Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

SKKN: Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy môn GDCD 10 ở trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.01 KB, 21 trang )

A­ MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn 
hiện nay. Nhằm tạo ra thế hệ học sinh năng động, sáng tạo, tự tin, có đủ năng 
lực, thuần thục kỹ  năng làm việc, đáp  ứng yêu cầu nguồn nhân lực của thị 
trường, ngành giáo dục đã triển khai bồi dưỡng giáo viên các phương pháp  
dạy   học   hiện   đại   gắn   với   kỹ   thuật   dạy   học   tích   cực.   Một   trong   những 
phương pháp đã và đang phát huy hiệu quả  trong dạy học là phương pháp 
thảo luận nhóm.
Phương pháp thảo luận nhóm có nhiều  ưu thế  trong dạy học, nhất là 
đối tượng học sinh bậc trung học phổ  thông. Phương pháp này vừa có tác 
dụng khai thác tối  ưu các phương pháp dạy học truyền thống, vừa phát huy 
các phương pháp dạy học hiện đại và đặc biệt là tận dụng mọi khả năng của  
kỹ thuật dạy học tích cực hiện nay. Góp phần làm cho tiết học sinh động, vui  
vẻ, nhẹ  nhàng, tất cả  học sinh đều làm việc. Thảo luận nhóm tạo ra mối 
quan hệ  tương tác đồng thuận giữa thầy và trò, rèn cho các em kỹ  năng hợp  
tác tập thể, hỗ trợ nhau giữa các thành viên trong việc tìm hiểu kiến thức. Ưu  
thế  nổi trội của thảo luận nhóm là vừa phát huy hiệu quả  vai trò trí tuệ  tập  
thể, vừa khẳng định được vị trí của cá nhân. Trong suốt quá trình học tập một  
năm, ít nhất học sinh được làm trưởng nhóm để  tổ  chức thảo luận và trình  
bày kết quả trước lớp một lần. Cho nên, vị  trí của cá nhân được đề  cao trên  
cơ sở vai trò của cá nhân đó trong nhóm. Sự liên kết đặc biệt này tạo ra được 
sự đoàn kết, thấu hiểu, hỗ trợ nhau trong học tập. Vì thế, thảo luận nhóm còn 
được gọi là hình thức dạy học phân hóa nhằm tích cực hóa quá trình học tập  
của học sinh.
Thảo luận nhóm được sử dụng rộng rãi và phát huy hiệu quả trong dạy  
học ở các trường trung học phổ thông. Lứa tuổi học sinh trung học phổ thông 
đang nằm  ở pha có nhiều biến động, tâm lý thích khám phá, không muốn sự 
áp đặt từ người khác mà phải tự mình tìm tòi, sáng tạo. Các em vừa muốn hòa  
mình vào tập thể  để  học tập lẫn nhau, vừa muốn khẳng định khả  năng của  
mình trước bạn bè. Điều này hoàn toàn   phù hợp với yêu cầu của các hình  


thức thảo luận nhóm với các kỹ thuật dạy học hiện đại. Cho nên, khi áp dụng 
thảo luận nhóm được đa số học sinh hưởng ứng với thái độ tích cực, hợp tác 
chặt chẽ.
­ 1 ­


Bộ  môn GDCD lớp 10  ở  trường trung học phổ  thông là một môn học 
vừa khô, vừa dài, vừa khó bởi tính trừu tượng, khái quát hóa cao, đòi hỏi vừa 
phải có óc tượng tượng, vừa phải có vốn hiểu biết chung, vốn sống phong  
phú. Môn học này chỉ  được phát huy hiệu quả  khi áp dụng hình thức thảo 
luận nhóm. Ở đó, học sinh sống với chính cuộc sống thật của mình để từ  đó 
rút ra kiến thức lý luận chung và soi rọi vào cuộc sống để  hình thành quan  
điểm, thái độ đúng.
Trong thực tế, việc áp dụng phương pháp này còn nhiều khó khăn cả 
về nhận thức, cách thức đến điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, tổ chức  
thực hiện. Khi áp dụng, giáo viên GDCD còn tỏ  ra lúng túng cả  trong hình 
thức phân nhóm, chọn lựa câu hỏi đến tổ  chức thảo luận. Trong khi đó, môn 
học vốn đã khó, học sinh đã ngại học lại càng làm cho các em xa rời môn học  
hơn.
Qua thực tiễn vận dụng thảo luận nhóm, bước đầu tôi đã đúc kết được  
một số kinh nghiệm về “Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong giảng 
dạy môn GDCD10 ở trung học phổ thông” để cùng trao đổi với đồng nghiệp. 
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
­ Làm rõ cơ sở lý luận của thảo luận nhóm trong giảng dạy GDCD.
­ Những thuận lợi, khó khăn trong vận dụng thảo luận nhóm để  giảng 
dạy GDCD ở trường trung học phổ thông Ba Đình hiện nay.
­ Đề  xuất các giải pháp khoa học cho việc vận dụng thảo luận nhóm 
trong giảng dạy môn GDCD lớp 10 ở trường trung học phổ thông.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
         Cách vận dụng thảo luận nhóm trong giảng dạy môn GDCD lớp 10  ở 

trường THPT Ba Đình từ năm học 2013­ 2014 đến năm học 2014­ 2015
4. Phương pháp thực hiện sáng kiến 
     Để thực hiện đề tài, tác giả sử dụng hệ thống các phương pháp: phân tích, 
tổng hợp, so sánh, lịch sử và logic, thống kê, điều tra xã hội học…
5. Kết cấu của đề  tài: Ngoài phần mở  đầu, kết luận, nội dung của đề  tài 
được triển khai 4 mục:
    1. Một số vấn đề lý luận chung
           2. Những thuận lợi, khó khăn khi áp dụng phương pháp thảo luận nhóm  
trong giảng dạy môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Ba Đình
     3. Biện pháp thực hiện thảo luận nhóm trong giảng dạy môn GDCD lớp  
10 ở trường THPT Ba Đình
­ 2 ­


4. Kết quả thực nghiệm

­ 3 ­


II­ NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận chung
1.1. Phương pháp và phương pháp thảo luận nhóm
       Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, phương pháp là cách thức, quy trình, 
biện pháp tiến hành để  đạt được mục tiêu đề  ra. Phương pháp chính là hình 
thức vận động của sự vật nhằm làm cho nội dung của sự vật biến đổi. Theo 
quan điểm của triết học Mác ­ Lê nin, sự  biến đổi của hình thức sự  vật đến 
một giới hạn nhất định thì làm biến đổi nội dung của sự  vật.    Phương pháp 
dạy học (PPDH) là một   hệ  thống những hành động có mục đích của giáo  
viên nhằm tổ chức hoạt động nhận thức và thực hành của học sinh, đảm bảo  
học sinh lĩnh hội nội dung bài học.  

