I.Phần Mở Đầu
I.1. Lí do chọn đề tài:
Việt Nam đang trên đà hội nhập và phát triển cả về văn hóa lẫn kinh tế
theo xu hướng toàn cầu hóa. Như Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã nói “Non
sông Việt Nam có vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai cùng
các cường quốc năm châu trên trường quốc tế hay không tất cả phụ thuộc
vào công học tập của các cháu”. Đúng vậy, một quốc gia có giàu mạnh hay
không phụ thuộc rất nhiều vào thế hệ trẻ. Vì thế Đảng và nhà nước coi
“đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển.Trong thời đại công nghệ thông tin
phát triển cực nhanh, internet trở thành nguồn cung cấp thông tin đa dạng và
kiến thức quý báu nhanh nhất, mới nhất, và tiết kiệm nhất. Hiện nay hơn 10
tỷ trang web trên thế giới đã sử dụng tiếng Anh làm phương tiện truyền
thông, quảng bá, trao đổi thông tin, học tập và nghiên cứu. Nếu muốn tìm
kiếm thông tin về một vấn đề bạn quan tâm mà chỉ gõ vài từ đơn giản bằng
tiếng Việt thì không đủ tư liệu cho công việc của bạn. Vì thế bạn phải
nhập từ bằng tiếng Anh. Hiểu rõ tầm quan trọng của giáo dục hiện đại là
đào tạo ra những con người có thể bắt kịp xu thế hội nhập toàn cầu. Ngoại
ngữ nói chung, Tiếng Anh nói riêng là công cụ đắc lực cho qúa trình hội
nhập. Bộ Giáo Dục và Đào Tạo Việt Nam đã, đang không ngừng nâng cao
chất lượng dạy và học ngoại ngữ thông qua việc đổi mới toàn diện .Vì thế
một vấn đề đặt ra là làm thế nào để việc dạy và học Tiếng Anh trong các
nhà trường phổ thông một cách có hiệu quả đồng thời tạo được hứng thú
học tập ngoại ngữ cho học sinh. Bồi dưỡng hứng thú học tập là một việc
làm thiết thực và có tác động mạnh mẽ đến quá trình học tập của học sinh
bởi vì "không thể làm tốt việc nếu mà ta không có hứng thú với việc đó".
Đối với học sinh tiểu học cũng vậy, các em không thể học tốt nếu không có
hứng thú với việc tiếp thu bài trên lớp cũng như chuẩn bị bài ở nhà. Ngay từ
những buổi học đầu tiên, hãy gieo vào tâm hồn các em những niềm say mê
1
đối với việc kiếm tìm những cái hay, cái đẹp trong cuộc sống. Đó là một
chìa khoá quan trọng giúp các em mở cánh cửa đam mê với tri thức nguồn
tài nguyên vô giá của nhân loại. Bằng cách sử dụng những thủ thuật hợp lí,
phương pháp khác nhau sẽ mang lại cho người học những điều mới mẻ,
cuốn hút.Với những lí do trên nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài là “Một số
biện pháp gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh tiểu học”
I.2.Mục tiêu ,nhiệm vụ của đề tài
a.Mục tiêu:
Từ nghiên cứu thực trạng của các tiết học ở các lớp tại trường TH Lê Lợi
để tìm ra các biện pháp nhằm cải tiến phương pháp dạy học phù hợp hơn
với từng đối tượng học sinh.
b.Nhiệm vụ:
Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc xây dựng một tiết học hiệu quả.
Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của các tiết dạy tại trư ờng TH Lê Lợi.
Từ đó so sánh với kết quả đạt được sau khi áp dụng những giải pháp, biện
pháp dạy học mới. Rút ra một số bài học bổ ích sau nghiên cứu.
I.3 Đối tượng nghiên cứu.
Vì thời gian có hạn nên trong đề tài này tôi chỉ áp dụng những giải pháp
và biện pháp gây hứng thú ở các đối tượng học sinh lớp 3 trường TH Lê
Lợi.
I.4.Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Các giải pháp và biện pháp của giáo viên trong việc gây hứng thú học
Tiếng Anh cho học sinh lớp 3 học kì 1 năm học 2015 2016 ở trường TH Lê Lợi
I.5.Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã phải ấp ủ ý tưởng trong một
thời gian khá dài và đã lựa chọn một số phương pháp sau:
Đọc tài liệu những vấn đề nghiên cứu có liên quan
Sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp vấn đề
2
Sử dụng phương pháp điều tra lấy ý kiến
Phương pháp quan sát sư phạm : tổ chức trò chơi
II.Phần Nội Dung
II.1 Cơ sở lí luận
Trong đề án 1400 về"Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục
quốc dân giai đoạn 2008 – 2020 với nội dung mục tiêu là đổi mới toàn diện
việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân, triển khai
chương trình dạy và học ngoại ngữ mới ở các cấp học, trình độ đào tạo,
nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử
dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu
tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao
đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong
giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn
hóa; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo cũng đã nêu: “ Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh , phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học
sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học,
khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho
học sinh”.
