ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÁT
TRIỂN NHẬN THỨC CHO TRẺ 5 6 TUỔI THÔNG QUA HOẠT
ĐỘNG KHÁM PHÁ KHOA HỌC TRƯỜNG MẦM NON KRÔNG ANA
I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Con người là sản phẩm của sự phát triển tự nhiên và xã hội. Trẻ em
cũng vậy, nhưng so với người lớn, trẻ khác ở chỗ, trẻ là sản phẩm chưa hoàn
hảo, một mặt trẻ mang trong mình những tiềm năng kì diệu về năng lực trí
tuệ và bản tính tốt đẹp của con người. Nhưng mặt khác, mặc dù có nhiều
yếu tố tạo điều kiện thuận lợi đối với sự phát triển của đứa trẻ, nhưng cũng
có những yếu tố làm cản trở sự hòa nhập của trẻ đối với cộng đồng, đó là
những yếu tố di truyền từ tổ tiên loài người. Một trong những yếu tố nổi bật
nhất là: tính cá nhân, tính ích kỉ, tính tham lam ...
Muốn cho trẻ em trở thành người lớn theo đúng ý nghĩa của từ này,
nghĩa là con người lớn khôn để trở thành chủ thể trong việc xây dựng và cải
tạo môi trường sống, thì nhất định phải có sự tác động giáo dục của người
lớn ngay từ khi đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời.
Hơn thế nữa, nhiều công trình nghiên cứu khoa học của các nước cho
thấy, trí thông minh và tính cách của mỗi con người đã dược hình thành 50%
từ 0 – 2 tuổi, đến 3 tuổi thì đã hình thành được 60% và đến 6 tuổi hình thành
được 80%. Nếu có sự tác động của giáo dục, những số liệu trên mới thực sự
có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt. Thông thường, người lớn ở bên cạnh
trẻ em mới chỉ khai thác được khoảng 6% tiềm năng kì diệu sẵn có. Dưới tác
động của giáo dục, phải là giáo dục với phương pháp khoa học, thì các số
liệu trên có thể cao hơn nữa. Khi đó, đứa trẻ chắc chắn sẽ trở thành người
lớn có đủ năng lực sử dụng, xây dựng và cải tạo tự nhiên.
1
Trong cuộc sống hàng ngày, muốn tồn tại và phát triển, trẻ em phải tiếp
cận với môi trường xung quanh. Trong quá trình tiếp cận ấy, các sự vật và
hiện tượng xung quanh là những đối tượng để cho trẻ tìm hiểu, nhận xét và
mở mang hiểu biết. Quá trình nhận biết này, nếu trẻ được người lớn, các cô
giáo, thầy giáo tổ chức, hướng dẫn một cách khoa học thì quá trình nhận biết
ấy sẽ phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nhu cầu hiểu biết của trẻ về
môi trường xunh quanh sẽ được thỏa mãn.
Mặt khác, thực tiễn là nguồn gốc và thước đo của chân lí. Nếu không
tôn trọng thực tiễn thì việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh sẽ là
giáo điều và máy móc.
Mỗi nhà trẻ, trường lớp mẫu giáo có hoàn cảnh thực tế khác nhau. Cần
phải lựa chọn đối tượng, nội dung và phương pháp sao cho phù hợp với thực
tế của mỗi trường, lớp và mỗi địa phương. Cần nghiên cứu đặc điểm về môi
trường tự nhiên và môi trường văn hóa trước khi tiến hành cho trẻ làm quen
với môi trường xung quanh. Chính vì những lí do trên tôi chọn đề tài “Một số
biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển nhận thức cho trẻ 5 – 6 tuổi
thông qua hoạt động khám phá khoa học” để nghiên cứu và áp dụng nhằm
nâng cao chất lượng giảng dạy cho đội ngũ giáo viên của trường.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Với đề tài này nhằm bồi dưỡng cung cấp thêm cho giáo viên một số
kiến thức, kỷ năng để tổ chức hướng dẫn trẻ khám phá khoa học có hiệu quả
hơn. Kiến thức cung cấp cho trẻ phải có trình tự, hợp lý và thống nhất, đồng
thời phải chính xác, thiết thực và mang tính ứng dụng cao. Việc hình thành và
rèn luyện cho giáo viên kĩ năng tổ chức, tiến hành một số hình thức cho trẻ 5
– 6 tuổi khám phá khoa học ở trường mầm non là rất cần thiết, giúp giáo viên
phải tự giác học hỏi trong thực tiễn, sáng tạo và biết tự rút kinh nghiệm.
Muốn cho trẻ hứng thú tìm tòi khám phá sự vật xung quanh thì người giáo
2
viên phải biết truyền cảm xúc của mình cho trẻ, phải dạy trẻ bằng chính thái
độ và hành vi ứng xử của mình đối với môi trường xung quanh.
Sử dụng môi trường xung quanh, thông qua hoạt động khám phá khoa
học để phát triển toàn diện cho trẻ nhất là lĩnh vực phát triển nhận thức. Sự
nhận biết của trẻ về môi trường xung quanh còn mang nặng cảm tính và tính
trực quan hành động. Việc cung cấp tri thức cho trẻ về các sự vật hiện tượng
không chỉ dừng lại ở mức độ biểu tượng, mà cần tăng cường yếu tố trực
quan sinh động và hấp dẫn. Việc tổ chức cho trẻ khám phá khoa học phải
đưa ra các biện pháp hữu ích và phải quán triệt được một điều là, trẻ phải
được nói và làm, giáo viên không nên nói và làm thay trẻ (nhất là trẻ 5 – 6
tuổi).
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là một số biện pháp chỉ đạo nâng
cao chất lượng phát triển nhận thức cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động
khám phá khoa học
4. Giới hạn của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là một số biện pháp chỉ đạo nâng cao
chất lượng phát triển nhận thức
Phạm vi đối tượng: Học sinh 5 – 6 tuổi trường Mầm non Krông Ana
Phạm vi thời gian: Năm học 2016 2017
5. Phương pháp nghiên cứu
a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu
Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập.
b. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
3
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Phương pháp trao đổi đàm thoại.
c. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp điều tra số liệu.