Trong lý luận dạy học, có rất nhiều phương pháp, trong đó có thể có 2 hệ 
thống phương pháp: truyền thống và hiện đại. Phương pháp dạy học truyền  
thống như: trực quan, thuyết trình, đàm thoại; phương pháp dạy học hiện đại 
như: vấn đáp tìm tòi, nêu vấn đề, thảo luận nhóm, theo dự án.
Trong mỗi giờ  dạy học, không bao giờ  giáo viên sử  dụng một phương 
pháp chuyên biệt mà phải sử  dụng tổng hợp nhiều phương pháp, trong đó 
phương pháp xuyên suốt là trực quan ( viết bảng, tranh  ảnh, sách giáo khoa, 
các bài viết mẫu, các ví dụ  mẫu, mô hình, thí nghiệm…), thuyết trình ( lời 
nói), hành vi cử chỉ, điệu bộ và tùy mỗi bài, mỗi chương, mỗi mục để có thể 
chọn lựa một phương pháp đặc trưng như  nêu vấn đề, thảo luận nhóm. Tất 
nhiên, khi sử dụng các phương pháp, giáo viên nào cũng cố gắng khai thác tính 
ưu việt của mỗi phương pháp cho phù hợp đặc thù mỗi đơn vị  kiến thức và  
đối tượng học sinh. Hiệu quả của việc sử  dụng các phương pháp tùy thuộc  
vào kỹ  năng và kinh nghiệm của mỗi giáo viên. Để  nâng cao hiệu quả  sử 
dụng các phương pháp dạy học, cần phải chú tâm sử  dụng các kỹ  thuật dạy 
học như kỹ  thuật động não không công khai, kỹ thuật bể cá, kỹ  thuật mảnh  
ghép, kỹ thuật khăn phủ bàn, kỹ thuật sơ đồ tư duy…
Phương pháp thảo luận nhóm là tổ chức cho học sinh bàn bạc, trao đổi 
trong nhóm nhỏ. Thảo luận nhóm được sử  dụng rộng rãi nhằm giúp cho mọi 
học sinh tham gia một cách chủ  động vào quá trình học tập, tạo cơ  hội cho  
học sinh có thể chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, ý kiến để giải quyết một vấn 
đề có liên quan đến nội dung bài học. 

­ 4 ­


Phương pháp thảo luận nhóm được sử  dụng rộng rãi trong giảng dạy  
hiện nay. Bởi vì chương trình sách giáo khoa hiện nay của bộ môn GDCD hầu 
như   kiến   thức   đã   cập   nhật   khá   đầy   đủ,   toàn   diện.   Vì   vậy,   cần   phải   có  
phương pháp tổ chức dạy học phù hợp để cuốn hút học sinh, phát huy vai trò 

chủ động, tích cực trong tìm hiểu, khai thác kiến thức của các em. Mặt khác, 
thực hiện thảo luận nhóm có tác dụng rèn luyện kỹ năng làm việc tập thể, kỹ 
năng tư duy độc lập sáng tạo và kỹ năng tự học, tự nghiên cứu.
1.2. Vai trò của phương pháp thảo luận nhóm 
Phương pháp thảo luận nhóm được hình thành từ  những thập niên 90 
của thế  kỷ  trước và được sử  dụng phổ  biến từ  năm học 2006 – 2007 trong 
các trường phổ  thông. Qua thực tiễn, thảo luận nhóm xuất phát từ  yêu cầu  
phát triển các năng lực của nguồn nhân lực, nhất là rèn luyện các kỹ năng cá 
nhân. Yêu cầu của phát triển kinh tế đòi hỏi năng lực cá nhân và mối liên hệ 
hợp tác giữa các cá nhân trong dây chuyền phát triển. Do đó, ngay từ  nhà 
trường, cá nhân phải hình thành được các năng lực tương tác. 
Học tập là quá trình cá nhân tự tìm ra kiến thức cho mình. Đó là những  
kiến thức thông qua tương tác với các cá nhân khác, với xã hội và thực tiễn  
mà có. Từ quan niệm về học, quan niệm về hoạt động dạy và phương pháp 
dạy học cũng thay đổi. Hoạt động dạy là hoạt động của giáo viên nhằm tổ 
chức và hướng dẫn hoạt động học của người học để họ tự khám phá và thực 
hiện nhiệm vụ học tập. Học tập chịu sự tác động của các tác nhân nhận thức, 
xã hội, văn hoá, liên nhân cách. Do vậy, dạy học phải tổ chức các dạng như 
tác động đa dạng cho học sinh tham gia, phải tạo ra các hoạt động dạy học đa  
dạng như  tác động nhận thức cá nhân như  tự  phát hiện, tìm tòi, tự  lĩnh hội; 
tác động xã hội, văn hoá như  gắn việc học với hoàn cảnh cụ  thể, với bối 
cảnh văn hoá và xã hội, thời đại; phải tạo ra các tác động tâm lí: sự  hợp tác, 
gắn kết, chia sẽ trách nhiệm và lợi ích. 
Trong số  các phương pháp dạy học đang sử  dụng, phương pháp dạy  
học thảo luận nhóm có nhiều ưu thế trong thực hiện mục tiêu giáo dục hiện 
nay, tránh được lối học thụ động trên lớp, giáo viên thường đưa ra nhiều biện 
pháp để kích thích khả năng tư duy và sáng tạo của học sinh.  Có thể nói, mô  
hình thảo luận nhóm sẽ giúp cho học sinh cố gắng tìm hiểu và phát biểu trong  
nhóm của mình để  trình bày cho cả  lớp, đồng thời tinh thần hợp tác trong 
nhóm sẽ  được phát huy và hỗ  trợ  lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm. 

Như  thế, khi một vấn đề  được đem ra thảo luận trách nhiệm nghiên cứu và 
tìm hiểu vấn đề  sẽ  được thông qua trong nhóm và dù cho vấn đề  được giải 
­ 5 ­


quyết đúng hay sai trước khi có nhận xét của nhóm khác và sau cùng là của 
thầy cô, vấn đề đó đương nhiên đã tạo sự  chú ý và cố  gắng tìm hiểu ở  mỗi  
thành viên và việc học tập do vậy sẽ  tích cực hơn. Do đó, việc học tập sẽ 
mang lại kết quả tốt hơn, tránh được học sinh chỉ biết ngồi nghe thầy cô một  
cách thụ động và đương nhiên trong trường hợp như thế kết quả học tập sẽ 
không mang lại như ý muốn. Khi nhóm thảo luận hoạt động dưới sự giám sát  
của thầy cô giáo, những thói quen xấu như nói chuyện riêng, thiếu tập trung,  
đùa giỡn…sẽ  bị  hạn chế  tối đa. Động lực trong nhóm sẽ  được phát huy và 
những động lực tiềm tàng nơi mỗi cá nhân có môi trường được bộc lộ. 
Trong khi thảo luận nhóm, việc giao lưu giữa các học sinh đương nhiên 
diễn ra. Thông thường thì trong một nhóm sẽ  có những học sinh khá hơn 
những học sinh còn lại. Đây cũng chính là cơ hội để cho học sinh học tập lẫn 
nhau (học thầy không tày học bạn) và khi được thầy cô tổng kết giải đáp học 
sinh sẽ hiểu bài hơn, nhớ lâu hơn và vì vậy việc học tập mang lại kết quả tốt  
hơn. Như vậy, phương pháp thảo luận nhóm một mặt vừa chú trọng phát huy 
tính tích cực cao, tính chủ động của học sinh; mặt khác lại chú trọng sự phối  
hợp, hợp tác cao giữa các học sinh trong quá trình học tập, cần kết hợp năng 
lực cạnh tranh và năng lực hợp tác  ở  học sinh. Để  sử  dụng có hiệu quả 
phương pháp thảo luận nhóm, giáo viên cần phải chú trọng xây dựng trách 
nhiệm cá nhân và trách nhiệm nhóm, xây dựng vị thế của mỗi học sinh trong  
nhóm và trong lớp, hình thành khả năng làm việc nhóm cho học sinh. 
1.3. Thực tiễn khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy  
môn GDCD lớp 10 ở trường THPT
1.3.1. Đặc điểm tâm lý, nhận thức của học sinh lớp 10
Học sinh lớp 10 THPT  ở  lứa tuổi 15­16. Đây là độ  tuổi đang  ở  giai  

