Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Làng nghề truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.67 KB, 19 trang )

Làng nghề truyền thống
2.1. Sông Thu Bồn - Bà Rén với đời sống của c dân Mã Châu.
Xuất phát từ đỉnh Ngọc Linh đổ ra cửa Đại, sông Thu Bồn là cái gạch nối,
nối liền Thánh địa Mỹ Sơn - Kinh đô Trà Kiệu và cảng thị Hội An của thiểu quốc
Amaravâti - Chămpa xa kia; là con đờng giao lu Kinh tế - Văn hoá - Xã hội giữa
"miền xuôi" và "miền ngợc"; và trong lòng đất trên đôi bờ các con sông Thu Bồn -
Bà Rén còn ẩn chứa nhiều di tích thuộc văn hoá Sa Huỳnh nh Quế Lâm, Bình Yên
(Quế Phớc), Quế Lộc, Phú Đa, Thu Bồn, Mậu Hoà, Hậu Xá... đó là các khu c trú
cổ, các khu mộ chum có niên đại cách ngày nay khoảng 2000 đến 2500 năm.
Quảng Nam có bốn dòng sông lớn, ba bắt nguồn từ Hoà Vang, một từ
nguồn Thu Bồn, Quế Sơn; đều chảy đến thôn Giao Thuỷ huyện Diên Phúc thì hợp
dòng. Đến huyện Duy Xuyên thì chia dòng: sông Bà Rén ở phía Nam và sông Thu
Bồn ở phía Bắc cùng chảy cửa Đại - Hội An. Đại Nam nhất thống chí chép: "Sông
Dỡng Mông ở cách huyện Quế Sơn hai dặm về phía Bắc ra từ nguồn Chiên Đàn
(nguồn sông Thu Bồn- TG) qua địa giới huyện Lê Dơng, đến bãi Thi Lai huyện
Duy Xuyên thì thành một nhánh riêng đến xã Dỡng Mông. Tục gọi là sông Bà
Rén, chạy về phía Đông Nam qua chợ Thi Lai rồi chuyển sang Đông đổ vào
sông Bàn Thạch"[19.362-363]. Sông Bàn Thạch (Trờng Giang) lại chảy về phía
Đông đổ ra cửa Đại Chiêm.
Làng Mã Châu nằm ở đoạn thợng lu sông Bà Rén và đây là con sông có
ảnh hởng rất lớn và trực tiếp đến đời sống của c dân Mã Châu. Sông Thu Bồn - Bà
Rén bồi đắp phù sa tạo nên vùng đồng bằng phì nhiêu Duy Xuyên, Điện Bàn...
"ruộng đồng rộng rãi, các thứ lúa xanh tốt"[16.337]. ở đây từ rất sớm sử cũ đã
ghi lại lúa hai vụ, tằm tám lứa tơ một năm. Sách Thuỷ kinh chú chép: "Ruộng gọi
là "Bạch điền" (ruộng trắng) thì giống lúa trắng, tháng 7 đốt rẫy thì tháng 10 có
lúa chín; ruộng gọi là "Xích điền" (ruộng đỏ) thì giống lúa đỏ, tháng chạp làm
thì tháng t có lúa chín; ngời ta gọi lúa hai mùa là thế. Còn nh có nơi nảy mầm,
hoa màu thay lúa, lúa sớm lúa muộn tháng nào cũng tốt. Cày giống công nhiều,
mà thu hoạch lợi ít, vì mùa màng chóng chín. Gạo không phân tán ra ngoài nên
trong nớc thờng nhiều gạo. Việc tằm tang thì một năm tám lứa kén chín. Trong
bài Tam đô phú bảo là tơ tám lứa tằm là thế"[9.114].


Đại Nam nhất thống chí cũng ghi lại ở đây: "thổ nghi mùa màng thì có
năm bậc; ruộng Hạ thì mùa Đông cấy, mùa Hạ gặt; ruộng Thu thì mùa Hạ cấy,
mùa Đông gặt; ruộng Hạ, ruộng Thu (ở miền Trung và Nam thì ruộng Hạ là
ruộng Mùa, ruộng Thu là ruộng Chiêm, khác với miền Bắc - chú thích của ngời
dịch) đã gặt về mùa Hạ lại gặt về mùa Thu... Phần nhiều theo thời tiết mà cày
cấy"[19.338].
