành 03 nhóm học
Nội dung kiến thức cơ bản
I. Tư tưởng, tôn giáo
tập, giao nhiệm vụ cho từng nhóm.
Nhóm 1: tìm hiểu về sự phát triển của Phật
giáo ở nước ta thời Lý, Trần.
Nhóm 2: Tìm hiểu sự phát triển của Nho giáo
ở nước ta từ thế kỉ X – XV.
Nhóm 3: Tìm hiểu sự phát triển của Đạo giáo
ở nước ta từ thế kỉ X – XV.
Các nhóm: thảo luận và cử đại diện trình
bày phần nhiệm vụ được giao.
Giáo viên: bổ sung, chốt kiến thức:
+ Về Phật giáo:
Giáo viên sử dụng các hình ảnh minh họa:
1. Phật giáo
Chùa Diên Hựu, chùa Phổ Minh, Tháp Báo
Thiên, tượng Phật Bà Quan Âm, chân dung sư
Vạn Hạnh, sư Đỗ Thuận, Ngô Chân Lưu.
Giáo viên nhấn mạnh sự phát triển của
Phật giáo ở nước ta thời Lý, Trần.
Phật giáo được du nhập vào nước ta từ rất
sớm, nhanh chóng được tiếp nhận rộng rãi ở
nước ta trong những thế kỉ đầu công nguyên
và đóng vị trí quan trọng thời Lý – Trần.
Thời Lý, cả vua quan và dân đều sùng phật, Thời Lý: cả vua quan và dân
sử cũ viết:
đều sùng bái đạo Phật, nhiều nhà
“Lý Thái Tổ lên ngôi mới được 2 sư đóng góp tích cực vào sự
năm, tôn miếu chưa dựng, xã tắc chưa nghiệp xây dựng đất nước.
lập mà trước đã dựng 8 chùa ở phủ
Thiên Đức….cấp độ điệp cho hơn 1000
người ở kinh sư làm tăng”
(Đại Việt sử kí toàn thư)
Các vua Lý đã nối tiếp nhau dựng chùa,
đúc chuông, tô tượng, in kinh phật. Thời kì
này, các sư tăng và tín đồ Phật giáo phát triển
cả về số lượng lẫn chất lượng. Theo nhà sử
học Lê Văn Hưu, đời Lý, nhân dân ta có quá
một nửa làm sư sãi, nơi nào có người ở nơi đó
có chùa. Nhiều nhà sư tham gia tích cực vào
sự nghiệp dựng nước và giữ nước như nhà sư
Ngô Chân Lưu, sư Đỗ Thuận, sư Vạn Hạnh…
Thời Trần: Vua Trần Nhân Tông khi lên làm Thời Trần, xuất hiện phái
Thái Thượng Hoàng đã xuất gia đầu Phật và Thiền Trúc Lâm Đại Việt. Chùa
lập ra phái Thiền Trúc Lâm Đại Việt. Trong trở thành trung tâm vă hóa ở các
nhiều năm, các kì thi tam giáo vẫn ngự trị làng, xã.
trong thi cử, sĩ tử đi thi phải thông hiểu cả ba
giáo lí Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo. Ở các
làng, chùa là trung trâm, vừa là nơi dạy chữ,
vừa là nơi tổ chức hội hè.
Có thể nói, Phật giáo tác động sâu sắc tới tư
tưởng, tâm lí, phong tục và nếp sống của nhân
dân, có ảnh hưởng lớn đến kiến trúc, điêu
khắc và nghệ thuật nước ta trong các thế kỉ X
– XIV.
Hoạt động 2 – cá nhân:
Hỏi: Tại sao Phật giáo phát triển mạnh mẽ
ở nước ta thời Lý – Trần?