3
Ở cấp tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu thiếu tính kỷ luật và
kiên trì. Không thể giữ trẻ trong khuôn khổ suốt một tiết học được,
Trẻ chỉ thích được vui chơi, chạy nhảy hay tham gia các hoạt động
sinh động, hấp dẫn…Chính vì vậy, một yêu cầu đặt ra cho giáo viên
tiểu học trong giai đoạn hiện nay là cần quan tâm nhiều hơn đến việc
hình thành và bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh bằng các
phương pháp dạy học mới mẻ, phù hợp và thực sự có hiệu quả. Do
vậy, mỗi giáo viên phải không ngừng học hỏi, suy nghĩ để tìm ra
những cách thức, những con đường thuận lợi nhất để đạt được mục
đích đó. Có thể nói làm thế nào để vừa kích thích hứng thú học tập
của học sinh vừa thực hiện tốt mục tiêu của tiết dạy là sự trăn trở
của tất cả giáo viên.
II.2.Thực trạng
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cho trẻ tiếp xúc với ngoại ngữ từ nhỏ sẽ
nâng cao khả năng làm việc của não bộ, phát triển tư duy và tạo điều kiện
để trẻ nắm vững và sử dụng ngoại ngữ như một ngôn ngữ thứ hai tự nhiên
và hiệu quả hơn. Trong quá trình đổi mới, thay sách, dạy theo phương pháp
mới, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo (Bộ GDĐT) đã đổi mới toàn bộ hệ thống
giảng dạy ngoại ngữ từ trước tới nay, từ chương trình, sách giáo khoa,
phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá đến việc bảo đảm đủ đội ngũ
giáo viên, cơ sở vật chất phục vụ dạy và học ngoại ngữ… Để đáp ứng cho
việc đổi mới này và thực hiện đúng ý nghĩa mà đề án đổi mới dạy học
ngoại ngữ của Bộ GDĐT đề ra đòi hỏi mỗi giáo viên cần có sự đổi mới
trong cách dạy của chính mình sao cho đáp ứng được xu thế chung của xã
hội. Chính vì vậy dạy và học tiếng Anh trong trường tiểu học ngày càng
được các quốc gia không nói tiếng Anh quan tâm và đầu tư mạnh mẽ các
nguồn lực, nhằm xây dựng được chương trình giảng dạy và khảo thí tối ưu,
đảm bảo các yêu cầu đầu ra về trình độ tiếng Anh của học sinh. Tuy nhiên,
4
việc dạy và học tiếng Anh trong trường tiểu học cũng cần giải quyết nhiều
câu hỏi: thế nào là môi trường học tiếng Anh hiệu quả cho trẻ tiểu học?
Giáo viên có nắm rõ tâm lý học phát triển của trẻ ?Giáo viên có đủ các kỹ
năng cần thiết để chuyển giao kiến thức một cách thân thiện, gần gũi để trẻ
tiếp thu tích cực ? Cách thức kiếm tra đánh giá có phù hợp với đối tượng trẻ
nhỏ và đảm bảo thể hiện đúng năng lực của trẻ?
a.Thuận lợi khó khăn.
* Thuận lợi: Trường nằm trên trục đường tỉnh lộ nên thuận lợi cho học
sinh đi lại.Được sự quan tâm của ban lãnh đạo các cấp, chính quyền địa
phương, và ban giám hiệu trường tiểu học Lê Lợi luôn tạo điều kiện tốt
nhất để cho học sinh được phát triển toàn diện cả về trí tuệ lẫn về thể
chất.Trường có một đội ngũ giáo viên vững về chuyên môn và luôn tâm
huyết với nghề.
* Khó khăn: Do học sinh chủ yếu là học sinh dân thiểu tộc số gia đình
kinh tế khó khăn nên thiếu thốn về sách vở học tiêng Anh .Đối với học sinh
lớp 3 còn gặp nhiều bỡ ngỡ vì năm nay là năm đầu tiên các em làm quen với
môn học và tiếp xúc ngôn ngữ mới.
b.Thành công Thành công:
* Thành công : Khi đề tài này được tiến hành các học sinh rất hứng thú
với các biện pháp được áp dụng.Các em mong đợi đến tiết học để các em
được tham gia vào các trò chơi.
* Hạn chế: Do điều kiện của trường không đáp ứng đủ tài liệu và nguồn
tài liệu chưa phong phú, khuôn viên lớp học quá nhỏ mà số lượng học sinh
đông. Vì thế chưa khai thác hết được khả năng của các em.
c.Mặt mạnhmặt yếu:
Mặt mạnh:
Giúp các giáo viên tiếng anh thu hút được các đối tượng học sinh và đạt
hiệu quả cao trong các tiết dạy.
5
Giải quyết được khó khăn trong việc dạy môn Tiếng Anh.
Đề tài này có thể áp dụng ở nhiều trường tiểu học và ở mọi đối tượng
học sinh.
Mặt yếu:
Một số học sinh chưa phát huy hết khả năng của bản thân trước tập thể.
d.Các nguyên nhân, yếu tố tác động:
* Nguyên nhân
+ Muốn làm thay đổi hình thức hoạt động, tạo không khí lớp học dễ chịu,
thoải mái.
+ Giúp học sinh củng cố và hệ thống hóa kiến thức, đồng thời phát triển
khả năng giao tiếp ở trẻ.
*Các yếu tố tác động
Vì sao học sinh không thích các tiết học Tiếng Anh?
Phần lớn các tiết học truyền thống lấy giáo viên làm trung tâm, học sinh
lắng nghe và làm theo, không có tính giao tiếp. Hình thức tổ chức đơn điệu,
nhàm chán, không hứng thú với học sinh
Nội dung kiến thức trong một tiết học là quá nhiều cộng với việc phân
chia sĩ số lớp theo qui định hiện nay là quá đông đối với một lớp học ngoại
ngữ chính vì vậy nên thật khó có cơ hội cho tất cả các em được thực hành
tiếng trong một giờ học cũng như việc vận dụng lí thuyết để làm các bài
tập trong sách workbook.