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lý luận
Thế giới xung quanh thật đa dạng, phong phú, muôn hình, nhiều vẻ,
vốn tri thức trẻ thu hoạch được chưa thấm tháp vào đâu và còn nhiều điều
thiếu chính xác, chưa hệ thống và sâu sắc. Chính vì thế, mở rộng sự hiểu biết
cho trẻ cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các thầy, cô giáo
cũng như của người lớn nói chung.
Trong cuộc sống hàng ngày, trẻ đã tích lũy được một vốn tri thức và
kinh nghiệm sống, điều quan trọng là tổ chức cho trẻ biết sử dụng vốn tri
thức và kinh nghiệm ấy vào các hoạt động vui chơi, hoạt động, lao động và
sinh hoạt. Trong quá trình ấy, cần giúp trẻ gọi tên chính xác các sự vật và
hiện tượng, đồng thời nhận biết những dấu hiệu ngoài cơ bản, có ý nghĩa
trong việc xác định đối tượng. Ngoài ra cần giúp trẻ tích lũy vốn tri thức một
cách hệ thống, tổng hợp và khái quát.
Muốn mở rộng sự hiểu biết cho trẻ, cần tổ chức cho trẻ hoạt động
nhận biết những sự vật và hiện tượng mới lạ, đồng thời khám phá những
mối quan hệ đơn giản giữa chúng.
Mặt khác trẻ em có tính tìm tòi, tính ham hiểu biết sẽ thôi thúc chúng
tích cực hoạt động. Phát triển óc tìm tòi, tính ham hiểu biết ở trẻ sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho việc lĩnh hội kiến thức khoa học ở trường phổ thông sau
4
này. Đứa trẻ lớn lên sẽ có lối sống thực tiễn, sâu sắc, phong phú, linh hoạt,
sáng tạo và chủ động, không sống hời hợt, tẻ nhạt. Vì vậy, phát triển nhận
thức là phát triển óc tìm tòi, tính ham hiểu biết của trẻ thông qua hoạt động
khám phá khoa học, là một yêu cầu rất cần thiết.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Trường mầm non Krông Ana là một trường trọng điểm của ngành học
mầm non. Có cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi tương đối đầy
đủ. Đội ngũ giáo viên đa số đã có bề dày kinh nghiệm trong công tác giảng
dạy. Có nhiều giáo viên trẻ, linh hoạt, sáng tạo, có khả năng truyền thụ kiến
thức cho trẻ một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên (nhất là giáo viên lớn tuổi, giáo
viên mới ra trường). Khi tiếp cận với chương trình giáo dục mầm non (mới),
việc tổ chức hướng dẫn cho trẻ hoạt động còn cứng nhắc, rập khuôn, máy
móc (nhất là cho trẻ khám phá khoa học) giáo viên chưa có kỹ năng, thủ thuật
để gây hứng thú cho trẻ khi hoạt động.
Khi vận dụng đề tài này, giáo viên sẽ có những kiến thức cơ bản,
những biện pháp, những kỹ năng để truyền thụ những kiến thức về môi
trường xung quanh cho trẻ một cách có hệ thống. Tính hệ thống ở đây là, hệ
thống các đối tượng từ gần đến xa, từ dễ đến khó, đó là tính đồng tâm phát
triển trong chương trình giáo dục mầm non.
Chương trình cho trẻ khám phá đối tượng xung quanh. Giáo viên đã biết
lựa chọn khối lượng kiến thức dạy trẻ phải tăng dần một cách thích đáng. Từ
các sự vật hiện tượng gần gũi cụ thể, quen thuộc đến khối kiến thức khái
quát về những đối tượng ở trong một môi trường rộng lớn hơn.
Tuy nhiên với những nội dung của đề tài này, nếu giáo viên không chịu
khó suy nghĩ, rèn luyện kỹ năng để vận dụng vào thực tế thì nhiều hoạt động
cho trẻ khám phá khoa học không đạt được hiệu quả cao.
5
Với nội dung của đề tài này giáo viên đã biết vận dụng trong quá trình
hướng dẫn trẻ hoạt động. Tổ chức cho trẻ 5 – 6 tuổi khám phá môi trường
xung quanh với nhiều hình thức khác nhau như hình thức trong tiết học, hay
hoạt động ngoài trời, đi dạo, đi tham quan đều vận dụng các biện pháp mà đề
đưa ra để dạy trẻ, nhằm giúp trẻ hoạt động tích cực. Trẻ biết phân tích, tổng
hợp và khái quát hóa tri thức đã thu lượm được, đồng thời trẻ biết thao tác,
hành động và hoạt động với các đối tượng của môi trường xung quanh.
Song nếu giáo viên không chịu khó suy nghĩ, đầu tư xây dựng môi
trường hoạt động cho trẻ, không có sự linh hoạt sáng tạo khi vận dụng các
nội dung biện pháp của đề tài thì việc tổ chức hướng dẫn trẻ hoạt động
khám phá khoa học ở trường mầm non vẫn chưa đạt hiệu quả.
Với nội dung đề tài này đã đưa ra các biện pháp thực tiễn, dễ thực hiện.
Đã có sự lựa chọn nội dung, các phương pháp biện pháp và hình thức phù hợp
cho trẻ khám phá đối tượng. Tiến hành phân tích tổng hợp tìm ra được những
ưu điểm, hạn chế của giáo viên hay của trẻ, để tổ chức cho trẻ khám phá
khoa học có hiệu quả hơn.