đoạn dậy thì, giai đoạn phát triển mạnh cả về  tâm lý và sinh lý. Các em say  
mê học tập, hứng thú tìm hiểu xung quanh để tự khẳng định mình. Đa số các  
em tiếp thu nhanh, sáng tạo, khả  năng vận dụng kiến thức bài học vào giải 
quyết các dạng bài tập tốt. Song vốn sống, vốn kinh nghiệm thực tiễn còn 
quá ít. Khả  năng tư  duy khái quát hóa của các em còn rất hạn chế. Các em  
chưa biết cách tự  học, tự  nghiên cứu, tự  tìm tòi, chưa có phương pháp tiếp 
cận những vấn đề mới, nhất là vấn đề lý luận. 
1.3.2. Đặc trưng của bộ môn GDCD lớp 10 bậc THPT
Môn GDCD lớp 10 bậc THPT quy định có 2 phần: Phần 1 Công dân với 
việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học. Phần 2: Công dân 
với đạo đức. Thời lượng giảng dạy là 35 tiết, học kỳ I là 18 tiết và học kỳ II  
­ 6 ­


là 17 tiết. Mỗi học kỳ thực hiện 1 phần. Môn GDCD lớp 10 trang bị cho học  
sinh kiến thức triết học, đạo đức dưới dạng khái lược. Thể  hiện nguyên lý 
cơ  bản của chủ  nghĩa Mác­Lênin về  chủ  nghĩa duy vật biện chứng và chủ 
nghĩa duy vật lịch sử, về quan niệm các chuẩn mực đạo đức tiến bộ của dân 
tộc. Vì vậy, kiến thức rất trừu tượng, mang tính khái quát hóa cao. Đòi hỏi 
các   em   nắm   vững   kiến   thức   bộ   môn,   hiểu   sâu   sắc   bản   chất   của   những 
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử, các quan niệm  
đạo đức. Từ đó, vận dụng vào thực tiễn cuộc sống sinh động để phân tích, so  
sánh, đối chứng và đánh giá đúng bản chất, quy luật của các hiện tượng cuộc  
sống xung quanh. Để làm được điều đó, kiến thức các bộ môn khoa học trong  
nhà trường là rất quan trọng, là phông nền để  hiểu biết sâu sắc kiến thức 
môn GDCD. Vì vậy, trong giảng dạy GDCD phải truyền thụ  kiến thức cho  
các em đi từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, từ cụ thể, sinh động đến 
tư duy trừu tượng. 
Để giảng dạy GDCD lớp 10 hiệu quả đòi hỏi người dạy phải chuẩn bị 
công phu, phương pháp linh hoạt, có vốn sống phong phú, hiểu biết xã hội 

rộng, kinh nghiệm tích lũy trong giảng dạy phải nhiều. Người dạy phải biết 
gắn kiến thức lý luận với thực tế, đi từ  thực tế  để  rút ra kiến thức lý luận. 
Phải tổ chức các hình thức dạy học phong phú, sử dụng rộng rãi các kỹ thuật 
dạy học hiện đại nhằm phân hóa học sinh.
1.4 Các bước tiến hành thảo luận nhóm
Có 4 bước tiến hành thảo luận nhóm:
Bước 1: Sau khi chia nhóm, giáo viên giới thiệu nội dung và cung cấp  
thông tin,định hướng cho việc thảo luận và đề  ra nhiệm vụ  cụ  thể  cho các  
nhóm.
Bước 2: Thảo luận nhóm: từng nhóm ngồi từng cụm với nhau để  dễ 
dàng trao đổi ý kiến, giáo viên dẽ  dàng quan sát, động viên hoặc gợi ý nếu 
cấn trong khi cả  nhóm đang thảo luận. Nhóm trưởng có nhiệm vụ  thu thập 
các ý kiến trong nhóm để báo cáo trước lớp.
Bước 3: Thảo luận lớp: các nhóm báo cáo trước lớp, nếu cần các nhóm 
có thể thảo luận với nhau  để đi đến kết luận.
Bước 4: Giáo viên tổng kết và khái quát kết quả bài học.
2. Những thuận lợi, khó khăn khi áp dụng phương pháp thảo luận nhóm 
trong giảng dạy môn GDCD lớp 10 ở trường THPT Ba Đình
2.1. Thuận lợi 
­ 7 ­


Các em học sinh đã làm quen với phương pháp thảo luận nhóm  ở  các 
môn học và các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở bậc THCS. Đây thực 
chất là hoạt động trao đổi bài, thể  hiện ý chí cá nhân trong giờ  học được tổ 
chức có mục đích. Thông qua hoạt động nhóm các em thi đua bọc lộ, thể hiện 
hiểu biết của mình trước các bạn trong nhóm. Phương pháp thảo luận nhóm 
góp phần làm cho giờ học sinh động, gây hứng thú, kích thích tư duy, tính tích 
cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Phương pháp này phù hợp với chương  
trình môn Giáo dục Công dân lớp 10.

Giáo viên các nhà trường nói chung, giáo viên GDCD nói riêng đã được 
tập huấn nhiều đợt về  đổi mới phương pháp dạy học và kỹ  thuật dạy học 
hiện đại. Các nhà trường trên cơ sở đó đã triển khai đồng bộ cho giáo viên và  
tổ  chức thực nghiệm trong các giờ  học, trong các đợt thao giảng, hội giảng  
của các môn học. Vì vậy, giáo viên đã quen thuộc với thảo luận nhóm. Đối  
với trường THPT Ba Đình, giáo viên GDCD có thuận lợi là phong trào soạn  
giảng theo tinh thần đổi mới phương pháp được triển khai sâu rộng. Nhà 
trường có đủ cơ sở vật chất như máy tính, máy chiếu đa năng, phòng học bộ 
môn, các phương tiện dạy học hiện đại trang cấp khá đầy đủ cho các lớp. Do 
đó, giáo viên có nhiều thuận lợi trong việc tổ chức thảo luận nhóm cho học 
sinh.
2.2. Khó khăn 
Nội dung môn GDCD 10 có nhiều vấn đề  mới, trừu tượng, khô, khó, 
dài. Năng lực học tập của học sinh trong 1 lớp không đồng đều. Việc soạn  
giảng đòi hỏi mất nhiều thời gian, chuẩn bị nhiều thiết bị. Tâm lý học sinh 
ngại học môn GDCD. Vì lý do đó, giáo viên không hứng thú khi vận dụng 
phương pháp này trong giảng dạy.
Về  công tác tổ  chức lớp học: Các giờ  học chủ  yếu thảo luận theo 1  
hình thức đơn điệu là phân nhóm theo tổ, chưa chú ý đến các đối tượng khác  
như  sở  thích, năng lực, giới tính, nhóm bàn hay địa bàn sinh sống. Phân công 
tổ  trưởng, người đại diện trình bày kết quả  thảo luận thường chỉ  chú trọng 
đến 1 vài em có năng lực học khá mà ít để các em tự bình bầu hay cử đại diện  
hoặc thực hiện luân phiên. Lâu dần, các em khác không đủ tự tin để trình bày 
hay nhận xét. 
Về  hình thức tổ  chức thảo luận: Lâu nay, các giờ  học chủ  yếu có 2  
hình thức hoặc là tất cả  các nhóm cùng thảo luận 1 nội dung, 1 nhóm trình 
bày và các nhóm khác nhận xét hoặc là mỗi nhóm 1 nội dung thảo luận. Thời  
gian giành cho thảo luận chỉ từ  1­2 phút. Khi đặt ra yêu cầu thảo luận, giáo  
­ 8 ­



viên hầu như không hướng dẫn cách thảo luận mà cứ tung vấn đề  ra và học 
sinh tiến hành. Hơn nữa, vì nội dung câu hỏi này trong các giờ học trước, giáo  
viên chưa nêu ra, do đó, trong khoảng thời gian rất ngắn, học sinh chưa nhận  
thức được kiến thức cần tìm hiểu.
Về  phạm vi và mức độ  kiến thức cần tìm hiểu: Các giờ  học có sử 
dụng thảo luận nhóm chỉ  mới dừng lại  ở  mức độ  yêu cầu học sinh tái hiện 
kiến thức mang tính hàn lâm trong sách giáo khoa mà ít chú ý đến ý thức, thái 
độ, khả năng vận dụng kiến thức của học sinh vào đánh giá, nhận xét các tình  
huống trong thực tiễn cuộc sống. Do đó, học sinh cảm thấy học bộ  môn xa  
rời cuộc sống, không thấy được mối liên hệ, tác dụng của học triết học, đạo 
đức đối với định hướng trong cuộc sống con người. Đây là phần khó trong  
chương trình vì học sinh thiếu sự  trải nghiệm, thiếu sự  chủ  động và do đó 
giáo viên tỏ ra ngại khi thực hiện phần này.
Về  câu hỏi thảo luận: Hệ thống câu hỏi chuẩn bị  cho thảo luận chưa 
phân định các mức độ  dễ, trung bình, khó, rất khó để  phù hợp với năng lực  
của từng nhóm và từng lớp  ở  các trình độ  tương  ứng của mỗi lớp. Do vậy,  
khi thảo luận, có lớp trình bày rất tốt song có lớp không đáp  ứng được yêu  
cầu.  
3. Biện pháp thực hiện thảo luận nhóm trong giảng dạy môn GDCD lớp 
10 ở trường THPT Ba Đình
3.1. Tìm hiểu học sinh, phân nhóm lớp
Đầu năm học, giáo viên bộ  môn cần tìm hiểu học sinh về: số  lượng 
học sinh, giới tính, địa bàn sinh sống, năng lực học tập bộ môn, hiểu biết xã 
hội, tính cách, vị trí chỗ  ngồi, cán bộ  lớp, chi hội thanh niên, cán sự  bộ  môn,  
tổ trưởng tổ phó, sở thích nhóm cá nhân….Trên cơ sở tìm hiểu để phân nhóm 
sao cho số  thành viên các nhóm tương đối đều nhau. Thông thường, với lớp  
45 học sinh thì mỗi tổ  có thể  từ  10­11 em. Theo Điều lệ, mỗi tổ  có 1 tổ 
trưởng và 1 đến 2 tổ phó.  Căn cứ phân nhóm: 
            + Theo tổ của lớp: thành 4 nhóm, nhóm trưởng vừa là người tổ chức  

cho nhóm thảo luận, vừa là người đại diện trình bày và điểm của tổ  được 
tính cho nhóm trưởng. Vì vậy, nhóm trưởng thực hiện luân phiên để có điểm  
kiểm tra miệng trong sổ ghi đầu bài.
           + Theo dãy bàn: Mỗi lớp có 2 dãy bàn dọc theo lớp, mỗi dãy có 6 bàn,  
mỗi bàn có 3­ 4 học sinh. Vì vậy, có thể chia thành 4 nhóm hoặc 2 nhóm. Nếu  
4 nhóm thì cứ 3 bàn liền nhau là 1 nhóm, nếu 2 nhóm thì mỗi dãy bàn dọc theo 
­ 9 ­


lớp là 1 nhóm. Nhóm trưởng do các nhóm đề  xuất căn cứ điểm số  mà người  
đó chưa đạt ở các kỳ thảo luận trước.
          + Theo giới tính: Nếu lớp có số  nam, nữ tương đương thì có thể  chia  
thành nhóm nam và nữ, nếu số  nam nữ  quá chênh lệch thì không thực hiện  
được tiêu chí này
         + Theo năng lực:  Nhóm năng lực thấp, trung bình, cao hoặc phân nhóm  
năng lực ở dạng  thông hiểu, vận dụng, tổng hợp nhận xét, đánh giá.
         + Theo sở thích: Có thể bằng câu hỏi trắc nghiệm dưới dạng đúng sai,  
trả  lời ngắn hoặc bày tỏ  quan điểm cá nhân trước một tình huống cụ  thể,  
giáo viên có thể phân thành các nhóm sở  thích khác nhau như: nhóm sở  thích  
tại sao?, nhóm sở thích như  thế nào? Nhóm sở thích ý nghĩa tác dụng? Nhóm  
sở thích trách nhiệm của tôi và chúng ta?....Đặc trưng của nhóm sở thích “tại 
sao” chính là việc làm rõ nguyên nhân, “như  thế  nào” là quá trình diễn biến,  
“ý nghĩa tác dụng” là nêu vai trò và “trách nhiệm của tôi, chúng ta” là nêu trách 
nhiệm của mỗi người trước mục tiêu, nhiệm vụ mà bài học đặt ra. Đây là quá  
trình thống nhất trong toàn bộ nội dung bài học.
         + Theo nhóm địa bàn sinh sống: Nga Sơn có 3 vùng: vùng đồng chiêm  
trũng, vùng đồng màu và vùng cói. Tùy theo số  học sinh cụ  thể  mỗi vùng  
trong lớp để  phân nhóm phù hợp. Vùng chiêm trũng gồm các xã Nga Thắng, 
Ba Đình, Nga Vịnh, Nga Trường, Nga Lĩnh, Nga Thiện, Nga Thạch; vùng cây 
màu là các xã Nga Yên, Nga Mỹ, Thị  Trấn, Nga Hải, Nga Trung, Nga Hưng,  

Nga Nhân, Nga An, Nga Thành; vùng cói và biển gồm: Nga Thủy, Nga Thanh,  
Nga Liên, Nga Tân, Nga Bạch, Nga Điền, Nga Tiến, Nga Thái, Nga Phú. Đặc  
trưng của học sinh vùng cói là đại đa số  theo đạo Thiên chúa, do đó tâm lý 
học sinh hướng thiện, tin tưởng vào các giá trị chuẩn mực con người và xem  
đó là biểu tượng thiêng liêng. Học sinh vùng màu chịu ảnh hưởng nhiều của  
triết lý phật giáo, coi trọng tôn ti trật tự, phép tắc chuẩn mực của gia đình. 
Học sinh vùng chiêm trũng giao thoa giữa văn hóa tôn giáo đạo Phật với đạo  
Thiên Chúa và một phần là ý chí của khởi nghĩa Ba Đình. Phân chia nhóm này 
rất có ý nghĩa khi dạy phần công dân với đạo đức.
Việc phân nhóm là cần thiết và tùy vào mỗi bài để chọn nhóm cho phù 
hợp. Khi tổ  chức nhóm rất cần linh hoạt trong 1 tiết và giữa các tiết nhằm  
tạo ra không khí sinh động cho bài học, tạo không gian mở  để  phát huy hiệu  
quả  năng lực sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên, trong 1 tiết nên chọn 1 hoặc  
cùng lắm là 2 hoạt động nhóm là vừa, không nên quá lạm dụng vào hình thức 
này.
­ 10 ­


Việc phân nhóm để thảo luận chính là một hình thức của dạy học phân 
hóa mà các nhà trường đã và đang thực hiện. Thực hiện điều này sẽ  tạo ra 
mối quan hệ tương tác hợp lý, hiệu quả, phát huy tối đa năng lực, sở  trường  
của từng học sinh trong việc khai thác kiến thức bài học và cũng phát huy  
khối đoàn kết nhất trí trong tập thể. Điều này cũng tạo ra sản phẩm giáo dục  
đa dạng, phù hợp yêu cầu của lao động sản xuất và nhân cách công dân trong  
xã hội. 
3.2. Chuẩn bị đồ dùng, phương tiện để lên lớp
Đồ dùng cho các nhóm thảo luận gồm:
­ Tranh ảnh, mô hình, mẫu vật
­ Bút lông, thước kẻ, compa, giấy A0­A3, nam châm hút bảng từ  để  treo 
tranh.

­ Máy tính để trình chiếu các đoạn video, tranh ảnh mô phỏng
­ Sách giáo khoa, phấn mầu và các phương tiện khác
Các đồ  dùng và phương tiện một phần do giáo viên chuẩn bị, một phần  
giao cho các nhóm tự  chuẩn bị. Trước khi đến tiết thảo luận, giáo viên phải 
yêu cầu học sinh chuẩn bị phương tiện và các nội dung liên quan đến câu hỏi 
để học sinh chuẩn bị trước. Chỉ khi nào có đủ  các điều kiện nêu trên thì mới  
có khả năng tổ chức thảo luận thành công.
Phương tiện để thảo luận giáo viên có thể đăng ký với bộ phận phụ trách  
thiết bị để mượn trước.
3.3. Soạn giáo án trước khi lên lớp
Khi soạn giáo án phải xác định những vấn đề sau đây:
­ Mục tiêu của hoạt động nhóm? 
­ Chia nhóm theo hình thức nào? 
­ Câu hỏi thảo luận cho các nhóm
­ Thiết bị cần dùng cho mỗi nhóm
­ Dự kiến tình huống xảy ra và cách giải quyết. 
­ Học sinh phải chuẩn bò những gì? 
­ Soạn giáo án cho phù hợp với việc thảo luận nhóm.
 ­ Chuẩn bị những phương án dự phòng…
3.4. Tổ chức thực hiện 
3.4.1. Chia nhóm theo tổ của lớp
­ Đến phần thảo luận nhóm, giáo viên chia nhóm theo đơn vị tổ. 

­ 11 ­


­ Mỗi nhóm dồn về 2 dãy bàn và cùng hướng về nhau và nhóm trưởng bao  
giờ cũng ngồi giữa để hướng dẫn và tập trung các ý kiến
­ Giao câu hỏi cho nhóm. Câu hỏi có thể  được trình chiếu trên màn chiếu  
hoặc in vào giấy A4 giao cho các nhóm. Các nhóm cùng thảo luận một vấn đề 

nhưng nhiệm vụ của mỗi nhóm là khác nhau
­ Hướng dẫn cách thảo luận và phương án trình bày. Các nhóm thảo luận
­ Lần lượt các nhóm trình bày kết quả thảo luận
­ Giáo viên nhận xét  ưu điểm, hạn chế  về: Nội dung câu trả  lời, kỹ  năng 
trình bày, đánh giá kết quả  của các nhóm, cho điểm các nhóm. Điểm tối đa  
của câu trả  lời là điểm 10 và giành riêng cho 1 học sinh. Học sinh nào trình 
bày thì cho điểm học sinh đó. Lần thảo luận sau giành quyền trả lời cho học 
sinh khác.
* Ví dụ: Tiết 8­ Bài 5 GDCD 10: Cách thức vận động, phát triển của sự 
vật
Sau khi làm rõ khái niệm chất, lượng, giáo viên nêu câu hỏi thảo luận chung
            Chất và lượng của sự vật có mối liên hệ với nhau như thế nào?
Để trả lời câu hỏi này, giáo viên trình chiếu cho học sinh xem ví dụ: 
    Dùng đèn cồn đun nước trong bình thủy tinh. Khi đun, nước trong bình dần
 tăng nhiệt độ và tăng đến 1000C thì nước chuyển từ thể lỏng sang thể khí.
   ­ Sau khi học sinh xem xong thí nghiệm khoảng 1 phút, giáo viên giao nhiệm 
vụ cho các nhóm:
     + Nhóm 1: Chỉ ra chất và lượng của nước? Nêu sự khác nhau trong sự biến 
đổi của lượng và chất ( cả về thời gian và không gian).
    + Nhóm 2: Nhịp độ và hướng biến đổi của chất và lượng diễn ra như thế 
nào?
    + Nhóm 3: Vai trò của lượng và chất trong quá trình biến đổi của sự  vật? 
Nhận xét kết quả trình bày của nhóm 1,2
    + Nhóm 4: Qua tìm hiểu sự biến đổi của lượng và chất, em rút ra bài học 
nào cho bản thân trong cuộc sống, học tập và công tác?
  ­ Phát giấy A0, bút dạ, câu hỏi in vào giấy cho các nhóm. Giấy A0 được chia 
làm các ô tương ứng số học sinh trong nhóm.
  ­ Các nhóm bố trí chỗ ngồi sao cho giấy A0 để ở giữa, tất cả thành viên ngồi 
xung quanh để  thực hiện thảo luận dưới hình thức  kỹ  thuật khăn phủ  bàn. 
Dưới sự  chủ  trì của nhóm trưởng, mỗi thành viên trong nhóm ghi ý kiến cá 

nhân vào ô của mình. Sau đó, các nhóm thảo luận chung và cử  1 người ghi ý  
­ 12 ­


kiến chung vào ô giữa của giấy A0. Trong quá trình các nhóm thảo luận, giáo 
viên quan sát, gợi ý, khuyến khích các nhóm.
   ­ Nạp kết quả thảo luận cho giáo viên. Giáo viên dùng nam châm dính tờ A0  
vào bảng từ để cả lớp cùng xem. Đại diện các nhóm trình bày. Khi nhóm trình 
bày chưa rõ, giáo viên có thể  có câu hỏi gợi ý để  các thành viên khác của  
nhóm bổ sung.
    ­ Giáo viên nhận xét  ưu khuyến, bổ  sung và kết luận. Kết luận của giáo 
viên là kiến thức cần trình bày. Sau đó, giáo viên có thể hỏi xem còn em nào 
có ý kiến khác không? Nếu có ý kiến khác, giáo viên dùng câu hỏi phụ để hỏi 
học sinh cả lớp trả lời hoặc giáo viên kết luận.
    Nội dung kết luận: 
        ­ Giữa lượng và chất của sự vật có mối quan hệ  biện chứng với nhau.  
Chất là nội dung bên trong, lượng là hình thức bên ngoài của sự vật. 
        ­ Trong sự biến đổi: lượng biến đổi trước, chất biến đổi sau.
        ­ Nhịp độ  và hướng biến đổi: Lượng biến đổi dần dần, chất biến đổi  
nhanh, đột biến; lượng biến đổi nhanh hoặc chậm, chất biến đổi nhảy vọt
        ­ Vai trò: Lượng biến đổi mới dẫn đến chất biến đổi. Chất đổi lại bao  
hàm lượng mới
        ­ Bài học: Không nóng vội, chủ quan; phải có quá trình tích lũy về lượng;  
không ngừng tu dưỡng đạo đức, chuyên cần học tập để  tích lũy kiến thức, 
tích lũy vốn sống. Ca dao, tục ngữ đã chỉ ra mối liên hệ đó: Kiến tha lâu cũng 
đầy tổ, tích tiểu thành đại,...
Nội dung kết luận được rút ra chính là kiến thức trọng tâm cần trình bày.
3.4.2. Phân nhóm theo địa bàn sinh sống
Kiểu chia này chủ  yếu  ứng dụng trong phần bài quan niệm đạo đức­ 
phần II của chương trình. Bởi vì, các địa bàn sinh sống gần nhau có nét tương  

đồng về  phong tục tập quán, cách ứng xử theo chuẩn mực đạo đức xã hội.
Ví dụ: Tiết 20 bài 10: Quan niệm về đạo đức
       ­ Ra câu hỏi thảo luận: Từ xưa tới nay, các bậc thánh nhân quân tử đều 
đề cao giá trị đạo đức, luân lý. Khổng Tử cho rằng: Tiên học lễ, hậu học văn, 
Hồ  Chí Minh quan niệm đức là gốc của con người. Hãy cho biết vì sao đạo 
đức lại quan trọng đến vậy?
   ­ Hình thức tổ chức thảo luận: Thảo luận bằng kỹ thuật mảnh ghép
   ­ Tổ chức thực hiện:
     + Bước 1: Thực hiện nhóm chuyên gia
­ 13 ­


        Để trả lời câu hỏi này, chia lớp thành 4 nhóm theo bàn. Mỗi nhóm, giáo  
viên phát cho 3 tờ  giấy A4 có đánh số  tương  ứng với 3 tờ: tờ  1, tờ  2, tờ  3.  
Mỗi nhóm lại chia thành 3 nhóm nhỏ  và mỗi nhóm nhỏ  trả  lời 1 câu hỏi  
tương ứng:
      Nhóm nhỏ 1: Vì sao từ xưa đến nay, đất nước ta rất coi trọng các giá trị 
truyền thống đạo đức của dân tộc?
             Nhóm nhỏ  2: Vì sao những người tài giỏi, có ích cho dân cho nước 
thường được sinh ra, lớn lên ở những gia đình gia phong nề nếp?
       Nhóm nhỏ 3: Vì sao Bác Hồ nói đức là “gốc” của con người?
Cho các nhóm nhỏ viết kết quả thảo luận vào giấy A4.
+ Bước 2: Thực hiện mảnh ghép các nhóm nhỏ
    Lớp 10C năm học 20140 2015: Có 41 học sinh, trong đó số  học sinh vùng 
chiêm trũng có 14 em, vùng màu có 16 em, vùng cói, biển có 11 em. Vì số học 
sinh tương đối đều nên chia thành 3 nhóm với tên gọi tương ứng: Trống trận, 
An Tiêm, Ra khơi. Học sinh nhóm nhỏ 1 sẽ về nhóm Trống trận, nhóm nhỏ 2 
về nhóm An Tiêm, nhóm nhỏ  3 về nhóm Ra khơi. Học sinh tự sắp xếp vị trí 
ngồi theo nhóm đã chia. Các nhóm tự cử nhóm trưởng theo tiêu chí đã nêu trên
Các nhóm nhỏ trình bày ý tưởng của mình và nhóm tranh luận, thống nhất nội  

dung trả lời
   ­ Các nhóm trình bày kết quả. Trình bày đến đâu, giáo viên ghi kết quả đó 
lên bảng
   ­ Các nhóm tranh luận: Nhóm 1 đặt câu hỏi cho nhóm 2, nhóm 2 đặt câu hỏi  
cho nhóm 3 và nhóm 3 đặt câu hỏi cho nhóm 1. 
   ­ Giáo viên nhận xét ưu, nhược trong câu trả lời của các nhóm, kết luận, bổ 
sung, chỉnh sửa phần trả lời của các nhóm.
    Nội dung kết luận: Kết quả các nhóm trình bày, giáo viên kết luận nêu rõ 
3 nội dung cơ bản về vai trò của đạo đức đối với cá nhân, gia đình và xã hội.  
Đây chính là phần kiến thức học sinh cần nắm.
3.4.3. Phân nhóm theo sở thích
Ví dụ: Tiết 28 bài 14: Công dân với cộng đồng
    ­ Giáo viên nêu có 4 câu hỏi: Vì sao, như  thế  nào, ý nghĩa tác dụng, trách 
nhiệm của tôi và chúng ta? Chia lớp theo 4 nhóm bằng hình thức đặt thứ tự số 
bàn trong lớp từ dãy bàn 1 đến dãy bàn 12 để phân nhóm theo thứ tự:
      + Từ bàn 1 đến bàn 3: Nhóm câu hỏi vì sao?
      + Từ bàn 4 đến bàn 6: Nhóm câu hỏi như thế nào?
­ 14 ­


     + Từ bàn 7 đến bàn 9: Nhóm câu hỏi ý nghĩa tác dụng?
     + Từ bàn 10 đến bàn 12: Nhóm câu hỏi trách nhiệm của tôi và chúng ta?
Học sinh nào thích nhóm nào thì tự  đăng ký đến bàn của nhóm đó. Nếu số 
người trong các nhóm chênh lệch quá nhiều về  số  lượng, giáo viên yêu cầu 
lớp tự điều chỉnh cho hợp lý
  ­ Ra câu hỏi thảo luận: Hợp tác có ý nghĩa quan trọng trong đời sống
­ Giao nhiệm vụ cho các nhóm:
    + Nhóm 1: Vì sao phải đẩy mạnh hợp tác?
   + Nhóm 2: Hợp tác được thể hiện như thế nào?
   + Nhóm 3: Hợp tác có ý nghĩa gì?

    + Nhóm 4: Mỗi người cần có trách nhiệm gì để thực hiện hợp tác?
  ­ Phát giấy A4, bút dạ cho các nhóm  
  ­ Các nhóm chuẩn bị 3­5 phút
   ­ Lần lượt các nhóm trình bày. Giáo viên gọi 4 học sinh cùng lên viết nội  
dung câu trả lời lên bảng theo 4 cột
  ­ Các nhóm tranh luận về câu trả lời, bổ sung, chỉnh sửa
   ­ Giáo viên nêu nhận xét  ưu, nhược trong câu trả  lời của từng nhóm, bổ 
sung, chỉnh sửa phù hợp
Nội dung kết luận: ­ Vì sao phải hợp tác: Một cá nhân có nhiều nhu cầu mà 
bản thân không tạo ra được tất cả  các điều kiện, do đó cần hợp tác để  thỏa  
mãn nhu cầu vật chất, tinh thần
                              ­ Th ể hi ện c ủa h ợp tác : Cùng bàn bạc. Phối hợp nhịp 
nhàng.  Hiểu biết về mọi nhiệm vụ của nhau. Sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ
                             ­ Ý nghĩa: Tạo nên sức mạnh tinh thần và thể chất. Đem lại  
chất lượng và hiệu quả cao. Phẩm chất quan trọng của người lao động mới.
                             ­ Trách nhiệm: Hiểu đúng tầm quan trọng của hợp tác. Hòa  
mình trong tập thể. Tìm biện pháp, hình thức tổ chức hợp tác hiệu quả.
 Đây chính là nội dung kiến thức của phần hợp tác mà học sinh cần nắm.
3.4.4. Phân nhóm theo năng lực
     Việc chia nhóm theo năng lực phải là kết quả  của một quá trình đã kiểm 
chứng chất lượng học tập của học sinh  ở  các mức độ  thấp, trung bình, cao  
hoặc là các mức độ thông hiểu, vận dụng, đánh giá
Ví dụ: Tiết 29, bài 14: Công dân với sự  nghiệp xây dựng và bảo vệ  Tổ 
quốc

­ 15 ­


   ­ Phân nhóm: Chia lớp thành 3 nhóm: Nhóm thông hiểu; Nhóm vận dụng; 
Nhóm đánh giá

  ­ Câu hỏi thảo luận: Sau khi làm rõ khái niệm lòng yêu nước, giáo viên nêu  
câu hỏi thảo luận: Lòng yêu nước là giá trị tốt đẹp của dân tộc, là cội nguồn 
tạo nên sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hãy:
  ­ Giao nhiệm vụ cho các nhóm:
    + Nhóm thông hiểu: Lòng yêu nước được biểu hiện như thế nào? 
    + Nhóm vận dụng: Lòng yêu nước của người dân Nga Sơn được thể hiện  
như thế nào trong công cuộc xây dựng nông thôn mới hiện nay?
   + Nhóm đánh giá: Ý kiến cho rằng: Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam là 
yêu nước. Ý kiến khác bày tỏ: trong xu thế hội nhập, nếu giữ tư tưởng trên là 
kéo lùi sự phát triển đất nước. Ý kiến của anh chị về vấn đề này?
­ Giáo viên gợi ý cho các nhóm và các nhóm thảo luận 3­5 phút. 
­ Các nhóm lần lượt trình bày. Giáo viên ghi các ý kiến của các nhóm lên  
bảng
­ Giáo viên nhận xét ưu, nhược, bổ sung phần trả lời của các nhóm.
­ Nội dung kết luận: 3 nhóm trả lời, giáo viên kết luận:
        + Biểu hiện của lòng yêu nước:  Tình cảm gắn bó với quê hương, đất 
nước; Tình yêu thương đối với đồng bào, dân tộc; Lòng tự hào dân tộc chính 
đáng; Đoàn kết kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm; Cần cù và sáng  
tạo trong lao động. 
       + Lòng yêu nước của người dân Nga Sơn trong xây dựng nông thôn mới: 
Thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm; sẵn sàng phòng thủ  để  bảo vệ  Tổ 
quốc, giữ  gìn an ninh; giúp đỡ, hỗ  trợ  người nghèo, gia đình có công với đất 
nước..
          + Ý kiến: Yêu nước thì phải dùng hàng Việt Nam là đúng song chưa đủ. 
Dùng hàng Việt Nam phải trên cơ sở quy luật giá cả thị trường.
3.4.5. Phân nhóm theo giới tính
   ­ Việc phân nhóm theo giới tính chỉ thực hiện được khi trong lớp có số học  
sinh nam nữ tương đối đồng đều. Hiện nay ở trường THPT Ba Đình hầu hết 
các lớp có số học sinh nam nữ khá đồng đều. Do đó, khi lên lớp, giáo viên yêu  
cầu học sinh nam nữ ngồi về 2 phía bàn theo hình thức 2 nhóm. Các nhóm tự 

cử nhóm trưởng
Ví dụ: Tiết 24, bài 12: Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình

­ 16 ­


  ­ Sau khi làm rõ quan niệm về tình yêu, tình yêu chân chính, giáo viên đặt câu 
hỏi thảo luận: Các bậc cha mẹ không muốn con mình yêu khi đang học THPT 
 ­ Giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm:
   + Nhóm nữ: Vì sao nói, yêu ở lứa tuổi học sinh THPT là quá sớm?
   + Nhóm nam:  Làm thế nào để nói không với tình yêu tuổi học sinh THPT
­ Hình thức tổ  chức: Bằng  kỹ  thuật bản đồ  tư  duy. Giáo viên phát cho mỗi 
nhóm ½ tờ  giấy A0, trên tờ  A0 có câu hỏi  ở  giữa và các nhánh phát triển. 
Nhiệm vụ  mỗi em học sinh trong nhóm đưa ra 1 ý tưởng và viết vào nhánh 
đó. Tổng hợp nội dung các ý tưởng là câu trả lời.
  ­ Các nhóm chuẩn bị trong thời gian 3­5 phút. Trong thời gian các nhóm thảo 
luận, giáo viên quan sát các nhóm và gợi ý câu trả lời
  ­ Đại diện các nhóm trình bày. Sau 2 nhóm trình bày, các nhóm có thể có câu 
hỏi phụ để vấn đáp
   ­ Giáo viên nhận xét  ưu, nhược, kết luận, bổ  sung phần trả  lời của các  
nhóm. 
­ Nội dung kết luận:
+ Câu trả  lời nhóm nữ: Tâm sinh lý đang trong quá trình hoàn thiện nên dễ 
mắc sai lầm. Khi yêu, học sinh dễ  sa sút học tập, mất phương hướng cho  
tương lai
+ Câu trả  lời nhóm nam: Không tạo môi trường gần gũi với bạn khác giới, 
tập trung học tập rèn luyện, nuôi dưỡng khát vọng, ước mơ.
4. Kết quả thực nghiệm
Qua 2 năm thực nghiệm vận dụng thảo luận nhóm với việc áp dụng 
các hình thức kỹ  thuật dạy học hiện đại, tôi thu được một số  kết quả  sau  

đây:
Thứ  nhất: So với trước đây, số  học sinh trong giờ  học làm việc đông 
hơn. Hầu hết học sinh đều động não suy nghĩ, đưa ra ý tưởng, bổ sung, tranh  
luận để tìm ra kiến thức. Trung bình mỗi giờ học có 10% học sinh được phát 
biểu. Học sinh tỏ  ra hứng thú với môn học, say mê suy nghĩ, tìm tòi để  thể 
hiện vị trí của mình.
Thứ hai: Giờ học sinh động hơn, không gian mở hơn dưới các hình thức 
khác nhau. Nếu như  trước đây, các em chỉ  được thảo luận nhóm theo tổ  thì 
bây giờ, sự hợp tác giữa các em đa dạng hơn. Các em được rèn luyện các kỹ 
năng cá nhân như kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng làm “ giám đốc” điều hành, 

­ 17 ­


kỹ năng trình bày, kỹ năng tư duy logic, kỹ năng tranh luận 1 vấn đề, kỹ năng 
giải quyết tình huống…
Thứ ba: Kết quả học tập cao hơn. Kiến thức của học sinh sẽ giảm b ớt  
tính chủ  quan, phiến diện, làm tăng tính khách quan khoa học. Kiến thức trở 
nên sâu sắc, bền vững dễ nhớ, nhớ nhanh và lâu hơn do được trao đổi học hỏi  
giữa các thành viên trong nhóm. Nhờ  không khí thảo luận nhóm cởi mở  giúp 
học sinh thoải mái, tự  tin hơn trong việc trình bày ý kiến của mình và biết  
lắng nghe có phê phán ý kiến của những thành viên khác.. việc vận dụng 
phương pháp giảng dạy đạt kết quả tốt hơn. 

­ 18 ­


Kết quả  khảo sát chất lượng: 2 lớp tôi thực nghiệm chất lượng đầu vào 
ngang nhau:
Nội dung


Lớp

Sĩ số

Chưa vận dụng thảo luận nhóm
Vận dụng thảo luận nhóm

10B
10C

40
41

Tỷ lệ % xếp loại cuối năm
Giỏi Khá
TB
Yếu kém
75.0
25.0
9.8
85.4
4.8

Thứ  tư: Xây dựng cho học sinh có được lối sống hòa nhập với cộng  
đồng, tinh thần hợp tác, kó năng giao tiếp, tinh thần đoàn kết, sự  phối hợp,  
hiểu biết về tinh thần trách nhiệm và hỗ  trợ  lẫn nhau giữa các thành viên từ 
đó tạo ra những giải pháp mới cho mọi vấn đề khó khăn.
Từ thực nghiệm, tôi rút ra một bài học kinh nghiệm sau đây:
Một là: Muốn giờ học bộ môn sinh động, hiệu quả, cuốn hút học sinh  

phải đẩy mạnh việc đổi mới phương pháp, trong đó đặc biệt chú trọng đến  
thảo luận nhóm và tăng cường các kỹ  thuật dạy học tích cực. Muốn thảo 
luận nhóm thành công, cần phải chuẩn bị công phu, có trách nhiệm.
Hai là: Trước khi tổ  chức thảo luận, cần phải có tiêu chí phân nhóm 
nhằm tạo ra nhiều loại hình nhóm khác nhau, chọn lựa nội dung, câu hỏi thảo 
luận, hình thức và kỹ  thuật trong thảo luận. Trong tổ  chức thực hiện phải  
linh hoạt, nhạy bén, vừa chú trọng đến các mối quan hệ trong nhóm, vừa phải 
đề cao vai trò, vị thế của từng cá nhân trong nhóm, trong lớp.  
Ba là: Muốn làm tốt điều này, mỗi nhà giáo cần nêu cao tinh thần trách 
nhiệm, tâm huyết với bộ  môn, với học trò. Tăng cường công tác tự  học, tự 
nghiên cứu, nhất là ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
Tuy vậy, tôi thiết nghĩ đây là kinh nghiệm của cá nhân được đúc rút từ 
thực tiễn, do đó không tránh khỏi tính chủ quan, duy ý chí, sai lầm trong vận 
dụng, rất mong được đồng nghiệp góp ý để nâng cao hiệu quả công tác.

­ 19 ­


III­ KẾT LUẬN

Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm có ý nghĩa quan trọng trong  
giảng dạy bộ  môn GDCD trong giai đoạn hiện nay. Thảo luận nhóm tạo ra 
cơ  hội để  tận dụng các hình thức kỹ  thuật dạy học tiên tiến, tích cực nhằm  
phân hóa học sinh trong dạy học, phát huy tính tích cực, năng động, chủ động, 
tự  tin của học sinh trong học tập. Đồng thời, qua thảo luận nhóm cũng tăng 
cường sự giao lưu, hợp tác, hỗ trợ lẫnh nhau giữa các em học sinh. Học thầy  
không tày học bạn thật sự có ý nghĩa và được phát huy cao độ trong thảo luận 
nhóm. Học sinh tự tìm tòi, khai thác kiến thức không chỉ trong sách giáo khoa,  
hệ  thống lý luận triết học, luân lý chuẩn mực đạo đức sách vở  mà liên hệ 
mật thiết với cuộc sống sinh động. Từ đó, hình thành ở các em thế giới quan 

khoa học, cách nhìn nhận, xem xét và giải quyết các tình huống thực tiễn một 
cách khoa học, phù hợp. Hơn nữa, với thảo luận nhóm, bồi dưỡng các em tư 
tưởng, tình cảm say mê, hứng thú học tập bộ môn. Nhiều em đã tâm sự rằng,  
nếu tổ  chức các hình thức học tập phong phú như  thế, các em thấy bộ  môn 
GDCD gần với đời sống hơn, cảm thấy thoải mái, tưn tin hơn trong học tập.
Tuy nhiên, yếu tố  nào cũng có mặt tích cực và hạn chế. Do đó, trong 
quá trình vận dụng phải căn cứ vào thực tiễn: Nội dung cấu trúc bài học, đối 
tượng học sinh, điều kiện thiết bị, phương tiện và cả  trạng thái, tâm lý của 
cả  thầy và trò trong giờ  học. Dạy học nói chung, vận dụng phương pháp  
trong dạy học nói riêng là một nghệ  thuật, trong đó lòng yêu nghề, say mê  
nhiệt huyết của thầy sẽ thổi bùng ngọn lửa của lòng đam mê, khát vọng học 
tập của trò. Phương pháp ai cũng biết, thậm chí là biết rất kỹ, song hiệu quả 
của việc vận dụng phụ thuộc vào tâm huyết, trách nhiệm và lương tâm nghề 
nghiệp của mỗi nhà giáo.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN 
VỊ

Thanh Hóa, ngày 12 tháng 06  năm 
2015
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của bản  
thân, không copy của người khác

   Phạm Xuân Dinh

­ 20 ­


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Văn Bính (Tổng chủ biên), (2006), Lê Thanh Hà, Nguyễn Thị Thanh 
Mai, Lưu Thu Thủy, Giáo dục công dân 10, Nxb Giáo dục Hà Nội.

2. Nguyễn Văn Cường (2010), Một số  vấn đề  chung về  đổi mới phương  
pháp dạy học  ở  trường trung học phổ  thông, Nxb Đại học Quốc gia Hà 
Nội.
3. Ngô Thị Thu Dung, “ Mô hình tổ chức học theo nhóm trong giờ học lên 
lớp, Tạp chí giáo dục
4. Đặng Thành Hưng (2000),  Dạy học hiện đại. Lí luận ­ biện pháp­ kĩ  
thuật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Phan Trọng Ngọ  (2005),  Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà  
trường, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
6. Nguyễn Trọng Sửu (2008), “Dạy học nhóm, phương pháp dạy học tích 
cực”, Tạp chí giáo dục số 171.
7. Nguyễn Thị  Thu Thủy (2009), Phương pháp dạy học dựa trên vấn đề  
và vận dụng vào thiết kế, giảng dạy, Luận văn thạc sĩ giáo dục.
8. PGS.TS Hà Thế Truyền (2006), Phương pháp dạy học đại học, tập bài 
giảng giáo dục học Đại học, Nxb Hà Nội.

­ 21 ­



×