Giáo viên chốt đáp án (trên cơ sở tích
hợp kiến thức về nội dung giáo lý Phật giáo
để nhấn mạnh khả năng hòa nhập, bắt rễ sâu
rộng của đạo Phật trong nhân dân): Phật
giáo vào nước ta theo con đường truyền bá tự
nhiên, giáo lý Phật giáo đề cao tư tưởng từ bi,
hỉ, xả, phù hợp với đặc điểm tâm lí, lối sống
của người Việt nên nhanh chóng được tiếp
thu; Thời Lý – Trần, trong chặng đường đầu
xây dựng nhà nước độc lập, tính quân chủ
chuyên chế chưa sâu sắc, nhà nước tạo điều 2. Nho giáo
kiện cho Phật giáo phát triển mạnh
+ Về Nho giáo
Giáo viên tích hợp kiến thức về Nho Thời kì đầu còn xa lạ với nhân
giáo để nhấn mạnh: Nho giáo vào nước ta
dân
theo con đường quan phương cùng với sự
thống trị và nô dịch của các triều đại phong
kiến phương Bắc. Vì vậy, cho đến đầu thời kì
quốc gia phong kiến độc lập, nó mới chỉ dừng
lại ở một bộ phận giai cấp thống trị, còn xa lạ
với nhân dân.
Cùng với bước đường xây dựng nhà
nước quân chủ chuyên chế trung ương tập
quyền, hệ tư tưởng Nho giáo từng bước được
Từng bước được giai cấp
phong kiến nâng cao, trở thành
nội dung chi phối giáo dục, khoa
cử, đến thế kỉ XV, nho giáo
chiếm vị trí độc tôn.
giai cấp phong kiến nâng cao, được đặt thành
những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ vua –
tôi, cha – con, chồng – vợ, trong đó người trên
Khi du nhập vào nước ta, nho
giáo ít nhiều bị điều chỉnh phù
(vua, cha, chồng) phải thương yêu, chăm sóc hợp với văn hóa bản địa của
và bao dung người dưới, còn người dưới (tôi, người Việt.
con, vợ) phải thương yêu, kính trọng và phục
tùng người trên. Nho giáo là nội dung chi phối
giáo dục, thi cử. Từ cuối thế kỉ XIII đến đâu
thế kỉ XIV, Nho giáo phát triển mạnh, đến
thời Lê Sơ, nhà nước hạn chế Phật giáo, Nho
giáo chiếm vị trí độc tôn. Sự phát triển của
giáo dục Nho học cũng góp phần củng cố vị
trí của Nho giáo.
Tuy nhiên, Nho giáo khi du nhập vào
Việt Nam cũng ít nhiều bị điều chỉnh phù hợp
với văn hóa bản địa, tín ngưỡng, tâm lí của
người Việt.
3. Đạo giáo
Hoạt động 3 – cá nhân:
Hỏi: Tại sao đến thời Lê Sơ, Nho giáo
chiếm địa vị độc tôn?
Hòa lẫn vào tín ngưỡng dân
Học sinh trả lời
gian
Giáo viên chốt đáp án, trên cơ sở tích hợp
kiến thức về nội dung giáo lý Nho giáo, nhấn
mạnh vai trò của Nho giáo: Tư tưởng Nho
giáo góp phần duy trì tôn ti trật tự xã hội,
củng cố chế độ quân chủ chuyên chế, được
giai cấp phong kiến nâng lên vị trí độc tôn.
Giáo dục Nho học phát triển góp phần củng
cố vị trí của Nho giáo.
+ Về Đạo giáo:
Giáo viên sử dụng hình ảnh minh họa: ảnh
tượng Đạo Sĩ Yên Kì Sinh.
Đạo giáo được truyền bá vào nước ta từ
rất sớm cùng với Nho giáo và Phật giáo. Đạo
sĩ Yên Kì Sinh sang nước ta đặt lò luyện linh
đan ở Yên Tử (Đông Triều Quảng Ninh). Đạo 4. Tín ngưỡng:
giáo ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân và Tín ngưỡng truyền thống tiếp
hòa lẫn với tín ngưỡng dân gian. Đạo giáo tục phát triển.
phù thủy rất tương đồng với tín ngưỡng ma
thuật nên sự hòa trộn xảy ra rất mãnh liệt.
Hoạt động 4 – cá nhân:
Hỏi: Tại sao Đạo giáo du nhập vào nước ta
lại hòa lẫn với tín ngưỡng dân gian
Học sinh trả lời:
Giáo viên chốt đáp án: trên cơ sở tích hợp
kiến thức giáo lý Đạo giáo để nhấn mạnh:
Đạo giáo tương đồng với tín ngưỡng ma thuật
nên khi du nhập vào Việt Nam đã hòa lẫn vào
tín ngưỡng dân gian.