Giáo viên thiếu sự gần gũi, thân thiện, không đặt mình vào vị trí của học
sinh để hiểu các em.
Phần lớn phụ huynh không biết Tiếng Anh, cơ hội giao tiếp với người
bản xứ ít nên học sinh không có cơ hội thực hành nói.
e. Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra
Ở trường chúng tôi, Tiếng Anh còn khá xa lạ với nhiều trẻ em, phần đa
trẻ trước khi đi đến lớp học Tiếng Anh chưa biết từ Tiếng Anh nào. Các
6
bậc phụ huynh, chính các em học sinh chưa nắm bắt được tầm quan trọng
của môn học này, nên việc dạy – học môn Tiếng Anh ở địa phương tôi còn
gặp không ít khó khăn, hơn nữa các thiết bị dạy học, đồ dùng dạy học cũng
đang thiếu thốn nhiều. Chính vì vậy mà tôi luôn băn khoăn làm thế nào để
học sinh thích học môn Tiếng Anh, làm thế nào để việc học của học sinh
có hiệu quả. Bên cạnh đó có thể hiểu rằng hứng thú học tập là thái độ yêu
thích đặc biệt của học sinh đối với việc học, được thể hiện qua nhiều mức
độ như: sự chú ý, tập trung, sự ham thích và cao nhất là niềm đam mê đối
với một đối tượng trong quá trình học. Đối với mỗi mức độ của hứng thú,
học sinh ở những lứa tuổi khác nhau có những biểu hiện khác nhau, nhưng
ở cấp tiểu học đa số các em đều chỉ thể hiện ở mức chú ý, tập trung chứ
rất ít học sinh đạt tới mức độ đam mê do các em chưa ý thức được những
lợi ích của việc học tập.Hơn nữa, đây là năm đầu tiên các em làm quen với
ngôn ngữ mới nên các em gặp nhiều bỡ ngỡ về cách ngữ điệu, chữ viết,
cách phát âm hoàn toàn khác tiếng mẹ đẻ.Do đó, thiết nghĩ mỗi người giáo
viên tiểu học phải là một người đưa đường bền bỉ, là người bạn đồng hành
của tất cả các em trên con đường đi tìm niềm đam mê đối với tri thức. Hơn
ai hết, giáo viên tiểu học phải coi trọng việc bồi dưỡng hứng thú học tập
cho các em ngay từ những buổi học đầu tiên, những bài học đầu tiên. Đây là
một quá trình lâu dài và đòi hỏi sự khéo léo trong nghệ thuật sư phạm.
Chính vì thế việc thiết kế chương trình giảng dạy cũng phải phù hợp cho
từng đối tượng của từng bậc học, lựa chọn phương pháp, thủ thuật khoa
học phù hợp mới tạo được khả năng tư duy và phát triển khả năng học tập
một cách độc lập, tạo niềm say mê, thích thú cho cả thầy và trò trong quá
trình giảng dạy và học tập môn Tiếng Anh.
Kết quả điều tra:
46 học sinh
Rất thích
Thích
7
Bình thường
Không thích
SL
5
Trước khi áp dụng
%
10,8
SL
10
%
21,7
SL
10
%
21,7
SL
21
%
45,7
đề tài
Kĩ năng đọc viết
3,75 – 4
Trước
2,75 3,5
2,0 2,5
< 2
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
4
8,7
9
19,6
13
28,3
20
43,4
Kĩ năng nghe
4,5 – 5
SL %
Trước
8
17
Kĩ năng nói
3,5 4,25
SL
%
2,5 3,25
SL
%
10
28
22
61
1
SL
4
%
9
0,75
SL %
3
7
0,5
SL %
39
85
Tổng hợp 4 kĩ năng
Hiệu quả của đề tài
Trước khi áp dụng đề tài
Tổng điểm 4 kĩ năng
9 10
7 – 8
SL
%
SL
%
2
4,3
9
19,6
5 – 6
SL %
35 76,1
III.Giải pháp – biện pháp:
a.Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Bác Hồ kính yêu của chúng ta từng nói “Vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người.” Giáo viên chính là những người gieo
hạt.Vậy để có mầm xanh khỏe mạnh đáp ứng được nhu cầu cao của thời
đại công nghệ và hội nhập thì bản thân mỗi giáo viên ngoài việc phải luôn
8
tìm tòi, trau dồi nghiệp vụ của bản thân, còn luôn trăn trở với công việc
trồng người này. Để góp phần năng cao năng lực và ham mê học tập của
học sinh hơn thế nữa giúp các em có một nền tảng và tâm thế vững vàng
cho các cấp học sau.Tạo không khí thoải mái cho trẻ khi tiếp cận với một
ngoại ngữ mới một cách nhẹ nhàng. Thêm vào đó giúp các trẻ em phát
triển tính tò mò, hứng thú và mong muốn nói được một thứ tiếng khác tiếng
mẹ đẻ tạo thành động cơ, sự ham thích học ngoại ngữ.
b.Nội dung –cách thức thực hiện giải pháp
b.1.Biện pháp thứ nhất:
Giúp trẻ có phong thái thật thoải mái trong giờ học. Biến mỗi tiết học
là một niềm vui.
Hay nói cách khác là giúp trẻ say mê việc học, bằng cách lôi cuốn trẻ bằng
những câu chuyện thú vị, những bài hát thường nghe. Giáo viên thường
xuyên đọc những đoạn thơ Tiếng Anh mà trẻ thích cho trẻ nghe.Khi đọc kết
hợp gõ phách và chú ý trước khi đọc giáo viên phải quảng bá tính hấp dẫn
của đoạn thơ đó. Giáo viên gọi hai em đứng cách xa nhau đứng lên đọc lại
mẫu đoạn thơ. Một em đọc câu thứ nhất, em kia đọc một câu thứ hai cho cả
lớp nghe. Đôi khi có thể kết hợp một em học sinh cùng với giáo viên để gia
tăng sự chú ý cho học sinh. Hãy để trẻ cùng vui chơi ca hát với tiếng Anh.
Để trẻ nghe từng câu, từng câu trong bài hát Tiếng Anh và dạy trẻ hát lại
câu hát đó. Nhũng bài hát ngắn gọn dễ nhớ và giải nghĩa tiếng Việt để trẻ
hiểu. Việc dạy trẻ hát và nghe các bài hát Tiếng Anh rèn luyện kỹ năng
nghe cho trẻ rất tốt. Không chỉ âm nhạc mà những hình vẽ ngộ nghĩnh khi
giáo viên vẽ để giới thiệu từ cũng sẽ gây sự chú ý cao độ từ phía trẻ, trẻ
con thường rất tò mò, trước hết chúng xem cô giáo vẽ con gì, cái gì, đẹp hay
xấu và để lại cho trẻ dấu ấn dễ nhớ, mà lại khắc sâu. Nhìn vào hình vẽ trẻ
sẽ đọc từ vựng tương ứng hoặc viết từ xuống dưới hình hay đặt câu có
9
chứa từ của hình vẽ minh họa. Với một hình vẽ nhưng có thể giới thiệu cho
học sinh nhiều tình huống sử dụng khác nhau.
Ví dụ: Với bức tranh vẽ một quả táo giáo viên có thể yêu cầu học sinh hoàn
thành bốn câu sau:
1. I like an....... (apple) .
2. My favourite fruit is an..... (apple)
3. I have got an ............. (apple)
4. This.........is for you (apple)
Nhiều người vẫn thường hay đùa giáo viên cấp 1 là một nghệ sĩ tài ba với
tài biến hóa:Không chỉ vẽ tranh, đọc mẫu, viết mẫu mà còn làm động tác, sử
dụng ngôn ngữ cơ thể để biểu đạt: Tiếng con vật(chim, chó, mèo...) hành
động(nhảy, hát...). Học sinh sẽ đoán từ qua điệu bộ cử chỉ của người giáo
viên hay có thể bắt chước vừa đọc, vừa làm điệu bộ. Thủ thuật này lôi cuốn
toàn bộ các em tham gia bởi trẻ có cơ hội được thể hiện năng khiếu của
mình. Qua đó giúp trẻ hình thành sự độc lập và sự tự tin.
b.2.Biện pháp thứ hai:
Thường xuyên tổ chức các trò chơi tập thể. Mỗi tổ sẽ chịu trách nhiệm tổ
chức sinh hoạt lớp một tuần.Kế hoạch sinh hoạt lớp sẽ được giáo viên
thông qua và thực hiện.Khi các em tự tổ chức các em sẽ cảm thấy vai trò
của mình quan trọng hơn. Giáo viên có thể kích thích tinh thần trách nhiệm
của học sinh bằng cách trao cho các em một số chức vụ. Đây là cách khá
hiệu quả vì các em sẽ gắng hết sức để khẳng định mình.Các em có khả
năng sáng tạo theo cách các em mong muốn. Chính các em đã biến giờ sinh
hoạt lớp đơn thuần và nhạt nhẽo thành thú vị, sôi động.
Một số trò chơi như tổ chức thi “Rung chuông vàng” giữa các tổ với nhau.
“Đường lên đỉnh Olympia”. Nội dung câu hỏi do các em tự sưu tầm và có ý
kiến của giáo viên để cho câu hỏi sát với nội dung bài học mà chống nhàm
chán.Các tiết mục đọc thơ, hát, kịch hay đố vui bằng Tiếng Anh cũng được
10
đan xen.Tham gia vào trò chơi giúp các em cảm thấy thoải mái vừa ôn lài
kiến thức vừa trút bao căng thẳng mệt mỏi của giờ học tập. Giúp các em có
một tâm thế thoả mái cho những tiết học tiếp theo.
b.3. Biện pháp thứ ba:
Trẻ em học tiếng anh qua phương pháp học mà chơichơi mà học.
Để thu hút trẻ em học tiếng anh tốt nhất là nên thu hút trẻ em vào những
trò chơi đơn giản giúp trẻ em tiếp cận với tiếng Anh dễ dàng hơn. Lưu ý
nên chọn lựa trò chơi phù hợp với cả lớp để tất cả học sinh đều được tham
gia.Trò chơi phải phù hợp với lứa tuổi. Và tránh hình phạt mang tính bôi nhọ
danh dự các em.
Cách tổ chức chơi một số trò chơi:
TRÒ CHƠI 1: “DÀI – NGẮN – CAO – THẤP”
* Mục đích giải trí: Rèn luyện sự nhanh nhạy, phản xạ tốt
* Mục đích giáo dục: Luyện khả năng nghe về tính từ chỉ độ dài
* Số lượng người tham gia: Cả lớp
* Thời gian: 3 – 5 phút
* Cách chơi:
Giáo viên phổ biến trò chơi gồm 4 động tác: Giơ hai tay lên trước mặt theo
chiều thẳng đứng một khoảng. Khoảng cách giữa hai tay xa nhau (CaoTall)
tương tự Giơ hai tay lên trước mặt chiều thẳng đứng có một khoảng.
Khoảng cách giữa hai tay gần nhau(Thấp short), tiếp tục giơ hai tay lên
trước mặt theo chiều ngang có một khoảng. Khoảng cách giữa hai tay xa
nhau (Dài long) Tương tự giơ hai tay lên trước mặt theo chiều ngang có
một khoảng. Khoảng cách giữa hai tay gần( Ngắn short) và yêu cầu học
sinh làm theo lời hướng dẫn mà không làm theo hướng tay chỉ của giáo viên.
Lần đầu giáo viên làm đúng như vậy vừa hô để tạo cho các em có định
hướng về từ vựng.
Sau đó giáo viên bắt đầu hô một đường nhưng làm một nẻo.
11
Ví dụ. Một người quản trò hô “Short” và Khoảng cách giữa hai tay xa
nhau. Học sinh hô “short” vừa nhìn người quản trò làm lưu ý khoảng cách
giữa hai tay gần nhau chứ không làm khoảng cách giữa hai tay xa nhau.Nếu
học sinh hô hoặc làm khác phải thì bị bắt phạt
TRÒ CHƠI 2: “Slap the board Đập bảng”
* Mục đích giải trí: Rèn luyện sự nhanh nhạy, phản xạ tốt
* Mục đích giáo dục: Luyện và thực hành một số từ vựng.
* Số lượng người tham gia: Cả lớp
* Thời gian: 3 – 5 phút
* Cách chơi:
Giáo viên viết từ vựng lên bảng gọi một bạn làm trọng tài, ghi điểm
và hai bạn lên làm người chơi. Giáo viên hướng dẫn luật chơi. Hai người
chơi mặt quay xuống lớp , khi trọng tài gọi bất kỳ bạn nào đứng lên đọc
từ có thể là Tiếng Anh hoặc Tiếng Việt thì người chơi sẽ nhanh tay đập
vào từ vừa nghe.Ai đập nhanh và chính xác ghi được năm điểm hai người
chơi sẽ được nghe năm lần.Sau đó trọng tài tổng kết tuyên bố người thắng
cuộc. Do đó tất cả đều phải thật sự lắng nghe để xem bạn nhắc đến ai và
từ gì rồi qua đó giáo viên đã giúp học sinh nhớ từ cũng như là rèn sự tập
trung. Đồng thời rèn được cho học sinh 2 kĩ năng nghe, nói cùng một lúc.
Ví d ụ: Giáo viên muốn ôn lại từ vựng về gia đình.Giáo viên sẽ viết từ lên
bảng.
TRÒ CHƠI 3: “ Xì điện”
* Mục đích giải trí: Rèn luyện sự nhanh nhạy, phản xạ tốt
* Mục đích giáo dục: Luyện và thực hành một số từ vựng và ngữ pháp.
* Số lượng người tham gia: Cả lớp
* Thời gian: 3 – 5 phút
* Cách chơi:
Đây là một hình thức gần giống như thủ thuật “Repitation drill”, với
thủ thuật này trẻ cần tập trung cao độ, mắt nhìn và tai nghe để phản xạ
12
nhanh lại theo yêu cầu của cô giáo. Giáo viên dùng những thẻ của bộ sách
giáo khoa, giáo viên đưa thẻ (hình vẽ minh họa) và đọc từ tương ứng. Nếu
từ giáo viên đọc là từ của hình vẽ thì học sinh đọc theo và vỗ tay, nếu từ
giáo viên đọc không đúng với hình vẽ thì học sinh đọc to từ chúng tìm ra
nhưng không vỗ tay. Để không nhàm chán có thể thay bằng cách đứng lên
nếu cô đọc đúng với hình còn sai thì ngồi yên. Nếu phòng học rộng thì cho
học sinh xếp thành hai hàng dọc sau đó giáo viên đọc nếu đúng thì nhảy qua
phải một bước nếu sai đứng yên. Như vậy tiết học sẽ trở nên sôi nổi và
học sinh sẽ được củng cố từ vựng một cách hào hứng.
V í d ụ: Để giúp học sinh nhớ mẫu câu:
Quản trò(xung phong) đưa cây bút và hỏi “Is it a book?” thì học sinh trả
lời “Yes, it is” đồng thời vỗ tay(đứng lên)
Nếu giáo viên đưa cây bút mà hỏi “Is it a book?” thì học sinh trả lời “No, it
isn’t” và không vỗ tay(ngồi im).
TRÒ CHƠI 4: “Pass the ballchuyền bóng”
* Mục đích giải trí: Rèn luyện sự nhanh nhạy, phản xạ tốt
* Mục đích giáo dục: Luyện và thực hành một số từ vựng và mẫu câu
* Số lượng người tham gia: Cả lớp
* Thời gian: 3 – 5 phút
* Cách chơi:
Giáo viên chuẩn bị một quả bóng nhựa, một cái máy nghe nhạc.Giáo viên
hướng dẫn luật chơi cho học sinh.Quả bóng sẽ chuyền tay nhau lần lượt từ
tay học sinh này sang học sinh khác đến khi nào nhạc dừng thì người nào
đang cầm trên tay quả bóng sẽ phải làm theo yêu cầu của giáo viên đưa ra
ngay từ đầu luật chơi. Ai giữ bóng lâu hay ném bóng lung tung sẽ bị loại
khỏi cuộc chơi và bị phạt.
V í d ụ.
13
Giáo viên yêu cầu khi nhạc dừng và ai trên tay cầm bóng thì phải nói ngay
một từ tiếng Anh về đồ dùng học tập như “A book”. Trò chơi này giúp học
sinh ôn từ một cách đầy hứng thú.Giáo viên chủ động kiểm tra được đối
tượng học sinh muốn kiểm tra.
b.4.Biện pháp thứ tư:Xây dựng một môi trường Anh ngữ trong mỗi lớp
học.
Ngay từ những buổi học đầu tiên giáo viên phải xây dựng ngay môi
trường Anh ngữ trong lớp của mình. Bước đầu để tránh làm một số em học
yếu không bắt kịp thì giáo viên có thể dùng song ngữ. Giáo viên sẽ cung cấp
một số mẫu câu và từ vựng liên quan đến học tập như từ các câu khẩu lệnh
hay lời chào hỏi.Và khuyến khích các em hạn chế nói Tiếng Việt trong giờ
tiếng Anh.Trong một tiết học em nào nói được nhiều câu tiếng anh nhất sẽ
được khen thưởng. Sau đây là một số mẫu câu nên khuyến khích học sinh
sử dụng.
Ví dụ.
Bắt đầu bài học
Hello Everybody, H ow are you today?
Is everybody ready to start?
What's the day today / What day is it today?
Who’s absent today?
Kết thúc bài học
All right, that's all for day.
We'll finish this next time.
Remember your homework.
See you again on Monday.
Khi giáo viên gây ra sai sót trong lớp học có thể xin lỗi học sinh bằng
cách:
14
I'll be back in the moment.
I'm sorry.
I've made a mistake on the board.
Xin phép ra ngoài/ vào lớp
May I go out?
May I come In?
Cảnh báo học sinh khi các em gặp sai lầm:
Be careful / Look out / Watch out.
Mind / watch the step.
Hoạt động trong sách giáo khoa: .
Open your books at page 10.
Turn to page 10, please.
Look at the dialog on page 10.
Stop working now.
Put your pens down.
Let's read the text aloud.
Do you understand everything?
Làm việc nhóm:
Work in pairs.
Work together with your friends.
Work in groups
Discuss it with your partner
Làm việc trên bảng:
Go to the board, please.
Go to the board and write the sentence out.
Are these sentences on the board right?
15
Anything wrong with sentence 1?
Everyone, look at the board, please.
Câu mệnh lệnh:
Close your books.
Open your book.
Sit down and be qiuet.
Look, listen, stop.
Yêu cầu (tương tự câu mệnh lệnh nhưng dùng ngữ điệu thấp hơn):
Come here, please.
Can/Could you say it again?
Raise your hand
Listen and repeat
Look, listen and repeat.
Don't open your book, please!
Don't talk in class!
Stand up, please!
Thank you! sit down, please !
Keep quiet/silent, please!
Be quiet, please!
Gợi ý
Let's start now.
What about if we translate these sentences?
You can leave question 1 out.
There is no need to translate everything.
Câu hỏi:
Do you agree with A?
Can you all see?
16
Are you sure?
Do you really think so?
Câu khen/ khích lệ
Well done
Very good
Perfect
Congratulation
Try your best
Excellent
b.5. Biện pháp thứ năm:
Kết hợp khăng khít nhà trường và gia đình ( Công tác xã hội hóa giáo
dục)
Để việc dạy – học Tiếng Anh đạt hiểu qủa cần sự giúp đỡ, kết hợp
chặt chẽ với gia đình. Với sự ra đời của thông tư 30 /2014/TTBGDĐT, phụ
huynh học sinh đã hiểu rõ và nhận thức được cách thức đánh giá học sinh
theo hướng đổi mới, không còn trường hợp băn khoăn hay thắc mắc gì về
việc không cho điểm học sinh, đa số đều đồng ý đó là cách giảm được áp
lực học tập cho các em, chỉ rõ những hạn chế của học sinh, phương hướng
giải quyết để gia đình, nhà trường, học sinh cùng phối hợp thực hiện. Đặc
biệt là kịp thời động viên, khuyến khích các em tích cực phát huy hết khả
năng của mình. Hơn thế phụ huynh càng có điều kiện để quan tâm con em
mình hơn, đồng hành cùng nhà trường trong việc học của con nhiều
hơn.Thời gian các em ở tại nhà rất nhiều, nếu tại gia đình các bậc phụ
huynh không quan tâm tới việc học Tiếng Anh của các em thì công sức thầy
cô giảng dạy cố gắng trên lớp xem như muối đổ biển. Phụ huynh cũng là
một kênh thông tin để đánh giá học sinh, có thể phản hồi lại những lời phê,
nhận xét của giáo viên.Và nhất là cuối học kỳ, phụ huynh cũng được trao
đổi về khen thưởng đối học sinh. Trẻ đang lứa tuổi ham chơi nên dễ quên
17
khi không được nhắc nhỡ ôn luyện. Một số phụ huynh quan tâm đến việc
học của các em nhưng phương pháp sử dụng chưa khoa học nên kết quả
không giúp con yêu môn Tiếng Anh mà nhận lại một kết quả hoàn toàn
ngược với mong muốn ban đầu. Sau đây là một vài mẹo nhỏ để những phụ
huynh chỉ nói tiếng Việt có thể giúp con mình luyện tập tiếng Anh tại nhà,
phụ huynh cần nhớ kĩ 2 điều sau: tích cực học và luyện tập đúng cách, tránh
quá tải các bài tập làm trên giấy.
Thế nào là tích cực học và luyện tập đúng cách?
Thường thì phụ huynh bắt con em mình thức dậy sớm mỗi sáng đề học
ngữ pháp, buổi tối sẽ là làm những bài tập ngữ pháp hay các bài nghe từ đĩa
CD, thậm chí theo học nhiều giáo viên một lúc. Và rồi họ băn khoăn vì sao
với lịch học dày đặc đó mà không thấy sự tiến bộ của các em khi giao tiếp
tiếng Anh hay vì sao các em không mạnh dạn nói tiếng Anh nhiều hơn khi
đến lớp.
Lý do dường như rất rõ ràng: bởi chính các bậc phụ huynh đã làm cho con
mình ghét tiếng Anh với một lịch học quá căng thẳng. Sau mỗi ngày làm
việc, không ai muốn tiếp tục phải làm quá nhiều bài tập về nhà. Do đó, giao
cho các em một núi bài tập về nhà sẽ biến việc học tiếng Anh thành một
hình phạt đáng sợ và hoàn toàn chán ngắt. Vốn dĩ việc học một ngôn ngữ
mở ra một cánh cổng đến với thế giới của ngôn từ, ý tưởng, giải trí, du lịch
và giáo dục. Các bà mẹ ép con mình làm nhiều bài tập bởi họ đều yêu con
mình và mong các em thành công. Tuy nhiên, phương pháp đó chỉ đơn giản là
phản tác dụng. Nếu trẻ không thích nói tiếng Anh thì chúng sẽ không bao
giờ nói. Và nếu trẻ không nói tiếng Anh thì sẽ không bao giờ có thể tiến bộ.
Vì sao cần tránh quá tải việc làm bài tập trên giấy?
Bài tập trên giấy chính là những cách luyện tập bị động, tuy có ích nhưng
tác dụng lại rất hạn chế. Bài tập trên giấy có thể giúp củng cố cấu trúc ngữ
pháp vừa học và một hoặc hai bài tập có thể giúp các em ghi nhớ ngữ pháp.
18
Nhưng không thể thực sự luyện một ngôn ngữ theo cách đó. Ví dụ như khi
bạn đã hoàn thành một lượng bài tập trên giấy về một cấu trúc mới học,
tiếp tục làm thêm những bài tập lặp lại tương tự sẽ hầu như không còn tác
dụng. Vì đó là lúc bạn cần vận dụng những cấu trúc đó trong giao tiếp, lắng
nghe mọi người sử dụng chúng và sử dụng trong văn viết. Phương thức
luyện tập này giúp kết nối não bộ của con người một cách hiệu quả và lâu
dài hơn những cách luyện tập thụ động.
c.Điều kiện thực hiện biện pháp.
Để thực hiện được các biện pháp này giáo viên Tiếng Anh và giáo viên chủ
nhiệm cũng như các bậc phụ huynh cần phối hợp với nhau để tiến hành
đông bộ. Trước khi thực hiện cần xác định những yêu cầu và mục đích của
việc thực hiện.
Đa dạng hoá về nội dung và hình thức tổ chức tiết học.
Thu hút tối đa sự tham gia của mọi học sinh dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ,
cố vấn của giáo viên nhằm tăng cường vai trò tự quản của học sinh.
d. Mối quan hệ giữa các biện pháp.
Các biện pháp này có một mối quan hệ biện chứng với nhau. Không thể
tách rời hoặc bỏ đi một biện pháp nào ở trên. Chỉ khi phối hợp các biện
pháp trên với nhau thì mới đem lại kết quả cao.
e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Năm học 20152016 là năm thứ tư tôi được phân công giảng dạy tiếng anh
ở khối 3 Trong ba năm tôi giảng dạy đã tiến hành áp dụng phương pháp học
mới vào khối ba.Vào đầu năm học 20152016 tôi đã tiến hành khảo sát, điều
tra và có trò chuyện với các em ở khối 3.Qua điều tra và trò chuyện tôi được
biết phần lớn các em mong chờ đến tiết học .
II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề
nghiên cứu.
19
Tôi đã tiến hành thăm dò 46 học sinh thuộc khối 3
Phiếu điều tra
Trước khi
áp dụng các
biện pháp
gây hứng
thú.
Sau khi áp
dụngcác
biện pháp
gây hứng
thú.
Kết quả điều tra:
Rất thích
46 học sinh
Trước khi áp dụng
SL
5
đề tài
Sau khi áp dụng
15
Thích
%
10,8
32,6
Bình thường
Không thích
SL
10
%
21,7
SL
10
%
21,7
SL
21
%
45,7
20
43,5
6
13,04
5
10,8
đề tài
Kết quả sau khi áp dụng các biện pháp mới thì kết quả thu được có phần
khả quan hơn trước. Đây là kết quả thu được từ học kì I năm học 20152016
như sau:
Kĩ năng nghe
4,5 5
SL %
Kĩ năng nói
3,5 4,25
SL
%
2,5 3,25
SL
%
61
Trước
8
17
10
30
28
Sau
15
33
15
33
16 20 35
1
SL
4
10
%
0,75
SL %
9
3
7
22
15
33
0,5
SL %
39
21
85
46
Kĩ năng đọc viết
3,75 – 4
Trước
Sau
2,75 3,5
2,0 2,5
< 2
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
4
8,7
9
19,6
13
28,3
20
43,4
14
30
16
35
12
26
4
8,7
Tổng hợp 4 kĩ năng
Hiệu quả của đề tài
Trước khi áp dụng đề tài
Sau khi áp dụng đề tài
Tổng điểm 4 kĩ năng
9 10
7 – 8
SL
%
SL
%
2
4,3
9
19,6
10
21,7
20
43,4
5 – 6
SL
%
35
76,1
16
34,8
Từ phiếu điều tra trước và sau khi áp dụng đề tài cho thấy 32,6% học
sinh rất thích môn tiếng anh, 43,5 % học sinh thích giờ học Tiếng Anh vì có
nhiều bài học hay, các em được tham gia các trò chơi vui nhộn. Điều này cho
thấy cách tổ chức và truyền tải nội dung hấp dẫn gây hứng thú dễ thu hút
được cho các em.Có 13,04% học sinh thấy giờ học bình thường và 10,8%
còn lưỡng lự lúc vui thì thích còn buồn thì không thích. Con số này cho thấy
rằng kiến thức môn học ít nhiều bổ ích cho các em và giáo viên cần chú ý
đến một số ít học sinh còn thơ ơ với môn học để kéo các em vào môn học
tốt hơn. Nhìn vào chất lượng học sinh ở học kỳ I cho thấy trước khi áp
dụng các biện pháp mới vào tiết học thì kết quả của các em rất thấp. Nhưng
khi áp dụng đề tài này trong học kỳ I đã thấy có biến chuyển rõ rệt.Số học
sinh chưa đạt ở các kỹ năng giảm đáng kể và số học sinh hoàn thành và hoàn
thành xuất sắc các kỹ năng tăng lên khá nhiều.
Đây là một trong những tiết học ở lớp tôi đã thực hiện
GIÁO ÁN CHI TIẾT
21
Unit 10: Our break time
Lesson 3: Write and Let’s sing
Period : 32
I.
Objectives:
By the end of this lesson, Ss will be able to express their ideas about
some specific games and activities at break time.
Support some weak pupils to how to write their ideas about some specific
games and activities at break time.
II. Language focus:
Sentence Patterns:
I don’t like playing football.
I like playing badminton.
III. Teaching aids:
Teacher’s aids: pictures, CD song, pupil’s book.
Student’s aids: book, notebook, workbook.
IV. Techniques: work in pairs, work in group, individual work ,
V. Procedures:
Procedures
I. Class organization: Hi everyone, How are you today?
Interaction
II. Warm up: Play game: “miming”
T divides class into 5 groups
Group work.
T gives some pictures about activities at break time.
T calls 5 students of each group go to the board, back
against the board.
Members in 5 groups have to use their mine to describe
the activity in each picture.
5 students who are in front of class have to look at their
group’s mine, guess and write the activities exactly and
quickly.
22
Winner will be a group who has many correct answers
Ask students to read the words again
III. New lesson:
3. Write:
Pre writing
( We have just played game about the activities at break
time)
Whole class
Introduce a context
Point to the picture and say “I like chatting with friends
And then continute with some pictures
Pict A: I like playing hide and seek
Pict B: I like playing chess
Give the conclusion
I like ……………………. (tôi thích làm…..)
Individual
E.g
I like reading.
Ask students to find out more examples.
Whole class
Do the same with “I don’t like”
Ask students to open their books on page 71.
Have students look at the pictures in this section to Pair work
identify the activities.
Ask students to read the examples before class.
Write the examples on the board.
Individual
I like playing badminton
I don’t like playing football. I like playing chess
Read the examples and ask students to listen and repeat.
Call some weak pupils to read again.
Individual
23
While – writing
Ask students to work in pairs and fill in the sentences 3
& 4 with teacher’s suggestion.
Whole class
3. I like……………………..
4. I don’t like……………….
Pair work
Call some students to read their answers before class
Check and give the correct answer
3. I like playing hide and seek.
4. . I don’t like playing chess.
Give two more pictures to students practice writing Whole class
(flying a kite(V) / riding a bike(X )
Ask students to compare their answers with their partners
Call students to give their answer before class.
Group work
Check and give comment weak pupils’ writings
Pair work
Correct.
I like flying the kite.
I don’t like riding a bike
Check students' comprehension.
Have the whole class read chorally to reinforce their
Whole class
pronunciation.
Post – writing
Have students play the game “ Pass the ball” by using
the model parterns.
Guide the rule of the game.
When students listen to music they have to pass the ball to
their friends’ hands.If music is stopped,a student with the
ball in hand has to talk a sentence with
I like ………………….
Whole class
24
I don’t like……………
4. Let’s sing:
Put the poster of the song on the board. Tell students that
Individual
they are going to listen a song.
Ask students to answer some questions for students
identify the characters in the picture:
Who are they? What are they doing ?
Play the recording the first time for students to listen.
Play the recording again for Ss to listen and repeat each
line of the song.
Whole class
Call each team sing the song again.
Have students play game “ The voice kids”
Guide the rule of the game.
3 students from each team are going to join a music Teamwork
contest with the name “The voice kids”
3 members are going to sing a song in front of the class.
Individual
A winner will be a person with the majority votes .
5.
Reinforcement
Read some sentences and ask students to make:
+ A happy face with the sentences: I like…..
Whole class
+ A sad face with the sentences: I don’t like….
HOMELINK:
Asks Students to practice singing the song.
Whole class
Do exercise in Work Book.
* Comment:
……………………………………………………….…
III. Phần kết luận, kiến nghị:
25