Từ những khó khăn bất cập về việc cho trẻ 5 6 tuổi khám phá khoa
học. Muốn thành công và hạn chế những vấn đề yếu kém, và tìm ra được
nguyên nhân để khắc phục, cần phải thường xuyên phân tích và tổng kết kinh
nghiệm giảng dạy. Cần có sự lựa chọn nội dung phương pháp, biện pháp và
các. hình thức cho trẻ tiếp cận với môi trường xung quanh. Tiến hành phân
tích tổng hợp tìm ra những nguyên nhân ưu điểm hạn chế của cá nhân hay tập
thể sư phạm trong quá khứ để tổ chức cho trẻ 5 6 tuổi khám phá khoa học ở
trường mầm non được tốt hơn.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a. Mục tiêu của giải pháp
6
Các giải pháp biện pháp đưa ra sẽ giúp cho giáo viên có thêm kỹ năng
thủ thuật để tổ chức cho trẻ khám phá sự vật hiện tượng xung quanh trẻ có
hiệu quả, làm cho việc tiếp thu kiến thức của trẻ trở nên dễ dàng và sự ghi
nhớ của trẻ trở nên bền vững và chính xác.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Thứ nhất: Hướng dẫn giáo viên thực hiện các phương pháp, biện pháp
trực quan.
* Đối với phương pháp quan sát:
Phương pháp quan sát là phương pháp quan trọng nhất trong nhóm trực
quan, là phương pháp tổ chức cho trẻ tri giác các sự vật và hiện tượng xung
quanh (hoặc những đồ dùng trực quan thay thế) một cách có mục đích và có
kế hoạch.
Tùy tình hình thực tế, giáo viên phải dùng một hoặc hai thủ thuật nhằm
kích thích hứng thú quan sát của trẻ. Giáo viên có thể dùng các thủ thuật như
đặt một hoặc hai câu hỏi trước khi quan sát; giải một hoặc hai câu đố; chơi
một trò chơi; hát; xem mô hình; vẽ; gây tình huống bất ngờ…
Khi trẻ đang hứng thú quan sát, giáo viên đưa đối tượng ra trước mặt
trẻ. Sau đó, nên tổ chức cho trẻ thao tác hay hành động hoặc hoạt động với
đối tượng. Tùy từng đối tượng và lứa tuổi trẻ em, thời gian này nên để nhiều
hay ít. Nhưng tốt nhất là tất cả trẻ em đều phải được làm, trong điều kiện
không cho phép thì có thể tổ chức cho một số em làm, những em còn lại phải
theo dõi, bắt chước và nhận xét.
Ví dụ: Quả cam đâu?Vỏ đâu? Múi đâu? Muốn ăn được quả cam con
phải làm như thế nào ? Con gà đâu? Cái thìa đâu? Cái cốc đâu? .
Khi trẻ chỉ tay không đúng hoặc gọi tên sai, giáo viên phải sửa ngay cho
trẻ.
7
Về trình tự hướng dẫn quan sát, không nên máy móc, cần phải dựa vào
sở thích của trẻ, trẻ thích cái gì nhất thì nên cho trẻ tri giác cái ấy trước. Sau
đó đối với mỗi đối tượng và mỗi lứa tuổi trẻ em, nên tổ chức trình tự tri giác
cho hợp lí. Bên cạnh đó, trình tự tri thức đối tượng còn phụ thuộc vào hình
thức tiến hành, đó là tiết học hay buổi chơi hoặc dạo chơi.
* Sử dụng tranh ảnh:
Đối với trẻ 5 – 6 tuổi cần sử dụng tranh cở lớn. Tranh ảnh loại này cần
phải treo lên bảng, giáo viên dùng thước chỉ và nêu các câu hỏi để hướng dẫn
trẻ tri giác. Những câu hỏi phải có tác dụng kích thích hững thú tri giác và rèn
luyện tư duy.
Ví dụ: Các con nhìn thấy những gì trong bức tranh này? Bức tranh này
vẽ về mùa nào? Tại sao các con lại biết bức tranh này vẽ về mùa đông?...
* Sử dụng mô hình:
Mô hình có thể làm bằng bìa cứng, gỗ, nhựa và đôi khi người ta còn sử
dụng vật thật. Mô hình phải mang tính tổng hợp, sinh động và hấp dẫn đối
với trẻ. Trẻ có thể đứng xung quanh mô hình và giáo viên hướng dẫn chúng
tri giác đối tượng. Nếu số lượng trẻ em đông, giáo viên nên phân nhóm và lần
lượt hướng dẫn từng nhóm một.
* Sử dụng băng âm và băng hình:
Nội dung các băng âm và băng hình phải phục vụ mục đích và nội dung
cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh. Giáo viên nên có kế hoạch ghi,
tuyển chọn các băng âm và băng hình phù hợp với nội dung giáo dục và đặc
điểm tâm lí của trẻ em ở lứa tuổi mầm non 5 6 tuổi. Giáo viên cũng cần
phải biết kĩ thuật sử dụng các loại băng âm và băng hình này và lựa chọn các
hình thức tổ chức thích hợp đối với mỗi loại băng âm và băng hình.
* Sử dụng phim đèn chiếu:
8
Khi sử dụng phim đèn chiếu thì nội dung phải phục vụ một chủ đề nào
đó của lĩnh vực làm quen với môi trường xung quanh.
Ví dụ: Sự nảy mầm của hạt; sự sinh trưởng và phát triển của cây cối;
động vật hoạt động dưới nước; không khí của buổi lễ, hội…
Nội dung phim đèn chiếu có tác dụng củng cố và mở rộng sự hiểu biết
của trẻ về thế giới xung quanh. Nó cũng có tác dụng tích lũy tri thức cho trẻ
để có thể đàm thoại hoặc hiểu những điều giáo viên giải thích.
Khi sử dung đèn chiếu, màn ảnh phải đặt ngang tầm mắt trẻ em. Động
tác điều khiển đèn chiếu phải từ từ, hình ảnh không nên chuyển động quá
nhanh để trẻ có thể kịp tri giác các hình ảnh đang chuyển động trên màn hình.
Lời thuyết minh của giáo viên có tính chất giảng giải, chỉ dẫn, kích thích sự
tập trung chú ý của trẻ và hướng dẫn trẻ tri giác đối tượng, phục vụ mục
đích và yêu cầu đã xác định.