Hoạt động 5 – Giáo viên thuyết trình về tín
ngưỡng
Tín ngưỡng:
Giáo viên thuyết trình Những tín ngưỡng từ
thời Việt Cổ như: thờ cúng tổ tiên, thờ người
có công với làng với nước, thờ thần, thờ các
hiện vật tiêu biểu cho nguồn gốc dân tộc tiếp
tục phát triển và ngày càng phổ biến. Giáo
viên sử dụng hình ảnh minh họa, tích hợp
kiến thức lịch sử địa phương về đền thờ
Đức Ông ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Phúc:
Đền thờ danh tướng dưới thời Lý Cao Tông
1176 Nguyễn Văn Nhượng, ông đã có công
đánh giặc Ai Lao, giữ gìn biên ải bình định
non sông được vua Lý Cao Tông ban cho
nhiều ấn tín, lúc ông mất được vua cho xây
lăng và lập đền thờ phong Đông Kinh Thông
Phán Đại Vương Thượng Đẳng phúc thần
hưởng theo nghi lễ quốc thể.
Hoạt động 1 – Giáo viên thuyết trình vê sự II. GIÁO DỤC, VĂN HỌC,
phát triển giáo dục Đại Việt từ thế kỉ X NGHỆ THUẬT, KHOA HỌC –
XV
KĨ THUẬT
Giáo viên sử dụng hình ảnh Văn Miếu – Quốc
Tử Giám, Văn bia Tiến sĩ, ban thờ Khổng Tử 1. Giáo dục
để minh họa sự phát triển của giáo dục Đại
Việt (X XV):
Nhu cầu xây dựng đất nước và nâng cao
tri thức đã thúc đẩy các nhà nước đương thời a. Sự phát triển giáo dục
quan tâm đến giáo dục.
Năm 1070, nhà Lý cho xây dựng Văn
Miếu ở kinh đô Thăng Long, đắp tượng
Khổng Tử, Chu Công, vẽ tượng 72 học trò Thời Lý: Năm 1070, nhà Lý cho
xuất sắc của Khổng Tử, bốn mùa cúng tế. xây dựng Văn Miếu; năm 1075,
Hoàng Thái tử đến học ở đây. Năm 1075, nhà nhà Lý tổ chức khoa thi đầu tiên
Lý tổ chức kì thi Minh kinh bác học và Nho
học tam trường.
Thời Trần, các khoa thi được tổ chức
đều đặn hơn. Năm 1247, đặt lệ lấy “tam Nhà Trần: tổ chức các khoa thi
khôi”, (ba người đỗ đầu), quy định rõ nội dung đều đặn.
học tập,mở rộng quốc tử giám cho con em quí
tộc và quan lại đến học.
Thời Lê sơ, qui chế thi cử được qui định Thời Lê Sơ: qui định rõ qui chế
rõ ràng: cứ 3 năm có một kì thi hội, chọn tiến thi cử, năm 1484 cho dựng bia
sĩ, riêng thời vua Lê Thánh Tông tổ chức được tiến sĩ.
12 khoa thi Hội. Năm 1484, nhà nước quyết
định dựng bia ghi tên tiến sĩ.
Hoạt động 2 – cá nhân:
Hỏi:Nội dung chi phối giáo dục nước ta thời
kì từ thế kỉ X đến XV là gì? Hiện nay ở văn
miếu Quốc tử giám còn lại bao nhiêu bia tiến
sĩ?
Học sinh trả lời:
Giáo viên chốt đáp án: Nội dung ch phối giáo b. Tác động của giáo dục:
dục, khoa cử nước ta từ thế kỉ X đến thế kỉ Giáo dục góp phần đạo tạo
XV là tư tưởng Nho giáo. Hiện nay ở Quốc người tài xây dựng đất nước.
Tử Giám có 82 bia tiến sĩ.
Giáo dục Nho học không tạo
Hoạt động 3 – Giáo viên thuyết trình về tác điều kiện cho phát triển kinh tế.