Mã Châu với vị trí sát sông Bà Rén nên có thuận lợi chủ động đợc nớc tới,
việc nông tang ít phải phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết. Ngời Việt vào đây đã kết
hợp hệ thống thuỷ lợi của ngời Việt và ngời Chăm để đa nớc vào đồng ruộng. Họ
đặt ở sông những guồng quay nớc dùng sức trâu hoặc sức ngời kéo, đa nớc từ
kênh mơng vào chứa ở những ao chứa nớc đợc đào ở góc đầu mỗi thửa ruộng và
sau đó ngời ta dùng gầu tre để tát nớc vào ruộng. Hệ thống kênh mơng ở đây có từ
rất sớm, "nớc trời" là một nguồn nớc quan trọng nhng không phải là chủ yếu. Sau
này, khi có điện, ngời dân ở đây đã chuyển sang dùng máy bơm nớc bằng dầu và
sau đó là xây dựng những trạm bơm; Xây dựng và sửa chữa lại hệ thống kênh m-
ơng để "dẫn thuỷ nhập điền". Hệ thống thuỷ lợi hiện nay đã đảm bảo cung cấp đủ
nớc tới cho các thửa ruộng và một phần cho các bãi đất trồng màu.
Về giống lúa, trớc đây ngời Chăm và sau đó là ngời Việt vào đây đều cấy
giống lúa Chiêm, bởi giống lúa này chịu hạn tốt nhng cho năng suất thấp. Khi hệ
thống thuỷ lợi đợc cải tiến, đồng ruộng ít phải phụ thuộc vào thời tiết thì ở đây,
những giống lúa cho năng suất cao bắt đầu đợc đem vào sử dụng, ví dụ nh giống
lúa Chiêm III (vụ hè thu), lúa La (vụ đông xuân), các giống lúa lai...
Do chủ động đợc nớc tới nên ở Mã Châu, sau ngày giải phóng đã có thời kỳ
trồng 3 vụ lúa/năm. Sau do thấy quỹ thời gian quay vòng của đất quá nhanh, vì
vậy năng suất và sản lợng lúa thấp nên ngời ta bỏ vụ thứ ba và quay lại trồng 2 vụ
lúa/năm.
Xen kẽ giữa hai mùa lúa, và đặc biệt là ở những bãi bồi ven sôngBà Rén,
ngời dân ở đây trồng những cây hoa màu nh: ngô, khoai, đậu... hoặc/và trồng dâu
để phát triển nghề nuôi tằm, ơm tơ. Nay làng chuyển sang chuyên làm nghề dệt
vải thì thì những bãi bồi đó ngời ta chuyên trồng ngô, đậu với những loại giống

cho năng suất và sản lợng cao nh: giống ngô Bioxit 8,9; ngô VN 10; đậu Côve...
Tuy nhiên việc trồng hoa màu ở các bãi bồi ven sông phải phụ thuộc vào thời tiết
vì hệ thống thuỷ lợi hiện nay mới chỉ đủ cung cấp nớc tới cho các thửa ruộng và
một phần cho các đồng màu.
Phân bón dùng trong nông nghiệp, trớc đây ngời ta bón ruộng bằng phân
chuồng, phân xanh và sau là những loại phân "công nghiệp" nh: đạm, lân, kali... ở
đây ngời ta không dùng phân Bắc để bón ruộng nh ở đồng bằng châu thổ Bắc Bộ.
Điều này có lẽ liên quan đến vấn đề tâm linh, tín ngỡng của những ngời dân từ
thời mới đi khai hoang lập nghiệp.
Về chăn nuôi, ở đây gà vịt đợc nuôi nhiều. Trâu đợc nuôi chủ yếu để lấy
sức kéo. Hiện nay ngời dân sử dụng máy cày, việc nuôi trâu vì thế cũng dần dần ít
hơn. Bò đợc nuôi để lấy thịt và trong những năm gần đây đang có xu hớng phát
triển ở các hộ nông dân.
Thủ công nghiệp, trớc đây vùng Duy Xuyên có nghề trồng dâu nuôi tằm và
trồng mía đờng nổi tiếng. Từ Gò Nổi đến tận Hà Mật, Thi Lai có nhiều chợ búa và
thị trấn nhỏ, hàng tơ lụa, tuýt xo đến những chợ vải, chợ hàng, lò đờng san sát.
Đời sống của ngời dân ở đây do vậy cũng tơng đối sung túc. Khắp vùng Điện Bàn,
Duy Xuyên trớc kia khắp nơi chỉ thấy cây lúa, cây dâu. Vào thập niên 40, ông Võ
Diễn ở Duy Xuyên chế tạo đợc khung cửi khổ rộng, tạo nên sản phẩm vải đẹp với
những hoa văn mới lạ và năng suất cao hơn trớc kia. Thực ra từ những năm 70 của
thế kỷ XIX, tơ lụa Quảng Nam đã đợc Nguyễn Thành ý mang sang Pháp dự đấu
xảo, mà kỹ thuật dệt từ thời đó đến nay đã có sự khác nhau xa. Ngợc lại, nghề đ-
ờng mía, do thiếu một bộ óc tiên phong nh Võ Diễn để làm đờng cát trắng mịn
hơn nên nghề mía đờng ở đây đã dần dần tàn lụi [22.281].
Cơ cấu bữa ăn của c dân Mã Châu cũng giống nh cơ cấu bữa ăn của ngời
Việt là: Cơm - Rau - Cá. Khác với miền Bắc, ở Mã Châu và miền Trung nói
chung, món rau không luộc lấy nớc mà họ chế biến theo nhiều cách khác nhau
nh xào, nấu... và nếu có luộc rau thì họ cũng không ăn nớc luộc. Nếu nh ở miền
Bắc, rau muống là loại rau phổ biến thì rau lang là loại rau thờng dùng của ngời
dân vùng này và ngoài rau lang còn có các loại rau diếp cá, khổ qua (mớp đắng)...

Có sự khác biệt này là do rau muống là loại cây a nớc, thích hợp với khí hậu đất
đai ở vùng châu thổ Bắc Bộ; còn ở miền Trung khí hậu khô nóng, lại có nhiều diện
tích đất bãi bồi pha nhiều cát sông, cát biển thuận lợi cho sự phát triển của cây
khoai lang.
Cây khoai lang ở đây một năm đợc trồng lại hai lần theo mùa vụ. Vào mùa
ma, bắt đầu từ tháng 9, ngời ta làm đất thành luống trồng khoai để tạo những rãnh
thoát nớc, chống ngập úng. Khoảng đầu tháng 3, ngời ta dỡ khoai ở luống và san
bằng đất trồng vụ khoai thứ hai để chống mất nớc trong mùa khô.
Ngời Việt khi tới đây đã tiếp nhận cái nhìn hớng biển cùng những yếu tố
biển trong nền văn hoá của ngời Chăm nên trên bàn ăn của họ thờng có những
món ăn chế biến từ hải sản nh: tôm, cua, cá... và đặc biệt là món mắm.
"Mắm có tảng nền là thuỷ sản, để nguyên con hay giã nhỏ, muối mặn
(salé) và để một quá trình lên men (fermenté) bằng gạo thính có khi cho thêm ít
rợu - để "thơm" và thúc đẩy quá trình lên men, rồi khi ăn chắt thành nớc (nớc
mắm cá, nớc mắm cáy, nớc mắm sò), hay ăn nguyên con (mắm cá cơm) hay
đánh nhuyễn thịt (mắm tôm - tép - moi - mắm cá thu). Mắm và nớc mắm... chỉ
phát triển ở miền ven biển mà chủ yếu là ở miền Trung - Nam, thuỷ sản nớc
ngọt không nhiều nhng hải sản vô cùng phong phú. Vậy cái nôi của mắm là
miền Trung - Nam nhng thịnh nhất là miền Trung - xứ sở của ngời Chăm cổ và
ngôn ngữ melayu"[36.416].
Vùng Mã Châu trớc đây có trồng mía đờng, sản phẩm làm ra là đờng
mật rỉ, đờng muống. Ngoài ra đờng còn đợc chế biến làm các món ăn nh: Đờng
non kẹp bánh tráng nớng, rải thêm ít hột đậu phộng rang hoặc khoai lang tơi xắt
lát, sâu lại đem nhúng vào nồi đờng non nóng chín ăn vừa ngọt, vừa bùi lại rất
thơm ngon.
Sông ngòi ở đây "cá trôi (Hoàn ng) sống ở các khe, hàng năm nớc lũ
mùa Thu; nớc xuống đến đâu cá theo đến đấy, ngời ta chài lới đợc hàng ngàn...
Cá gáy (Lý ng), sông ngòi các nơi đều có; nớc lũ mùa Thu, ngời ta chài lới đợc
nhiều"[19.399]. Sông ngòi lắm cá, nên ở Mã Châu có nhiều hộ gia đình làm nghề
đánh cá, đặc biệt ở làng có họ Trần Văn ở bến đò Tơ nhiều đời sống bằng nghề

này. Vì vậy mà ông Hiền Tâm đã có bài thơ nói về ng nghiệp:
Sông dài
Sông rộng
Sông sâu
Cha chài
Chú rỡ
Chị nhủi
Em câu.
Ngời Việt di c vào đây cũng mang theo cách làm nhà ở nh tại những
vùng quê cũ của họ nhng đã có sự biến đổi để thích nghi với môi trờng mới. Họ
phải chọn một kiểu dáng, nột giải pháp khả thi trong kết cấu bộ khung nhà làm
nơi trú ngụ, thuận lợi sinh hoạt trong việc nông tang hàng ngày mà khung nhà
phải đề cao các công năng nh: chống ma to, bão lớn, lũ lụt...[22.377].
Vật liệu cổ truyền để xây dựng nhà cửa ở đây là tre, gỗ vì vậy qua thời
gian, ảnh hởng của khí hậu, môi trờng, chiến tranh, mối mọt... mà đa số đã bị h
hỏng. Theo khảo sát về nhà dân dụng cổ truyền ở huyện Duy Xuyên của Viện
nghiên cứu Kiến trúc thì ở Mã Châu còn lại một căn nhà có niên đại từ thế kỷ
XVIII [41]. ở Mã Châu cũng có nhiều ngôi nhà khung gỗ, tre mới đợc dựng trong
vài chục năm gần đây. Những ngôi nhà này về cơ bản vẫn bảo lu những kỹ thuật
và mang hình ảnh của những ngôi nhà cổ truyền ngày trớc.
Đa số các ngôi nhà này đều có mặt bằng sinh hoạt giống nhau. Ngôi nhà
thờng làm ba gian hai trái hoặc ba gian chính và hai gian hồi. Gian giữa dùng để
thờ cúng (phần trong) và để tiếp khách (phần ngoài), hai gian bên để nghỉ ngơi
hoặc dùng để học tập, làm việc. Hai gian đầu hồi dùng để chứa đồ (lúa gạo và
những đồ dùng gia đình). Nhà bếp và công trình phụ làm bên cạnh, vuông góc với
nhà chính và cách nhau vách ngăn, thờng đợc gọi là nhà ngang [22.377-378].
Khuôn viên nhà đợc đặt trong một không gian rộng, phía mặt tiền ngôi nhà là một
khoảnh sân, ba phía còn lại là vờn, bao quanh là một hàng rào sơ sài bằng một
hàng cây hay chỉ dấp một vài cành tre. Nhà xí thờng đợc đặt riêng ở một góc vờn,
cách khá xa nhà ở và nhà bếp. Những nhà làm nghề nông thì đằng sau bếp có làm

một "khu chăn nuôi" gồm chuồng trâu, chuồng bò, chuồng lợn, gà... Còn với
những nhà làm nghề dệt thì thờng làm một căn nhà ngang rộng rãi hoặc là làm
một xởng riêng ở cạnh nhà để đặt khung dệt.
Cổng vào nhà thờng đợc đặt lệch với cửa nhà. Ngời xa thờng tránh không
bao giờ làm cổng ngõ lại để con đờng soi thẳng vào nhà. Nếu vị trí ngôi nhà bắt
buộc phải trông thẳng ra con đờng, chủ nhà sẽ dùng bình phong để ngăn những
con mắt tò mò không thể nhìn thẳng vào căn nhà đợc. Bình phong là đồ vật để che
gió, nhng ở đây đợc sử dụng để ngăn cách nhà với bên ngoài [31.106].
Hiện nay đời sống của c dân Mã Châu khá hơn, nhà ở thờng làm nhà xây
lợp ngói hoặc nhà mái bằng đợc xây dựng theo nhiều kiểu thức kiến trúc khác
nhau, tuy nhiên cách sử dụng nhìn chung là ít thay đổi. Với nhà một tầng, gian
giữa vẫn để bàn thờ tổ tiên và tiếp khách. Với nhà hai, ba tầng thì bàn thờ đợc đặt
trên gác và có riêng một gian ngoài để tiếp khách, có buồng riêng để sinh hoạt.
Nhà ngang ở bên dới đợc xây dựng làm bếp hoặc xởng dệt. Công trình phụ đợc
quy hoạch, hố xí tự hoại đợc làm ngay ở sau bếp.
Nhà cửa ở đây đợc xây dựng với quy mô vừa phải, không gian sinh hoạt
trong nhà đủ dùng chứ không làm nhiều gian rồi bỏ không (tâm lý đói không
gian) nh ở các làng xã ở đồng bằng châu thổ Bắc Bộ.
Mã Châu nằm trong vùng đất phù sa mới đợc bồi đắp của hai con sông
Thu Bồn và Bà Rén, địa hình khá lầy lội nhiều sông hồ nên "đi ghe thuyền tiện
hơn đi chân"[8], giao thông đờng thuỷ phát triển với hệ thống ghe bàu đi sông, đi
biển
1
, mà hiện nay vẫn có thể thấy ở ven sông Thu Bồn.
Thơng nghiệp ở đây rất phát triển do đờng sông thuận lợi cho việc giao l-
u buôn bán với Chiêm cảng Hội An và cử Hàn (Touran - Đà Nẵng). Đồng thời Mã
Châu nằm trong vùng có nghề thủ công nghiệp trồng dâu nuôi tằm, ơm tơ dệt lụa
nổi tiếng ở ven hai bờ sông Thu Bồn và Bà Rén từ Thi Lai - Duy Trinh đến Long
Châu - Duy Vinh. Nhờ những điều kiện đó mà vùng này có sự giao thơng buôn
bán rất nhộn nhịp với nhiều chợ và bến sông nh: Chợ Dõ, Bến đò Tơ ở Mã Châu;

Chợ và bến đò Thi Lai - Duy Trinh; Chợ Trà Kiệu... đã đợc nhắc đến từ lâu trong
lịch sử [5].[19].
Từ Hội An có thể đi theo hai đờng để đến vùng này buôn bán là đi ngợc
sông Thu Bồn lên; hoặc là đi vào sông Trờng Giang rồi theo sông Bà Rén đi ngợc
lên đến Trà Kiệu. Những thế kỷ trớc, khi sông Bà Rén cha bị phù sa bồi lấp làm
cạn nh ngày nay thì khi mùa lũ đến, ngòi ta thờng đi theo sông Bà Rén. Vì vào
mùa lũ, sông này chảy "hiền" hơn sông Thu Bồn; còn mùa cạn thì đi theo sông
Thu Bồn ngợc lên buôn bán.
Trớc đây, nối liền sông Hàn và sông Thu Bồn là sông Vĩnh Điện (GS
Trần Quốc Vợng đã tìm ra vết tích cũ của nó). Đó là "một dòng sông chạy vòng
vèo dọc bờ biển, nối cửa Hàn với Hội An, dân gian xứ Quảng đến nay vẫn gọi là
sông Cổ Cò, nay đã bị lấp nhiều, chỉ còn từng đoạn mà trên từng đoạn ấy (nhất
là phía gần Hội An) vẫn có thể đi thuyền đợc"[24.16]. Sông Câu Nhí - Vĩnh Điện
vốn là một dòng sông tự nhiên nối sông Thu Bồn với sông Cẩm Lệ để mở ra cửa
Hàn. Theo Quảng Nam nhất thống chí (tỉnh Quảng Nam) thì: "sông ấy khuất
khúc, lâu ngày bị bồi lấp, năm Minh Mạng thứ ba (1824)... khai nhân sông cũ
mà đào từ xã Câu Nhi đến xã Cẩm Sa (thôn Cu Đê)". Phần sông Cổ Cò nối với
sông Thu Bồn ở ngay gần cầu Câu Lâu (nơi sông Thu Bồn cắt ngang đờng Quốc
1 "Hệ ghe bàu là một đặc trng văn hoá của xứ Quảng. Từ Bắc đèo Hải Vân trở ra Bắc không
có ghe bàu đi biển mà chỉ có thuyền cận duyên thon dài (trừ Sầm Sơn có hệ thống mảng đặc
trng). Từ nguồn gốc tên gọi (bàu - Prau perahu), có thể dễ dàng thấy ghe bầu có nguồn gốc
Chăm.Melayu" [22.36].

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×