Thứ hai: Hướng dẫn giáo viên thực hiện các phương pháp dùng lời nói
* Phương pháp đàm thoại:
Là quá trình tổ chức hỏi và đáp giữa giáo viên và trẻ em một cách có
mục đích và kế hoạch.
Đàm thoại trong lúc quan sát:
Là quá trình hỏi và trả lời của giáo viên và trẻ em diễn ra trong bối
cảnh đối tượng trực quan đang tồn tại trước mặt.
Quá trình quan sát luôn luôn phải phục vụ mục đích và yêu cầu đã xác
định. Muốn vậy, giáo viên phải dùng hệ thống các câu hỏi trong quá trình
quan sát. Câu hỏi và biện pháp, vì nó có tác dụng hướng dẫn trẻ tri giác.
Nhưng câu hỏi còn có khi là thủ thuật, vì nó, có tác dụng kích thích sự tập
trung chú ý tri giác đối tượng của trẻ. Đôi khi, câu hỏi còn có tác dụng làm
9
cho trẻ tri giác đối tượng kĩ hơn, sâu hơn và phát hiện ra những điều mới lạ
của đối tượng.
Ví dụ: Đây là con gì? Lông nó có màu gì? Thế nào là lông nhẹ và xốp?
Tại sao nó lại bay được? Nó ấp trứng như thế nào?....
Có những câu hỏi yêu cầu trẻ phải so sánh, phân tích, tổng hợp và khái
quát hóa đối tượng. Đặc biệt, có những câu hỏi nhằm rèn luyện và phát triển
trí thông minh của trẻ, đó là những câu hỏi có tính tư duy trừu tượng. Những
câu hỏi này còn có tác dụng làm cho trẻ em nhạy bén trong tri giác đối tượng
và nắm chắc đối tượng hơn.
Ví dụ : Bông hoa có màu tím trong lọ hoa tên là gì? Hoa bằng lăng trong
lọ hoa có màu gì? (Nhưng thực ra không có hoa bằng lăng).
* Đàm thoại sau khi quan sát ngắn:
Đàm thoại sau khi quan sát ngắn là quá trình hỏi và trả lời của giáo viên
và trẻ em diễn ra trong bối cảnh không còn đối tượng trực quan trước mặt trẻ
Trước hết, giáo viên cần phải hiểu rõ ý nghĩa và sự cần thiết đối với
việc đàm thoại sau khi quan sát ngắn. Tổ chức cho trẻ đàm thoại sau khi quan
sát ngắn có tác dụng tăng cường trí nhớ, cũng cố và làm sâu sắc hơn những
điều trẻ vừa quan sát được. Đồng thời, hệ thống lại những tri thức trẻ đã lĩnh
hội trong lúc quan sát, mở rộng sự hiểu biết của trẻ về đối tượng, giáo dục
thẩm mỹ và đạo đức sâu sắc hơn.
Đối với trẻ 5 6 tuổi, cho trẻ quan sát cần phải tiến hành nhanh gọn, vì
trẻ đã có óc quan sát tốt. Nhưng đàm thoại sau khi quan sát lại có tầm quan
trọng đặc biệt. Giáo viên phải chú ý coi trọng quá trình đàm thoại này.
Muốn đàm thoại, giáo viên phải tổ chức cho trẻ ngồi theo hình vòng
cung, không khí giữa giáo viên và trẻ nên gần gủi, thân mật và cỡ mở.
10
Hệ thống câu hỏi nhằm cũng cố những nội dung chính của quá trình
quan sát.
Mở rộng sự hiểu biết của trẻ về các đối tượng vừa được quan sát.
Rèn luyện và phát triển lời nói mạch lạc, giáo dục thẩm mỹ và đạo đức cho
trẻ.
Ví dụ: Một số con vật nuôi trong gia đình, đối với trẻ từ 5 6 tuổi
Các con vừa được xem những con vật gì?
Những con vật này sống ở đâu?
Những con vật này có mấy chân?
Lông của những con vật này như thế nào?
Thế nào là gia súc?
Các con biết những con vật nào là gia súc?
Những con vật gia súc nào ăn cỏ?
Chúng ăn như thế nào? Những con gia súc nào ăn thịt?
Cách chăm sóc nó như thế nào?
* Đàm thoại theo chủ đề :
Là quá trình hỏi và trả lời của giáo viên và trẻ về những đề tài tổng
hợp như: cây xanh, động vật sống khắp nơi, mùa đông, phương tiện giao
thông…
Trước khi tiến hành đàm thoại chủ đề, giáo viên cần giúp trẻ em tích
lũy tri thức trước.
Ví dụ : Trước khi đàm thoại về mùa đông giáo viên cần phải tổ chức
cho trẻ dạo chơi, xem tranh ảnh, trò chuyện, kể chuyện về thời tiết, khí hậu,
cây cối, hoa quả..
11
Đồ dùng trực quan cũng cần phải chuẩn bị nhưng không quan trọng
bằng việc tích lũy tri thức. Hệ thống câu hỏi, giáo viên phải chuẩn bị chu đáo
trước khi tiến hành đàm thoại. Câu hỏi đàm thoại cần gắn gọn, rõ ràng, đúng
ngữ pháp và có tác dụng rèn luyện, phát triển tư duy của trẻ. Không đặt
những câu hỏi chỉ yêu cầu trẻ trả lời có hoặc không. Câu hỏi cần phải phù
hợp với trình độ nhận biết của trẻ ở lứa tuổi 5 6 tuổi.
Khi bắt đầu đàm thoại, giáo viên nên dùng một hai thủ thuật để kích
thích hứng thú học tập của trẻ. Khi hỏi trẻ giáo viên phải nhìn vào mặt tất cả
mọi trẻ trong lớp, câu hỏi khó nên đặt đối với trẻ khá giỏi, câu hỏi dễ nên đặt
cho trẻ yếu kém, không nên chỉ tập trung gọi đi gọi lại một vài trẻ em trong
lớp, tất cả trẻ em đều được tham gia đàm thoại. Đối với câu hỏi khó trẻ em
không trả lời được, giáo viên phải đặt câu hỏi phụ. Khi trẻ trả lời được câu
hỏi phụ, giáo viên lại hỏi lại câu hỏi khó vừa rồi. Giáo viên cần phải biết
dẫn dắt trẻ trở về đề tài đàm thoại khi câu trả lời của trẻ đi xa đề.
Trong quá trình đặt câu hỏi với trẻ, lời nói của giáo viên phải diễn
cảm, trìu mến, phải có những thủ thuật khích lệ, động viên khuyến khích trẻ
trả lời. Trong quá trình đàm thoại, xen kẽ hỏi và trả lời, giáo viên có thể sử
dụng đồ dùng trực quan hay một số biện pháp khác phối hợp. Nhưng khi sử
dụng chúng cần phải nhanh gọn tránh lạm dụng. Câu trả lời của trẻ yêu cầu
phải gắn gọn, rõ ràng, diễn cảm, không lan man và đúng ngữ pháp. Câu trả
lời phải to vừa phải, không ê, a, không nên nói như hét hoặc không nói lí nhí
trong cổ họng. Khi trẻ trả lời câu hỏi phải nhìn vào mặt người hỏi, tư thế tự
tin, không cho ngón tay vào miệng…
Đối với tất cả quá trình đàm thoại nói trên, tùy từng tình huống cụ thể,
giáo viên phải đạo điều kiện và khuyến khích trẻ em đặt câu hỏi lại đối với
giáo viên và các bạn trong lớp.
Ví dụ: Về cây xanh (đối với trẻ 5 6 tuổi)
12
Cho trẻ hát một bài về cây cối hoặc hoa quả. Tổ chức cho trẻ chơi trò
chơi “Hãy kể tên 3 thứ”, hãy kể tên 3 loại cây cảnh. Hoặc giáo viên có thể
khuyến khích trẻ đọc câu hỏi : Các con có muốn hỏi gì về cây cối ở xung
quanh chúng ta không?
* Đối với biện pháp dùng lời nói:
Câu hỏi trò chuyện phải thật ngắn gọn với nội dung đơn giản và dễ
hiểu. Có những câu hỏi bắt buộc trẻ phải trả lời, nhưng có những câu hỏi trẻ
em không cần phải trả lời nhưng vẫn phải suy nghĩ.
Đối với trẻ em cá biệt (giỏi hơn, kém hơn có hoàn cảnh đặc biệt). Giáo
viên dùng biện pháp trò chuyện để nâng cao trình độ nhận biết của trẻ, đáp
ứng nhu cầu hiểu biết của chúng hoặc để giáo dục cá biệt. Trò chuyện cũng
có tác dụng cũng cố mở rộng hiểu biết và trích lũy tri thức cho trẻ.
Giải thích là biện pháp cần thiết với tất cả các hình thức cho trẻ làm
quen với môi trường xung quanh. Giáo viên dùng lời nói ngắn gọn súc tích đê
giảng giải cho trẻ
Hiểu sâu sắc hơn về đối tượng. Nhưng không nên lạm dụng biện pháp này ,
vì nó làm cho quá trình nhận biết đối tượng của trẻ căng thẳng, mệt mỏi. Các
đối tượng có xung quanh chúng ta thật đa dạng và phong phú , nhiều khi chỉ
cần trẻ em cảm nhận được chúng chưa cần trẻ em hiểu được tất cả .
* Sử dụng những tác phẩm văn học trẻ em
Giáo viên tuyển chọn một số tác phẩm văn học trẻ em như truyện, thơ, ca
dao, đồng dao, câu đố và tục ngữ có nội dung phù hợp với mục đích cho trẻ
làm quen với môi trường xung quanh để sử dụng trong các tiết học, buổi chơi,
buổi dạo chơi và khi tổ chức các ngày lễ, hội.
Tùy từng chủ đề, từng đối tượng, giáo viên có thể sử dụng đồng dao,
ca dao phù hợp.
13
Ví dụ: Khi cho trẻ khám phá về quả khế, giáo viên sử dụng câu đố:
“Quả gì năm cánh
Xếp thành hình sao
Bé nếm thử nào
Ôi sao chua quá”
Hoặc khi cho trẻ khám phá con cua, giáo viên dùng câu đố:
“Con cua tám cẳng hai càng
Không đi mà lại bò ngang cả ngày”
Trẻ đoán ngay được là con cua và hình thành ngay biểu tượng về con
cua: Con cua có hai càng to, có tám chân và bò ngang.... tiếp theo giáo viên có
thể đặt câu hỏi gợi mở: “Các con có biết con cua đi như thế nào không?” để
trẻ trả lời. Như vậy không những trẻ biết được đặc điểm của con cua mà còn
biết môi trường sống của chúng, cách vận động, các bộ phận của con cua ra
sao. Khi đã năm rõ đặc điểm, trẻ quan sát dễ hơn, từ đó so sánh rõ ràng và
phân loại cũng tốt hơn.
Hoặc có những bài thơ giúp trẻ làm quen với các hiện tượng tự nhiên,
như bài thơ “Cầu vồng” giúp trẻ biết đặc điểm và vẻ đẹp rực rỡ của cầu
vồng.
“Mưa rào vừa tạnh
Tím, xanh, vàng, đỏ...
Có cái cầu vồng
Ồ! Hai cái cơ
Ai vẽ cong cong
Cái rõ, cái mờ
Tô màu rực rỡ:
Ai tài thế nhỉ?”
Thứ ba: Hướng dẫn giáo viên thực hiện các phương pháp, biện pháp
thực hành.
Các phương pháp, biện pháp thực hành là tổ chức cho trẻ hoạt động để
tìm tòi kiến thức mới hay vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn,
14
vừa để cũng cố kiến thức, vừa tạo nên một hệ thống các kỷ năng, kỷ xảo
thực hành. Nguồn kiến thức đem đến cho trẻ là thông qua hoạt động thực
tiễn.
*Phương pháp tìm kiếm, phát hiện
Đây là phương pháp mà giáo viên phải tổ chức cho trẻ hoạt động
trong thực tiễn để tìm tòi, khám phá và phát hiện những điều mới lạ về các
sự vật và hiện tượng qua một số thí nghiệm đơn giản.
Ví dụ: Về nước (trẻ từ 5 6 tuổi)
Trẻ nhận biết được tên gọi, màu sắc, mùi vị của nước. Trẻ thấy được
hiện tượng nước bốc hơi và nguyên nhân của sự bốc hơi này. Trẻ hiểu được
sự tuần hoàn của nước và giáo dục trẻ thấy được lợi ích của nước đối với
con người, cây cối và động vật.
+ Tổ chức cho trẻ hoạt động:
Giáo viên và trẻ em, mỗi người (hoặc 2 3 người) phải có ở trên bàn,
trước mặt một cốc nước (cốc thủy tinh trong) và từ 5 7 băng giấy màu đỏ,
lam, chàm, tím, vàng, trắng.
Giáo viên nói: Đố các con, nước ở trong cốc có màu gì? Mùi gì? Vị gì?
Muốn biết điều đó phải làm như thế nào?
Giáo viên hướng dẫn trẻ và cùng nhau làm: Muốn biết nước có màu gì
thì phải so sánh màu của nước với các băng giấy, xem nước giống màu của
băng giấy nào. Giáo viên làm trước, trẻ em làm theo, so sánh từng băng giấy
màu với nước trong cốc bằng cách đặt băng giấy ở cạnh và dọc theo cốc
nước. Muốn biết nước có vị gì thì dùng que tăm sạch để nếm một ít nước.
Giáo viên nói tiếp: Đố các con tại sao nước lại bốc hơi được?
Muốn biết điều này, tất cả các con phải xem cô làm đây:
15
Cho trẻ xem một cái xoong mới và trắng tinh, nắp xoong thật khô ráo.
Cho nước vào ½ xoong, không đật nắp, đun trên bếp giầu hoặc bếp ga, lưu ý
trẻ nhìn kĩ để thấy hiện tượng xảy ra.
Sau đó giáo viên lại nói tiếp: Bây giờ các con nhìn xem hơi nước lại
biến thành nước như thế nào nhé.
Giáo viên làm tiếp: Đậy nắp xoong, tiếp tục đun, không ít phút sau, giáo
viên mở nắp xoong và chỉ cho trẻ xem những giọt nước đọng dưới nắp (làm
như vậy 2 3 lần). Giáo viên giải thích cho trẻ về hiện tượng này.
+ Tổ chức đàm thoại:
Nước có màu gì?
Nước có mùi gì?
Nước có vị gì?
(Dạy trẻ mẫu câu: Nước không màu, không mùi, không vị)
Tại sao nước lại bốc hơi được?
Hơi nước bay đi đâu?
Khi nào hơi nước biến thành nước?
Như vậy, thủ thuật sử dụng thí nghiệm cho trẻ trực tiếp làm hay trực
tiếp quan sát tạo ghi nhớ lâu ở trẻ. Trẻ đưa ra được những kết luận từ thực
tế. tùy theo đề tài cụ thể, giáo viên có thể đưa ra những thí nghiệm phù hợp,
tạo sự tò mò tìm hiểu ở trẻ. Đồng thời trẻ ghi nhớ và nắm vững kiến thức đó
được sâu hơn.
Thứ tư: Hướng dẫn giáo viên làm giàu vốn hiểu biết cho trẻ về môi
trường xung quanh
Thông qua các cuộc dạo chơi quanh vườn trường, cô cùng trẻ đàm
thoại về các loại cây trong vườn trường (cây gì? Cây có những bộ phận nào?
16
Lá cây này như thế nào? Cây được trồng để làm gì?...) cho trẻ nói lên những
suy nghĩ của mình khi đi dạo quanh vườn cây. Bằng cách liên hệ thực tế, cô
còn giúp trẻ hiểu được cây xanh là nguồn cung cấp nguyên liệu làm nên các
sản phẩm : tủ, bàn ghế, giường…. những loại cây này rất quý hiếm và trồng
trong rừng. Qua đó, giáo dục trẻ về việc bảo vệ tài nguyên rừng, tuyên truyền
không khai thác bừa bãi, không chặt phá rừng.
Thông qua việc xem tranh ảnh liên quan đến môi trường, tranh sưu tầm,
hình ảnh tìm kiếm trên mạng, cho trẻ thấy được sự tương phản giữa môi
trường có nhiều cây xanh và môi trường thiếu cây xanh. Qua đó, cho trẻ nói
lên những suy nghĩ của mình vè hai môi trường đó. Từ đó rút ra kết luận.
Có nhiều loại cây: cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây cho bóng mát, cây ăn
rau, cây làm thuốc. Giáo viên cho trẻ biết ăn rau nhiều sẽ cung cấp vitamin
cho cơ thể và giúp cho da dẻ hồng hào. Tuy công dụng khác nhau nhưng quá
trình sinh trưởng và phát triển của chúng tương đối giống nhau.
Tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động:
Vẽ, tô màu, cắt dán ảnh về cây xanh.
Xây mô hình vườn cây.
Chơi trò chơi : “Cây nào, quả ấy”, “gắn quả cho cây”…
Sau khi cung cấp kiến thức cơ bản về cây xanh, cô và trẻ cùng dành
một khoảng thời gian để thảo luận cùng nhau, cô đặt ra tình huống cho trẻ
giải quyết:
Cây cần gì để lớn lên?
Để có những loại quả ngon cho chúng ta ăn, chúng ta cần phải làm gì?
Nếu không có cây xanh thì môi trường sẽ như thế nào?
Rừng cung cấp gì cho chúng ta? Nếu rừng bị tàn phá thì ảnh hưởng gì?
17
Để trẻ dễ dàng tiếp nhận vấn đề, trong quá trình sinh hoạt hàng ngày,
cô giới thiệu cho trẻ về đối tượng mới để trẻ tiếp nhận. Qua đó, giáo dục trẻ
về vấn đề chăm sóc, bảo vệ cây xanh. Nếu khai thác, chặt phá cây xanh bừa
bãi sẽ gây lũ lụt, ô nhiễm môi trường. Như vậy vừa tuyên truyền việc trồng
cây gây rừng cho trẻ hiểu.
Thứ năm: Hướng dẫn giáo viên xây dựng góc “Bé với thiên nhiên”
Xây dựng góc thiên nhiên có các cây xanh như: cây vạn niên thanh, cây
hoa hồng, cây hoa mười giờ, cây sống đời….để hàng ngày cho trẻ đến chăm
sóc cây cối, nhặt cỏ, bắt sâu, tưới nước. Trẻ sẻ cảm nhận được cây này có
tên là cây gì? Lá như thế nào? Loại cây lá to hay lá nhỏ, nó dùng để làm gì?...
Giáo viên tổ chức cho trẻ các hoạt động nhằm giúp trẻ t rực tiếp trải
nghiệm như: chia lớp thành các đội, cho thi đua trồng và chăm sóc một cấy
xanh, sau một thời gian giáo viên so sánh, nhận xét kết quả mỗi đội. Cho trẻ
kể lại quá trình mình trồng và chăm sóc xây xanh.
Ví dụ: Giáo viên hướng dẫn trẻ quan sát và tìm hiểu về điều kiện sống
của cây.
Cô và trẻ tiến hành gieo ba hạt đậu đen ở góc thiên nhiên. Hằng ngày cô
và trẻ theo dõi, quan sát sự phát triển của cây. Sau khi cây nảy mầm thì mang
cây vào trồng trong ba cái chậu: một chậu thường xuyên được tưới nước, có
ánh sáng, không khí; một chậu có ánh sáng, không khí nhưng không tưới
nước; một chậu có nước, không khí nhưng không có ánh sáng. Cô giao nhiệm
vụ cho các tổ quan sát và nhận xét về các chậu cây:
Sau một thời gian chậu cây nào tươi tốt? vì sao?
Để cây xanh phát triển tốt, ta phải làm thế nào?
18
Từ những ý kiến của trẻ, giáo viên tổng hợp lại và đưa ra kết luận
chung: “Muốn cây xanh phát triển tốt thì chúng ta phải cung cấp đầy đủ đất,
nước, ánh sáng, không khí”.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp biện pháp
Các giải pháp và biện pháp có mối quan hệ mật thiết và luôn hỗ trợ bổ
sung cho nhau ưu điểm của giải pháp này là hỗ trợ cho nhược điểm của giải
pháp khác. Muốn thực hiện các giải pháp thành công cần có các biện pháp cụ
thể phù hợp với nội dung của giải pháp. Đối tượng nhận biết của trẻ sẽ
không khô cứng, nếu như giáo viên biết phối hợp các giải pháp và biện pháp
với nhau để làm cho những tri thức mà trẻ nhận được càng thêm phong phú.
Muốn thực hiện các biện pháp, giải pháp có hiệu quả thì cần phải có
những điều kiện cần thiết về môi trường (đó là môi trường thiên nhiên và môi
trường xã hội). Ở trường mầm non cần xây dựng góc thiên nhiên. Trong góc
thiên nhiên đối tượng nuôi trồng cần phải phục vụ nội dung chương trình.
Các đối tượng ở góc thiên nhiên cần đảm bảo những yêu cầu về thẩm
mỹ, đa dạng, dễ chăm sóc và phải thường xuyên thay đổi đối tượng sao cho
phù hợp với thời tiết, khí hậu của mỗi mùa. Cách xếp đặt các đối tượng trong
góc thiên nhiên phải tiện lợi cho việc trẻ quan sát và không cản trở các hoạt
động chung.
Giáo viên phải tổ chức cho trẻ thường xuyên sử dụng đồ chơi và đồ
dùng. Khi trẻ em sử dụng đồ vật, giáo viên cần khuyến khích giúp đỡ và chỉ
dẫn trẻ nhận biết chúng. Đối với trẻ mẫu giáo cần có nhiều tranh ảnh, mô
hình và màn hình. Nhưng việc sử dụng chúng như thế nào cũng cần phải có
kế hoạch và tổ chức chu đáo, bảo quản tốt. Trường mầm non nên có những
đồ chơi ngoài trời. Những đồ chơi này cũng phải đảm bảo an toàn cho trẻ.
Trong trường mầm non có các mối quan hệ như: Trẻ em với trẻ em, trẻ
em với người lớn và người lớn với người lớn. Để việc giáo dục trẻ có hiệu
19
quả cao. Tất cả các mối quan hệ trên cần phải đảm bảo tính sư phạm.
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu,
phạm vi và hiệu quả ứng dụng
Qua điều tra và thăm dò ý kiến khi áp dụng các giải pháp, biện pháp đã
có 100% giáo viên có khả năng sử dụng các biện pháp, giải pháp hiệu quả.
Giáo viên biết lựa chọn các nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hợp lý
phù hợp với tình hình thực tế của trường lớp
Kỹ năng sử dụng các phương pháp, biện pháp và thủ thuật cũng góp
phần làm cho hiệu quả hoạt động cao hay thấp. Giáo viên có kỹ năng sử dụng
điêu luyện sẽ biến thành kĩ xảo. Kĩ xảo mới giúp cho giáo viên tích hợp được
các nội dung, phương pháp, biện pháp và các hình thức hoạt động trong lĩnh
vực cho trẻ khám phá khoa học hoặc tích hợp lĩnh vực này với lĩnh vực khác
ở trường mầm non.
Tuy nhiên, quá trình hình thành và rèn kỹ năng sử dụng các phương pháp,
biện pháp và thủ thuật cần phải được tiến hành liên tục và không ngừng sáng
tạo. Có như vậy, lĩnh vực cho trẻ khám phá khoa học ở trường mầm non mới
không ngừng đổi mới.
Qua thực hiện một số biện pháp trên kết quả đạt đuợc như sau:
Giáo viên 100% đã có kiến thức, kỹ năng thực hiện tổ chức cho trẻ
trong các hoạt động, nhất là đối với hoạt động khám phá khoa học.
Kết quả cụ thể:
STT
Kiến thức kỹ
Đầu năm
Cuối năm
năng của giáo
1
2
Tăng và giảm
(Tỉ lệ %)
viên
Loại giỏi
6/12 g/v =
10/12 g/v = 83,3%
33,3%
Loại khá
50%
6/12g/v = 50%
2/12 g/v = 16,7%
33,3%
20
3
Loại trung bình
0
0
0
* Đối với trẻ có tiến bộ rõ rệt trong từng nội dung hoạt đông. Trẻ có
kỹ năng quan sát, so sánh, phân loại tốt, hiểu biết rộng về môi truờng tự nhiên
và xã hội. Trẻ hứng thú, tích cực trong các hoạt động khám phám khoa học.
Kết quả cụ thể:
Kỹ năng quan sát, so
TT
sánh, phân loại
1
Trẻ đạt theo sự phát
2
triển kỹ năng
Trẻ chưa đạt theo sự
Đầu năm
Cuối năm
Tăng
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
Số
Số luợng
Tỷ lệ %
%
luợng
%
luợng
130/216 61% 216/216 100% 86 h/s
39%
h/s
86/216
phát triển kỹ năng
39%
h/s
0
0
0
0
h/s
III. Kết luận, kiến nghị
1. Kết luận
Sau khi chỉ đạo hướng dẫn giáo viên xây dựng kế hoạch hoạt động cho
trẻ khám phá khoa học. Nắm bắt tình hình kiến thức, kỹ năng thực tế của
giáo viên và khảo sát về môi trường tổ chức hoạt động cho trẻ khám phá
khoa học (trẻ 5 6 tuổi). Tôi nhận thấy các biện pháp, giải pháp đưa ra đều
phù hợp với sự nhận thức của giáo viên và trẻ, phù hợp với tình hình thực tế
của trường lớp và địa phương. Từ đó đội ngũ giáo viên đã có kiến thức, kỷ
năng tự nghiên cứu về nội dung cho trẻ khám phá khoa học và đã hướng dẫn
trẻ hoạt động đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình cho trẻ hoạt động đã kích thích sự hứng thú và phát huy
được tính chủ động, tích cực và sáng tạo. Trẻ hứng thú khi trực tiếp được
tiếp cận với sự vật, hiện tượng, đối tượng mà trẻ đang quan sát. Từ đó trẻ đã
liên tục đặt ra nhiều câu hỏi “Tại sao? Thế nào?” đã có ý nghĩa rất lớn, làm rõ
vấn đề thông qua các hoạt động thực tế. Trẻ đã làm quen ý thức được hoạt
21
động tập thể, về sau trẻ đã đạt được yêu cầu theo mong muốn của nội dung
bài học. Chính vì thế đã giúp cho trẻ phát triển được vốn sống tư duy và sự
hiểu biết.
Việc bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện kỷ năng cho đội ngũ giáo viên và
hình thành rèn luyện kỹ năng, thói quen cho trẻ trong lĩnh vực phát triển nhận
thức thông qua hoạt động khám phá khoa học, không phải tiến hành ngày một,
ngày hai trong một thời gian nhất định. Mà là một quá trình lâu dài, và cần
phải tiến hành thường xuyên ở nhiều thời điểm với những phương pháp và
biện pháp khác nhau. Có như vậy, lĩnh vực phát triển nhận thức cho trẻ thông
qua hoạt động khám phá khoa học ở trường mầm non mới không ngừng đổi
mới.
2. Kiến nghị
Đối với phòng Giáo dục và Đào tạo
+ Tổ chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên trong
dịp đầu năm học (tháng 8).
+ Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng đồ chơi để tạo
điều kiện cho việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
Đối với nhà trường
+ Tổ chức triển khai thực hiện chuyên đề về nội dung các đề tài (sáng
kiến kinh nghiệm đạt giải), nhân rộng và có chiều sâu.
+ Thường xuyên kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm để vận dụng nội
dung đề tài vào thực tế có hiệu quả.
+ Tiếp tục đầu tư mua sắm trang thiết bị, đồ dùng, đồ chơi, tổ chức
làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo. Thực hiện tổ chức các hoạt động giáo dục và
cho trẻ khám phá khoa học để có hiệu quả năm sau cao hơn năm trước.
Người viết
22
Lê Thị Hường
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu bồi duỡng cán bộ quản lý và giáo viên ;
Chuơng trình huớng dẫn tổ chức thực hiện giáo dục mầm non 5 – 6
tuổi;
Tài liệu bồi duỡng thuờng xuyên cho giáo viên.
23
MỤC LỤC
Trang
I. Phần mở
đầu: ........................................................................................1
1. Lý do chọn đề
tài…………………………………………….................1
24
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề
tài.................................................................2
3. Đối tượng nghiên
cứu……………………..............................................3
4. Giới hạn của đề tài................…………………………........…….
….....3
5. Phương pháp nghiên
cứu……………………………….........................3
II. Phần nội
dung ......................................................................................4
1. Cơ sở lý
luận...........................................................................................3
2. Thực trạng vấn đề nghiên
cứu.................................................................4
3. Nội dung và hình thức của giải pháp…….......…………...
…….............6
a. Mục tiêu của giải pháp.....................……………………...……...........
6
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp....................
….. ..................6
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện
pháp………………...................17
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm
vi và hiệu quả ứng dụng...............................................................................
…......18
25