động của giáo dục
Hoạt động 4 – cá nhân:
Hỏi: Tại sao giáo dục Nho học không tạo
điều kiện cho sự phát triển kinh tế?
Học sinh trả lời:
Giáo viên chốt đáp án trên cơ sở tích hợp
kiến thức về giáo lý Nho giáo để nhấn mạnh:
giáo dục Nho học, chú trọng các chuẩn mực
đạo đức xã hội, không đề cập đến kiến thức
khoa học kĩ thuật nên không thúc đẩy kinh tế
phát triển
Hoạt động 1 – Giáo viên:
2. Văn học
Tích hợp kiến thức văn học, sử dụng hình ảnh
minh họa chân dung Nguyễn Trãi, tượng Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, các tác phẩm:
Nam Quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô * Thời kì đầu văn học mang
Đại cáo.
nặng tư tưởng Phật giáo.
* Văn học chữ Hán:
* Từ thời Trần, văn học dân tộc
Thời kì này xuất hiện hàng loạt bài hịch,bài được hình thành:
phú nổi tiếng như Nam Quốc sơn hà (Lý
Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Văn học chữ Hán: xuất hiện
Tuấn), Bạch Đằng Giang Phú (Trương Hán bài hịch, bài phú nổi tiếng như
Siêu), Bình Ngô Đại cáo (Nguyễn Trãi)…
Nam Quốc sơn hà (Lý Thường
Hoạt động 2 – cá nhân
Kiệt), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc bài thơ và giới Tuấn), Bạch Đằng Giang Phú
thiệu nội dunng “Nam Quốc sơn hà” của Lý (Trương Hán Siêu), Bình Ngô
Thường Kiệt.
+ Nam Quốc sơn Hà: bản phiên âm
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lại xâm phạm ?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
Đại cáo (Nguyễn Trãi)…
Giáo viên tích hợp kiến thức bài “Sông núi
nước Nam”, tiết 17 môn Ngữ Văn lớp 7 để
nhấn mạnh:
"Nam quốc sơn hà là bài thơ ngắn, chỉ
gồm 28 chữ nhưng đã tuyên bố rõ tính chất
"pháp lý" về chủ quyền nước Đại Việt của
người Đại Việt. "Hoàng đế nước Nam ở
nước Nam" điều đó đã được sách trời ghi rõ.
Hoàng đế nước Nam không "tiếm vị", không
"nghịch mệnh trời". Đó là lý do xác đáng để
nếu kẻ địch hung dữ nào dám xâm phạm tới
ắt sẽ bị bại vong. Bài thơ vừa tuyên bố chủ
quyền đất nước, vừa tuyên bố quyết tâm giữ
vững chủ quyền đất nước của dân tộc Đại
Việt".
+ Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn)
Hoạt động 3 – cá nhân:
Giáo viên yêu cầu học sinh giới thiệu nội
dung bài Hịch.
Giáo viên tích hợp kiến thức bài “Hịch tướng
sĩ”, tiết 93, 94 môn Ngữ Văn lớp 8, nhấn
mạnh:
Trước vận nước nguy nan, với tư cách
là chủ soái, Trần Quốc Tuấn đã lấy tình cảm,
tâm huyết của mình để trò chuyện, khích lệ
tướng sĩ sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng
quân Nguyên hung tàn.
“Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm
vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa,
chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da nuốt gan uống
máu quân thù. Dẫu cho trăm thây này phơi
ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa.
Ta cũng vui lòng…”
Bài Hịch đã trở thành tiếng kèn xung
trận, làm cho toàn quân, toàn dân ta nức lòng,
hăng hái đánh giặc. Cùng với khí thế của Hội
nghị Diên Hồng bừng bừng quyết tâm Sát
Thát, bài Hịch đã góp phần quan trọng làm nên
chiến thắng lẫy lừng của quân dân nhà Trần,
tạo nên hào khí Đông A rực rỡ, lưu danh muôn
đời.
+ Bình Ngô Đại Cáo(Nguyễn Trãi)
Hoạt động 4 – cá nhân:
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc một đoạn trích
trong bài “Bình Ngô Đại cáo”
“....Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc, Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc