Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển nhận thức cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.82 KB, 40 trang )

ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÁT 
TRIỂN NHẬN THỨC CHO TRẺ 5 ­ 6 TUỔI THÔNG QUA HOẠT 
ĐỘNG KHÁM PHÁ KHOA HỌC TRƯỜNG MẦM NON KRÔNG ANA
I. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Con người là sản phẩm của sự  phát triển tự  nhiên và xã hội. Trẻ  em 
cũng vậy, nhưng so với người lớn, trẻ khác ở chỗ, trẻ là sản phẩm chưa hoàn 
hảo, một mặt trẻ  mang trong mình những tiềm năng kì diệu về  năng lực trí  
tuệ  và bản tính tốt đẹp của con người.  Nhưng mặt khác, mặc dù có nhiều 
yếu tố tạo điều kiện thuận lợi đối với sự phát triển của đứa trẻ, nhưng cũng 
có những yếu tố  làm cản trở  sự  hòa nhập của trẻ  đối với cộng đồng, đó là 
những yếu tố di truyền từ tổ tiên loài người. Một trong những yếu tố nổi bật  
nhất là: tính cá nhân, tính ích kỉ, tính tham lam ...
Muốn cho trẻ  em trở  thành người lớn theo đúng ý nghĩa của từ  này, 
nghĩa là con người lớn khôn để trở thành chủ thể trong việc xây dựng và cải 
tạo môi trường sống, thì nhất định phải có sự  tác động giáo dục của người  
lớn ngay từ khi đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời.
Hơn thế  nữa, nhiều công trình nghiên cứu khoa học của các nước cho  
thấy, trí thông minh và tính cách của mỗi con người đã dược hình thành 50% 
từ 0 – 2 tuổi, đến 3 tuổi thì đã hình thành được 60% và đến 6 tuổi hình thành  
được 80%. Nếu có sự tác động của giáo dục, những số liệu trên mới thực sự 
có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt. Thông thường, người lớn ở  bên cạnh 
trẻ em mới chỉ khai thác được khoảng 6% tiềm năng kì diệu sẵn có. Dưới tác 
động của giáo dục, phải là giáo dục với phương pháp khoa học, thì các số 
liệu trên có thể  cao hơn nữa. Khi đó, đứa trẻ  chắc chắn sẽ  trở  thành người  
lớn có đủ năng lực sử dụng, xây dựng và cải tạo tự nhiên.
1


Trong cuộc sống hàng ngày, muốn tồn tại và phát triển, trẻ em phải tiếp  


cận với môi trường xung quanh. Trong quá trình tiếp cận  ấy, các sự  vật và  
hiện tượng xung quanh là những đối tượng để  cho trẻ  tìm hiểu, nhận xét và 
mở mang hiểu biết. Quá trình nhận biết này, nếu trẻ được người lớn, các cô 
giáo, thầy giáo tổ chức, hướng dẫn một cách khoa học thì quá trình nhận biết  
ấy sẽ phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nhu cầu hiểu biết của trẻ về 
môi trường xunh quanh sẽ được thỏa mãn.
Mặt khác, thực tiễn là nguồn gốc và thước đo của chân lí. Nếu không 
tôn trọng thực tiễn thì việc cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh sẽ là  
giáo điều và máy móc.
Mỗi nhà trẻ, trường lớp mẫu giáo có hoàn cảnh thực tế khác nhau. Cần  
phải lựa chọn đối tượng, nội dung và phương pháp sao cho phù hợp với thực  
tế của mỗi trường, lớp và mỗi địa phương. Cần nghiên cứu đặc điểm về môi  
trường tự  nhiên và môi trường văn hóa trước khi tiến hành cho trẻ  làm quen  
với môi trường xung quanh. Chính vì những lí do trên tôi chọn đề tài “Một số 
biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng phát triển nhận thức cho trẻ 5 – 6 tuổi  
thông qua hoạt động khám phá khoa học” để  nghiên cứu và áp dụng nhằm  
nâng cao chất lượng giảng dạy cho đội ngũ giáo viên của trường.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Với đề  tài này nhằm bồi dưỡng cung cấp thêm cho giáo viên một số 
kiến thức, kỷ năng để tổ chức hướng dẫn trẻ khám phá khoa học có hiệu quả 
hơn. Kiến thức cung cấp cho trẻ phải có trình tự, hợp lý và thống nhất, đồng 
thời phải chính xác, thiết thực và mang tính ứng dụng cao. Việc hình thành và 
rèn luyện cho giáo viên kĩ năng tổ chức, tiến hành một số hình thức cho trẻ 5 
– 6 tuổi khám phá khoa học ở trường mầm non là rất cần thiết, giúp giáo viên 
phải tự  giác học hỏi trong thực tiễn, sáng tạo và biết tự  rút kinh nghiệm.  
Muốn cho trẻ  hứng thú tìm tòi khám phá sự  vật xung quanh thì người giáo 
2


viên phải biết truyền cảm xúc của mình cho trẻ, phải dạy trẻ bằng chính thái 

độ và hành vi ứng xử của mình đối với môi trường xung quanh.
Sử  dụng môi trường xung quanh, thông qua hoạt động khám phá khoa 
học để phát triển toàn diện cho trẻ nhất là lĩnh vực phát triển nhận thức. Sự 
nhận biết của trẻ về môi trường xung quanh còn mang nặng cảm tính và tính  
trực quan hành động. Việc cung cấp tri thức cho trẻ về các sự vật hiện tượng  
không chỉ  dừng lại  ở  mức độ  biểu tượng, mà cần tăng cường yếu tố  trực 
quan sinh động và hấp dẫn. Việc tổ  chức cho trẻ  khám phá khoa học phải  
đưa ra các biện pháp hữu ích và phải quán triệt được một điều là, trẻ  phải 
được nói và làm, giáo viên không nên nói và làm thay trẻ  (nhất là trẻ  5 – 6 
tuổi).
         

3. Đối tượng nghiên cứu

                

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là một số biện pháp chỉ đạo nâng 

cao chất lượng phát triển nhận thức cho trẻ  5 – 6 tuổi thông qua hoạt động 
khám phá khoa học
           

4. Giới hạn của đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề  tài là một số  biện pháp chỉ  đạo nâng cao 

chất lượng phát triển nhận thức
Phạm vi đối tượng: Học sinh 5 – 6 tuổi trường Mầm non Krông Ana
Phạm vi thời gian: Năm học 2016 ­ 2017
5. Phương pháp nghiên cứu
a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận

­ Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu
­ Phương pháp khái quát hóa các nhận định độc lập.
b. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
3


­ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục.
­ Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động.
­ Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
­ Phương pháp trao đổi đàm thoại.
c. Phương pháp thống kê toán học
­ Phương pháp điều tra số liệu.
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lý luận
Thế  giới xung quanh thật đa dạng, phong phú, muôn hình, nhiều vẻ, 
vốn tri thức trẻ  thu hoạch được chưa thấm tháp vào đâu và còn nhiều điều 
thiếu chính xác, chưa hệ thống và sâu sắc. Chính vì thế, mở rộng sự hiểu biết 
cho trẻ  cũng là một trong những nhiệm vụ  quan trọng của các thầy, cô giáo 
cũng như của người lớn nói chung.
Trong cuộc sống hàng ngày, trẻ  đã tích lũy được một vốn tri thức và  
kinh nghiệm sống, điều quan trọng là tổ  chức cho trẻ  biết sử  dụng vốn tri  
thức và kinh nghiệm  ấy vào các hoạt động vui chơi, hoạt động, lao động và  
sinh hoạt. Trong quá trình  ấy, cần giúp trẻ  gọi tên chính xác các sự  vật và 
hiện tượng, đồng thời nhận biết những dấu hiệu ngoài cơ  bản, có ý nghĩa 
trong việc xác định đối tượng. Ngoài ra cần giúp trẻ tích lũy vốn tri thức một 
cách hệ thống, tổng hợp và khái quát.
Muốn mở  rộng sự  hiểu biết cho trẻ, cần tổ  chức cho trẻ  hoạt  động  
nhận biết những sự  vật và hiện tượng mới lạ, đồng thời khám phá những 
mối quan hệ đơn giản giữa chúng.
Mặt khác trẻ  em có tính tìm tòi, tính ham hiểu biết sẽ  thôi thúc chúng 

tích cực hoạt động. Phát triển óc tìm tòi, tính ham hiểu biết ở trẻ sẽ tạo điều  
kiện thuận lợi cho việc lĩnh hội kiến thức khoa học  ở  trường phổ thông sau 
4


này. Đứa trẻ lớn lên sẽ có lối sống thực tiễn, sâu sắc, phong  phú, linh hoạt,  
sáng tạo và chủ  động, không sống hời hợt, tẻ  nhạt. Vì vậy, phát triển nhận  
thức là phát triển óc tìm tòi, tính ham hiểu biết của trẻ thông qua hoạt động  
khám phá khoa học, là một yêu cầu rất cần thiết.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Trường mầm non Krông Ana là một trường trọng điểm của ngành học  
mầm non. Có cơ  sở  vật chất, trang thiết bị đồ  dùng, đồ  chơi tương đối đầy 
đủ. Đội ngũ giáo viên đa số  đã có bề  dày kinh nghiệm trong công tác giảng 
dạy. Có nhiều giáo viên trẻ, linh hoạt, sáng tạo, có khả năng truyền thụ kiến 
thức cho trẻ một cách hiệu quả.
Bên cạnh đó vẫn còn một số  giáo viên (nhất là giáo viên lớn tuổi, giáo 
viên mới ra trường). Khi tiếp cận với chương trình giáo dục mầm non (mới),  
việc tổ  chức hướng dẫn cho trẻ  hoạt động còn cứng nhắc, rập khuôn, máy 
móc (nhất là cho trẻ khám phá khoa học) giáo viên chưa có kỹ năng, thủ thuật 
để gây hứng thú cho trẻ khi hoạt động.
Khi vận dụng đề  tài này, giáo viên sẽ  có những kiến thức cơ  bản,  
những biện pháp, những kỹ  năng để  truyền thụ  những kiến thức về  môi 
trường xung quanh cho trẻ một cách có hệ thống. Tính hệ thống ở đây là, hệ 
thống các đối tượng từ  gần đến xa, từ  dễ  đến khó, đó là tính đồng tâm phát 
triển trong chương trình giáo dục mầm non.     
Chương trình cho trẻ khám phá đối tượng xung quanh. Giáo viên đã biết 
lựa chọn khối lượng kiến thức dạy trẻ phải tăng dần một cách thích đáng. Từ 
các sự  vật hiện tượng gần gũi cụ  thể, quen thuộc đến khối kiến thức khái 
quát về những đối tượng ở trong một môi trường rộng lớn hơn.
           


Tuy nhiên với những nội dung của đề tài này, nếu giáo viên không chịu 

khó suy nghĩ, rèn luyện kỹ năng để vận dụng vào thực tế thì nhiều hoạt động  
cho trẻ khám phá khoa học không đạt được hiệu quả cao.
5


          Với nội dung của đề tài này giáo viên đã biết vận dụng trong quá trình  
hướng dẫn trẻ  hoạt động. Tổ  chức cho trẻ  5 – 6 tuổi khám phá môi trường  
xung quanh với nhiều hình thức khác nhau như  hình thức trong tiết học, hay  
hoạt động ngoài trời, đi dạo, đi tham quan đều vận dụng các biện pháp mà đề 
đưa ra để dạy trẻ, nhằm giúp trẻ hoạt động tích cực. Trẻ biết phân tích, tổng 
hợp và khái quát hóa tri thức đã thu lượm được, đồng thời trẻ  biết thao tác, 
hành động và hoạt động với các đối tượng của môi trường xung quanh.
Song nếu  giáo viên  không chịu  khó  suy  nghĩ,  đầu tư  xây  dựng môi 
trường hoạt động cho trẻ, không có sự  linh hoạt sáng tạo khi vận dụng các  
nội dung biện pháp của đề  tài thì việc tổ  chức hướng dẫn trẻ  hoạt động 
khám phá khoa học ở trường mầm non vẫn chưa đạt hiệu quả.
Với nội dung đề tài này đã đưa ra các biện pháp thực tiễn, dễ thực hiện.  
Đã có sự lựa chọn nội dung, các phương pháp biện pháp và hình thức phù hợp  
cho trẻ khám phá đối tượng. Tiến hành phân tích tổng hợp tìm ra được những 
ưu điểm, hạn chế  của giáo viên hay của trẻ, để  tổ  chức cho trẻ  khám phá 
khoa học có hiệu quả hơn.
Từ  những khó khăn bất cập về  việc cho trẻ  5 ­ 6 tuổi khám phá khoa  
học. Muốn thành công và hạn chế  những vấn đề  yếu kém, và tìm ra được  
nguyên nhân để khắc phục, cần phải thường xuyên phân tích và tổng kết kinh  
nghiệm giảng dạy. Cần có sự  lựa chọn nội dung phương pháp, biện pháp và 
các. hình thức cho trẻ  tiếp cận với môi trường xung quanh. Tiến hành phân  
tích tổng hợp tìm ra những nguyên nhân ưu điểm hạn chế của cá nhân hay tập  

thể sư phạm trong quá khứ để tổ chức cho trẻ 5­ 6 tuổi khám phá khoa học ở 
trường mầm non được tốt hơn.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
a. Mục tiêu của giải pháp

6


Các giải pháp biện pháp đưa ra sẽ  giúp cho giáo viên có thêm kỹ  năng  
thủ thuật để tổ  chức cho trẻ khám phá sự  vật hiện tượng xung quanh trẻ có  
hiệu quả, làm cho việc tiếp thu kiến thức của trẻ trở nên dễ  dàng và sự  ghi  
nhớ của trẻ trở nên bền vững và chính xác.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
Thứ nhất: Hướng dẫn giáo viên thực hiện các phương pháp, biện pháp  
trực quan.
* Đối với phương pháp quan sát: 
Phương pháp quan sát là phương pháp quan trọng nhất trong nhóm trực 
quan, là phương pháp tổ  chức cho trẻ  tri giác các sự  vật và hiện tượng xung 
quanh (hoặc những đồ  dùng trực quan thay thế) một cách có mục đích và có 
kế hoạch.
Tùy tình hình thực tế, giáo viên phải dùng một hoặc hai thủ thuật nhằm  
kích thích hứng thú quan sát của trẻ. Giáo viên có thể dùng các thủ thuật như 
đặt một hoặc hai câu hỏi trước khi quan sát; giải một hoặc hai câu đố; chơi 
một trò chơi; hát; xem mô hình; vẽ; gây tình huống bất ngờ…
Khi trẻ  đang hứng thú quan sát, giáo viên đưa đối tượng ra trước mặt 
trẻ. Sau đó, nên tổ  chức cho trẻ  thao tác hay hành động hoặc hoạt động với  
đối tượng. Tùy từng đối tượng và lứa tuổi trẻ em, thời gian này nên để nhiều 
hay ít. Nhưng tốt nhất là tất cả  trẻ  em đều phải được làm, trong điều kiện 
không cho phép thì có thể tổ chức cho một số em làm, những em còn lại phải 
theo dõi, bắt chước và nhận xét.

Ví dụ:  Quả  cam đâu?Vỏ  đâu? Múi đâu? Muốn ăn được quả  cam con 
phải làm như thế nào ? Con gà đâu? Cái thìa đâu? Cái cốc đâu? .
Khi trẻ chỉ tay không đúng hoặc gọi tên sai, giáo viên phải sửa ngay cho  
trẻ.
7


Về trình tự hướng dẫn quan sát, không nên máy móc, cần phải dựa vào 
sở thích của trẻ, trẻ thích cái gì nhất thì nên cho trẻ tri giác cái ấy trước. Sau 
đó đối với mỗi đối tượng và mỗi lứa tuổi trẻ em, nên tổ chức trình tự tri giác  
cho hợp lí. Bên cạnh đó, trình tự  tri thức đối tượng còn phụ  thuộc vào hình  
thức tiến hành, đó là tiết học hay buổi chơi hoặc dạo chơi. 
* Sử dụng tranh ảnh: 
Đối với trẻ 5 – 6 tuổi cần sử dụng tranh cở lớn. Tranh ảnh loại này cần  
phải treo lên bảng, giáo viên dùng thước chỉ và nêu các câu hỏi để hướng dẫn  
trẻ tri giác. Những câu hỏi phải có tác dụng kích thích hững thú tri giác và rèn 
luyện tư duy.
Ví dụ: Các con nhìn thấy những gì trong bức tranh này? Bức tranh này 
vẽ về mùa nào? Tại sao các con lại biết bức tranh này vẽ về mùa đông?...
* Sử dụng mô hình: 
Mô hình có thể làm bằng bìa cứng, gỗ, nhựa và đôi khi người ta còn sử 
dụng vật thật. Mô hình phải mang tính tổng hợp, sinh động và hấp dẫn đối  
với trẻ. Trẻ có thể  đứng xung quanh mô hình và giáo viên hướng dẫn chúng  
tri giác đối tượng. Nếu số lượng trẻ em đông, giáo viên nên phân nhóm và lần 
lượt hướng dẫn từng nhóm một.
* Sử dụng băng âm và băng hình: 
Nội dung các băng âm và băng hình phải phục vụ mục đích và nội dung 
cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh. Giáo viên nên có kế  hoạch ghi,  
tuyển chọn các băng âm và băng hình phù hợp với nội dung giáo dục và đặc 
điểm tâm lí của trẻ  em  ở   lứa tuổi mầm non 5 ­ 6 tuổi. Giáo viên cũng cần  

phải biết kĩ thuật sử dụng các loại băng âm và băng hình này và lựa chọn các 
hình thức tổ chức thích hợp đối với mỗi loại băng âm và băng hình.
* Sử dụng phim đèn chiếu:

8


Khi sử dụng phim đèn chiếu thì nội dung phải phục vụ một chủ đề nào 
đó của lĩnh vực làm quen với môi trường xung quanh.
Ví dụ: Sự nảy mầm của hạt; sự sinh trưởng và phát triển của cây cối; 
động vật hoạt động dưới nước; không khí của buổi lễ, hội…
Nội dung phim đèn chiếu có tác dụng củng cố và mở rộng sự hiểu biết 
của trẻ về thế giới xung quanh. Nó cũng có tác dụng tích lũy tri thức cho trẻ 
để có thể đàm thoại hoặc hiểu những điều giáo viên giải thích.
Khi sử dung đèn chiếu, màn ảnh phải đặt ngang tầm mắt trẻ em. Động  
tác điều khiển đèn chiếu phải từ  từ, hình  ảnh không nên chuyển động quá 
nhanh để trẻ có thể kịp tri giác các hình ảnh đang chuyển động trên màn hình. 
Lời thuyết minh của giáo viên có tính chất giảng giải, chỉ  dẫn, kích thích sự 
tập trung chú ý của trẻ  và hướng dẫn trẻ  tri giác đối tượng, phục vụ  mục 
đích và yêu cầu đã xác định.

Thứ hai: Hướng dẫn giáo viên thực hiện các phương pháp dùng lời nói
* Phương pháp đàm thoại: 
Là quá trình tổ  chức hỏi và đáp giữa giáo viên và trẻ  em một cách có 
mục đích và kế hoạch.
Đàm thoại trong lúc quan sát:
  Là quá trình hỏi và trả  lời của giáo viên và trẻ  em diễn ra trong bối  
cảnh đối tượng trực quan đang tồn tại trước mặt.
Quá trình quan sát luôn luôn phải phục vụ mục đích và yêu cầu đã xác  
định. Muốn vậy, giáo viên phải dùng hệ  thống các câu hỏi trong quá trình 

quan sát. Câu hỏi và biện pháp, vì nó có tác dụng hướng dẫn trẻ  tri giác. 
Nhưng câu hỏi còn có khi là thủ  thuật, vì nó, có tác dụng kích thích sự  tập 
trung chú ý tri giác đối tượng của trẻ. Đôi khi, câu hỏi còn có tác dụng làm  
9


cho trẻ  tri giác đối tượng kĩ hơn, sâu hơn và phát hiện ra những điều mới lạ 
của đối tượng.
Ví dụ: Đây là con gì? Lông nó có màu gì? Thế nào là lông nhẹ và xốp?  
Tại sao nó lại bay được? Nó ấp trứng như thế nào?....
Có những câu hỏi yêu cầu trẻ phải so sánh, phân tích, tổng hợp và khái 
quát hóa đối tượng. Đặc biệt, có những câu hỏi nhằm rèn luyện và phát triển  
trí thông minh của trẻ, đó là những câu hỏi có tính  tư duy trừu tượng. Những  
câu hỏi này còn có tác dụng làm cho trẻ em nhạy bén trong tri giác đối tượng  
và nắm chắc đối tượng hơn.
Ví dụ : Bông hoa có màu tím trong lọ hoa tên là gì? Hoa bằng lăng trong  
lọ hoa có màu gì? (Nhưng thực ra không có hoa bằng lăng).
* Đàm thoại sau khi quan sát ngắn: 
Đàm thoại sau khi quan sát ngắn là quá trình hỏi và trả lời của giáo viên 
và trẻ em diễn ra trong bối cảnh không còn đối tượng trực quan trước mặt trẻ 
Trước hết, giáo viên cần phải hiểu rõ ý nghĩa và sự  cần thiết đối với 
việc đàm thoại sau khi quan sát ngắn. Tổ chức cho trẻ đàm thoại sau khi quan  
sát ngắn có tác dụng tăng cường trí nhớ, cũng cố  và làm sâu sắc hơn những  
điều trẻ vừa quan sát được. Đồng thời, hệ thống lại những tri thức trẻ đã lĩnh 
hội trong lúc quan sát, mở rộng sự  hiểu biết của trẻ về đối tượng, giáo dục 
thẩm mỹ và đạo đức sâu sắc hơn. 
Đối với trẻ 5­ 6 tuổi, cho trẻ quan sát cần phải tiến hành nhanh gọn, vì 
trẻ  đã có óc quan sát tốt. Nhưng đàm thoại sau khi quan sát lại có tầm quan 
trọng đặc biệt. Giáo viên phải chú ý coi trọng quá trình đàm thoại này.
Muốn đàm thoại, giáo viên phải tổ  chức cho trẻ  ngồi theo hình vòng 

cung, không khí giữa giáo viên và trẻ nên gần gủi, thân mật và cỡ mở. 

10


Hệ  thống câu hỏi nhằm cũng cố  những nội dung chính của quá trình 
quan sát. 
Mở  rộng sự  hiểu biết của trẻ    về  các đối tượng vừa được quan sát.  
Rèn luyện và phát triển lời nói mạch lạc, giáo dục thẩm mỹ và đạo đức cho 
trẻ. 
Ví dụ: Một số con vật nuôi trong gia đình, đối với trẻ từ 5­ 6 tuổi
Các con vừa được xem những con vật gì? 
Những con vật này sống ở đâu? 
Những con vật này có mấy chân? 
Lông của những con vật này như thế nào? 
Thế nào là gia súc? 
Các con biết những con vật nào là gia súc?
Những con vật gia súc nào ăn cỏ? 
Chúng ăn như thế nào? Những con gia súc nào ăn thịt? 
Cách chăm sóc nó như thế nào?
* Đàm thoại theo chủ đề :
Là quá trình hỏi và trả  lời của giáo viên và trẻ  về  những đề  tài tổng  
hợp như: cây xanh, động vật sống khắp nơi, mùa đông, phương tiện giao  
thông…
Trước khi tiến hành đàm thoại chủ  đề, giáo viên cần giúp trẻ  em tích  
lũy tri thức trước. 
Ví dụ : Trước khi đàm thoại về  mùa đông giáo viên cần phải tổ  chức  
cho trẻ dạo chơi, xem tranh ảnh, trò chuyện, kể chuyện về thời tiết, khí hậu,  
cây cối, hoa quả..


11


Đồ  dùng trực quan cũng cần phải chuẩn bị  nhưng không quan trọng  
bằng việc tích lũy tri thức. Hệ thống câu hỏi, giáo viên phải chuẩn bị chu đáo 
trước khi tiến hành đàm thoại. Câu hỏi đàm thoại cần gắn gọn, rõ ràng, đúng  
ngữ  pháp và có tác dụng rèn luyện, phát triển tư  duy của trẻ. Không đặt 
những câu hỏi chỉ  yêu cầu trẻ  trả  lời có hoặc không. Câu hỏi cần phải phù 
hợp với trình độ nhận biết của trẻ ở lứa tuổi 5 ­ 6 tuổi.
Khi bắt đầu đàm thoại, giáo viên nên dùng một hai thủ  thuật để  kích  
thích hứng thú học tập của trẻ. Khi hỏi trẻ giáo viên phải nhìn vào mặt tất cả 
mọi trẻ trong lớp, câu hỏi khó nên đặt đối với trẻ khá giỏi, câu hỏi dễ nên đặt  
cho trẻ yếu kém, không nên chỉ tập trung gọi đi gọi lại một vài trẻ  em trong 
lớp, tất cả trẻ em đều được tham gia đàm thoại. Đối với câu hỏi khó trẻ  em 
không trả lời được, giáo viên phải đặt câu hỏi phụ. Khi trẻ trả lời được câu 
hỏi phụ, giáo viên lại hỏi lại câu hỏi khó vừa rồi. Giáo viên cần phải biết 
dẫn dắt trẻ trở về đề tài đàm thoại khi câu trả lời của trẻ đi xa đề.
Trong quá trình đặt câu hỏi với trẻ, lời nói của giáo viên phải diễn 
cảm, trìu mến, phải có những thủ thuật khích lệ, động viên khuyến khích trẻ 
trả  lời. Trong quá trình đàm thoại, xen kẽ  hỏi và trả  lời, giáo viên có thể  sử 
dụng đồ  dùng trực quan hay một số  biện pháp khác phối hợp. Nhưng khi sử 
dụng chúng cần phải nhanh gọn tránh lạm dụng. Câu trả lời của trẻ yêu cầu 
phải gắn gọn, rõ ràng, diễn cảm, không lan man và đúng ngữ  pháp. Câu trả 
lời phải to vừa phải, không ê, a, không nên nói như  hét hoặc không nói lí nhí  
trong cổ họng. Khi trẻ trả lời câu hỏi phải nhìn vào mặt người hỏi, tư thế tự 
tin, không cho ngón tay vào miệng…
Đối với tất cả quá trình đàm thoại nói trên, tùy từng tình huống cụ thể,  
giáo viên phải đạo điều kiện và khuyến khích trẻ em đặt câu hỏi lại đối với 
giáo viên và các bạn trong lớp.
Ví dụ: Về cây xanh (đối với trẻ 5 ­ 6 tuổi)

12


Cho trẻ hát một bài về cây cối hoặc hoa quả. Tổ chức cho trẻ chơi trò 
chơi “Hãy kể  tên 3 thứ”, hãy kể  tên 3 loại cây cảnh. Hoặc giáo viên có thể 
khuyến khích trẻ  đọc câu hỏi : Các con có muốn hỏi gì về  cây cối  ở  xung 
quanh chúng ta không?
* Đối với biện pháp dùng lời nói:
Câu hỏi trò chuyện phải thật ngắn gọn với nội dung  đơn giản và dễ 
hiểu. Có những câu hỏi bắt buộc trẻ phải trả lời, nhưng có những câu hỏi trẻ 
em không cần phải trả lời nhưng vẫn phải suy nghĩ. 
Đối với trẻ em cá biệt (giỏi  hơn, kém hơn có hoàn cảnh đặc biệt). Giáo 
viên dùng biện pháp trò chuyện để  nâng cao trình độ  nhận biết của trẻ, đáp 
ứng nhu cầu hiểu biết của chúng hoặc để giáo dục cá biệt. Trò chuyện cũng 
có tác dụng cũng cố mở rộng hiểu biết và trích lũy tri thức cho trẻ.
Giải thích là biện pháp cần thiết với tất cả  các hình thức cho trẻ  làm 
quen với môi trường xung quanh. Giáo viên dùng lời nói ngắn gọn súc tích đê 
giảng giải cho trẻ 
Hiểu sâu sắc hơn về đối tượng. Nhưng không nên lạm dụng biện pháp này ,  
vì nó làm cho quá trình nhận biết đối tượng của trẻ căng thẳng, mệt mỏi. Các  
đối tượng có xung quanh chúng ta thật đa dạng và phong phú , nhiều khi chỉ 
cần trẻ em cảm nhận được chúng chưa cần trẻ em hiểu được tất cả .
* Sử dụng những tác phẩm văn học trẻ em 
  Giáo viên tuyển chọn một số  tác phẩm văn học trẻ  em như  truyện, thơ, ca  

dao, đồng dao, câu đố  và tục ngữ có nội dung phù hợp với mục đích cho trẻ 
làm quen với môi trường xung quanh để sử dụng trong các tiết học, buổi chơi, 
buổi dạo chơi và khi tổ chức các ngày lễ, hội.
Tùy từng chủ  đề, từng đối tượng, giáo viên có thể  sử  dụng đồng dao,  
ca dao phù hợp.


13


Ví dụ: Khi cho trẻ khám phá về quả khế, giáo viên sử dụng câu đố:
“Quả gì năm cánh
Xếp thành hình sao
Bé nếm thử nào
Ôi sao chua quá”
Hoặc khi cho trẻ khám phá con cua, giáo viên dùng câu đố:
“Con cua tám cẳng hai càng
Không đi mà lại bò ngang cả ngày”
Trẻ  đoán ngay được là con cua và hình thành ngay biểu tượng về  con  
cua: Con cua có hai càng to, có tám chân và bò ngang.... tiếp theo giáo viên có  
thể đặt câu hỏi gợi mở: “Các con có biết con cua đi như  thế nào không?” để 
trẻ trả lời. Như vậy không những trẻ biết được đặc điểm của con cua mà còn 
biết môi trường sống của chúng, cách vận động, các bộ  phận của con cua ra  
sao. Khi đã năm rõ đặc điểm, trẻ  quan sát dễ  hơn, từ  đó so sánh rõ ràng và 
phân loại cũng tốt hơn.
Hoặc có những bài thơ  giúp trẻ làm quen với các hiện tượng tự  nhiên,  
như   bài thơ  “Cầu vồng” giúp trẻ  biết đặc điểm và vẻ  đẹp rực rỡ  của cầu  
vồng.
“Mưa rào vừa tạnh

Tím, xanh, vàng, đỏ...

Có cái cầu vồng

Ồ! Hai cái cơ


Ai vẽ cong cong

Cái rõ, cái mờ

Tô màu rực rỡ:

Ai tài thế nhỉ?”

Thứ  ba: Hướng dẫn giáo viên thực hiện các phương pháp, biện pháp 
thực hành. 
Các phương pháp, biện pháp thực hành là tổ chức cho trẻ hoạt động để 
tìm tòi kiến thức mới hay vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn,  
14


vừa để  cũng cố  kiến thức, vừa tạo nên một hệ  thống các kỷ  năng, kỷ  xảo 
thực hành. Nguồn kiến thức đem đến cho trẻ  là thông qua hoạt động thực 
tiễn. 
*Phương pháp tìm kiếm, phát hiện
­ Đây là phương pháp mà giáo viên phải tổ  chức cho trẻ  hoạt động 
trong thực tiễn để  tìm tòi, khám phá và phát hiện những điều mới lạ  về  các  
sự vật và hiện tượng qua một số thí nghiệm đơn giản.
Ví dụ: Về nước (trẻ từ 5 ­ 6 tuổi)
Trẻ nhận biết được tên gọi, màu sắc, mùi vị của nước. Trẻ thấy được 
hiện tượng nước bốc hơi và nguyên nhân của sự bốc hơi này. Trẻ hiểu được 
sự  tuần hoàn của nước và giáo dục trẻ  thấy được lợi ích của nước đối với 
con người, cây cối và động vật.
+ Tổ chức cho trẻ hoạt động:
Giáo viên và trẻ em, mỗi người (hoặc 2 ­ 3 người) phải có ở  trên bàn, 
trước mặt một cốc nước (cốc thủy tinh trong) và từ  5 ­ 7 băng giấy màu đỏ, 

lam, chàm, tím, vàng, trắng.
Giáo viên nói: Đố các con, nước  ở trong cốc có màu gì? Mùi gì? Vị gì? 
Muốn biết điều đó phải làm như thế nào? 
Giáo viên hướng dẫn trẻ và cùng nhau làm: Muốn biết nước có màu gì 
thì phải so sánh màu của nước với các băng giấy, xem nước giống màu của 
băng giấy nào. Giáo viên làm trước, trẻ em làm theo, so sánh từng băng giấy  
màu với nước trong cốc bằng cách đặt băng giấy  ở  cạnh và dọc theo cốc  
nước. Muốn biết nước có vị gì thì dùng que tăm sạch để nếm một ít nước.
Giáo viên nói tiếp: Đố các con tại sao nước lại bốc hơi được?
Muốn biết điều này, tất cả các con phải xem cô làm đây:

15


Cho trẻ xem một cái xoong mới và trắng tinh, nắp xoong thật khô ráo. 
Cho nước vào ½ xoong, không đật nắp, đun trên bếp giầu hoặc bếp ga, lưu ý  
trẻ nhìn kĩ để thấy hiện tượng xảy ra.
Sau đó giáo viên lại nói tiếp: Bây giờ  các con nhìn xem hơi nước lại  
biến thành nước như thế nào nhé.
Giáo viên làm tiếp: Đậy nắp xoong, tiếp tục đun, không ít phút sau, giáo  
viên mở nắp xoong và chỉ cho trẻ xem những giọt nước đọng dưới nắp (làm  
như vậy 2 ­ 3 lần). Giáo viên giải thích cho trẻ về hiện tượng này.
+ Tổ chức đàm thoại:
Nước có màu gì?
Nước có mùi gì?
Nước có vị gì?
(Dạy trẻ mẫu câu: Nước không màu, không mùi, không vị)
Tại sao nước lại bốc hơi được?
Hơi nước bay đi đâu?
Khi nào hơi nước biến thành nước?

Như vậy, thủ  thuật sử dụng thí nghiệm cho trẻ trực tiếp làm hay trực  
tiếp quan sát tạo ghi nhớ lâu ở  trẻ. Trẻ đưa ra được những kết luận từ  thực 
tế. tùy theo đề tài cụ thể, giáo viên có thể đưa ra những thí nghiệm phù hợp, 
tạo sự tò mò tìm hiểu ở trẻ. Đồng thời trẻ ghi nhớ và nắm vững kiến thức đó 
được sâu hơn.
Thứ  tư:  Hướng dẫn giáo viên làm giàu vốn hiểu biết cho trẻ  về môi 
trường xung quanh
Thông qua các cuộc dạo chơi quanh vườn trường, cô cùng trẻ   đàm 
thoại về các loại cây trong vườn trường (cây gì? Cây có những bộ phận nào?  
16


Lá cây này như thế nào? Cây được trồng để  làm gì?...) cho trẻ nói lên những  
suy nghĩ của mình khi đi dạo quanh vườn cây. Bằng cách liên hệ thực tế, cô 
còn giúp trẻ  hiểu được cây xanh là nguồn cung cấp nguyên liệu làm nên các  
sản phẩm : tủ, bàn ghế, giường…. những loại cây này rất quý hiếm và trồng 
trong rừng. Qua đó, giáo dục trẻ về việc bảo vệ tài nguyên rừng, tuyên truyền  
không khai thác bừa bãi, không chặt phá rừng.
Thông qua việc xem tranh ảnh liên quan đến môi trường, tranh sưu tầm,  
hình  ảnh tìm kiếm trên mạng, cho trẻ  thấy được sự  tương phản giữa môi 
trường có nhiều cây xanh và môi trường thiếu cây xanh. Qua đó, cho trẻ  nói 
lên những suy nghĩ của mình vè hai môi trường đó. Từ đó rút ra kết luận.
Có nhiều loại cây: cây ăn quả, cây lấy gỗ  và cây cho bóng mát, cây ăn 
rau, cây làm thuốc. Giáo viên cho trẻ  biết ăn rau nhiều sẽ  cung cấp vitamin  
cho cơ thể và giúp cho da dẻ hồng hào. Tuy công dụng khác nhau nhưng quá 
trình sinh trưởng và phát triển của chúng tương đối giống nhau.
Tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động:
Vẽ, tô màu, cắt dán ảnh về cây xanh.
Xây mô hình vườn cây.
Chơi trò chơi : “Cây nào, quả ấy”, “gắn quả cho cây”…

Sau khi cung cấp kiến thức cơ  bản về  cây xanh, cô và trẻ  cùng dành 
một khoảng thời gian để  thảo luận cùng nhau, cô đặt ra tình huống cho trẻ 
giải quyết:
Cây cần gì để lớn lên?
Để có những loại quả ngon cho chúng ta ăn, chúng ta cần phải làm gì?
Nếu không có cây xanh thì môi trường sẽ như thế nào?
Rừng cung cấp gì cho chúng ta? Nếu rừng bị tàn phá thì ảnh hưởng gì?

17


Để trẻ dễ dàng tiếp nhận vấn đề, trong quá trình sinh hoạt hàng ngày, 
cô giới thiệu cho trẻ về đối tượng mới để trẻ tiếp nhận. Qua đó, giáo dục trẻ 
về vấn đề chăm sóc, bảo vệ cây xanh. Nếu khai thác, chặt phá cây xanh bừa  
bãi sẽ  gây lũ lụt, ô nhiễm môi trường. Như  vậy vừa tuyên truyền việc trồng 
cây gây rừng cho trẻ hiểu.

Thứ năm: Hướng dẫn giáo viên xây dựng góc “Bé với thiên nhiên”
Xây dựng góc thiên nhiên có các cây xanh như: cây vạn niên thanh, cây 
hoa hồng, cây hoa mười giờ, cây sống đời….để  hàng ngày cho trẻ  đến chăm 
sóc cây cối, nhặt cỏ, bắt sâu, tưới nước. Trẻ  sẻ  cảm nhận được cây này có 
tên là cây gì? Lá như thế nào? Loại cây lá to hay lá nhỏ, nó dùng để làm gì?...
Giáo viên tổ  chức cho trẻ  các hoạt động nhằm giúp trẻ  t rực tiếp trải 
nghiệm như: chia lớp thành các đội, cho thi đua trồng và chăm sóc một cấy  
xanh, sau một thời gian giáo viên so sánh, nhận xét kết quả mỗi đội. Cho trẻ 
kể lại quá trình mình trồng và chăm sóc xây xanh.
Ví dụ: Giáo viên hướng dẫn trẻ quan sát và tìm hiểu về điều kiện sống 
của cây.
Cô và trẻ tiến hành gieo ba hạt đậu đen ở góc thiên nhiên. Hằng ngày cô 
và trẻ theo dõi, quan sát sự phát triển của cây. Sau khi cây nảy mầm thì mang  

cây vào trồng trong ba cái chậu: một chậu thường xuyên được tưới nước, có 
ánh sáng,   không khí;  một  chậu  có  ánh sáng,  không  khí  nhưng  không tưới 
nước; một chậu có nước, không khí nhưng không có ánh sáng. Cô giao nhiệm 
vụ cho các tổ quan sát và nhận xét về các chậu cây:
Sau một thời gian chậu cây nào tươi tốt? vì sao?
Để cây xanh phát triển tốt, ta phải làm thế nào?
18


Từ  những ý kiến của trẻ, giáo viên tổng hợp lại và đưa ra kết luận  
chung: “Muốn cây xanh phát triển tốt thì chúng ta phải cung cấp đầy đủ  đất, 
nước, ánh sáng, không khí”.
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp biện pháp 
Các giải pháp và biện pháp có mối  quan hệ mật thiết và luôn hỗ trợ bổ 
sung cho nhau ưu điểm của giải pháp này là hỗ trợ cho nhược điểm của giải 
pháp khác. Muốn thực hiện các giải pháp thành công cần có các biện pháp cụ 
thể  phù hợp với nội dung của giải pháp. Đối tượng nhận biết của trẻ  sẽ 
không khô cứng, nếu như giáo viên biết phối hợp các giải pháp và biện pháp  
với nhau để làm cho những tri thức mà trẻ nhận được càng thêm phong phú. 
Muốn thực hiện các biện pháp, giải pháp có hiệu quả  thì cần phải có 
những điều kiện cần thiết về môi trường (đó là môi trường thiên nhiên và môi 
trường xã hội). Ở trường mầm non cần xây dựng góc thiên nhiên. Trong góc 
thiên nhiên đối tượng nuôi trồng cần phải phục vụ nội dung chương trình. 
Các đối tượng  ở  góc thiên nhiên cần đảm bảo những yêu cầu về  thẩm 
mỹ, đa dạng, dễ chăm sóc và phải thường xuyên thay đổi đối tượng sao cho  
phù hợp với thời tiết, khí hậu của mỗi mùa. Cách xếp đặt các đối tượng trong 
góc thiên nhiên phải tiện lợi cho việc trẻ quan sát và không cản trở  các hoạt 
động chung. 
Giáo viên phải tổ  chức cho trẻ  thường xuyên sử  dụng đồ  chơi và đồ 
dùng. Khi trẻ em sử dụng đồ vật, giáo viên cần khuyến  khích giúp đỡ và chỉ 

dẫn trẻ  nhận biết chúng. Đối với trẻ  mẫu giáo cần có nhiều tranh  ảnh, mô 
hình và màn hình. Nhưng việc sử  dụng chúng như  thế  nào cũng cần phải có 
kế hoạch và tổ  chức chu đáo, bảo quản tốt. Trường mầm non nên có những  
đồ chơi ngoài trời. Những đồ chơi này cũng phải đảm bảo an toàn cho trẻ.
Trong trường mầm non có các mối quan hệ như: Trẻ em với trẻ em, trẻ 
em với người lớn và người lớn với người lớn. Để  việc giáo dục trẻ  có hiệu 
19


quả cao. Tất cả các mối quan hệ trên cần phải đảm bảo tính sư phạm. 
        d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn đề  nghiên cứu,  
phạm vi và hiệu quả ứng dụng
 Qua điều tra và thăm dò ý kiến khi áp dụng các giải pháp, biện pháp đã  
có 100% giáo viên có khả  năng sử  dụng các biện pháp, giải pháp hiệu quả.  
Giáo viên biết lựa chọn các nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hợp lý 
phù hợp với tình hình thực tế của trường lớp 
Kỹ  năng sử  dụng các phương pháp, biện pháp và thủ  thuật cũng góp 
phần làm cho hiệu quả hoạt động cao hay thấp. Giáo viên có kỹ năng sử dụng 
điêu luyện sẽ biến thành kĩ xảo. Kĩ xảo mới giúp cho giáo viên tích hợp được  
các nội dung, phương pháp, biện pháp và các hình thức hoạt động trong lĩnh 
vực cho trẻ khám phá khoa học hoặc tích hợp lĩnh vực này với lĩnh vực khác 
ở trường mầm non.
Tuy nhiên, quá trình hình thành và rèn kỹ năng sử dụng các phương pháp, 
biện pháp và thủ thuật cần phải được tiến hành liên tục và không ngừng  sáng 
tạo. Có như vậy, lĩnh vực cho trẻ khám phá khoa học ở trường mầm non mới  
không ngừng đổi mới.
Qua thực hiện một số biện pháp trên kết quả đạt đuợc như sau:
Giáo viên 100% đã có kiến thức, kỹ  năng thực hiện tổ  chức cho trẻ 
trong các hoạt động, nhất là đối với hoạt động khám phá khoa học.
Kết quả cụ thể: 

STT

Kiến thức kỹ 

Đầu năm

Cuối năm

năng của giáo 
1
2

Tăng và giảm
(Tỉ lệ %)

viên
Loại giỏi

6/12 g/v = 

10/12 g/v = 83,3%

33,3%

Loại khá

50%
6/12g/v = 50%

2/12 g/v = 16,7%


33,3%

20


3

Loại trung bình

0

0

0

* Đối với trẻ  có tiến bộ  rõ rệt trong từng nội dung hoạt đông. Trẻ  có 
kỹ năng quan sát, so sánh, phân loại tốt, hiểu biết rộng về môi truờng tự nhiên 
và xã hội. Trẻ hứng thú, tích cực trong các hoạt động khám phám khoa học.
Kết quả cụ thể:
Kỹ năng quan sát, so 
TT

sánh, phân loại

1

Trẻ đạt theo sự phát 

2


triển kỹ năng
Trẻ chưa đạt theo sự 

Đầu năm
Cuối năm
Tăng
Tỷ lệ 
Số 
Tỷ lệ 
Số 
Số luợng
Tỷ lệ %
%
luợng
%
luợng
130/216  61% 216/216  100% 86 h/s
39%
h/s
86/216 

phát triển kỹ năng

39%

h/s
0

0


0

0

h/s

III. Kết luận, kiến nghị
      1. Kết luận
Sau khi chỉ đạo hướng dẫn giáo viên xây dựng kế hoạch hoạt động cho 
trẻ  khám phá khoa học. Nắm bắt tình hình kiến thức, kỹ  năng thực tế   của 
giáo viên   và khảo sát về  môi trường tổ  chức hoạt động cho trẻ  khám phá 
khoa học (trẻ 5 ­ 6 tuổi). Tôi nhận thấy các biện pháp, giải pháp đưa ra đều 
phù hợp với sự nhận thức của giáo viên và trẻ, phù hợp với tình hình thực tế 
của trường lớp và địa phương. Từ  đó đội ngũ giáo viên đã có kiến thức, kỷ 
năng tự nghiên cứu về nội dung cho trẻ khám phá khoa học và đã hướng dẫn 
trẻ hoạt động đạt hiệu quả cao.
Trong quá trình cho trẻ hoạt động đã kích thích sự hứng thú và phát huy  
được tính chủ  động, tích cực và sáng tạo. Trẻ  hứng thú  khi trực tiếp được  
tiếp cận với sự vật, hiện tượng, đối tượng mà trẻ đang quan sát. Từ đó trẻ đã  
liên tục đặt ra nhiều câu hỏi “Tại sao? Thế nào?” đã có ý nghĩa rất lớn, làm rõ  
vấn đề  thông qua các hoạt động thực tế. Trẻ  đã làm quen ý thức được hoạt  
21


động tập thể, về sau trẻ đã đạt được yêu cầu theo mong muốn của nội dung 
bài học. Chính vì thế  đã giúp cho trẻ phát triển được vốn sống tư  duy và sự 
hiểu biết.
Việc bồi dưỡng kiến thức, rèn luyện kỷ năng cho đội ngũ giáo viên và 
hình thành rèn luyện kỹ năng, thói quen cho trẻ trong lĩnh vực phát triển nhận 

thức thông qua hoạt động khám phá khoa học, không phải tiến hành ngày một, 
ngày hai trong một thời gian nhất định. Mà là một quá trình lâu dài, và cần 
phải tiến hành thường  xuyên ở  nhiều thời điểm với những phương pháp và 
biện pháp khác nhau. Có như vậy, lĩnh vực phát triển nhận thức cho trẻ thông 
qua hoạt động khám phá khoa học  ở  trường mầm non mới không ngừng đổi 
mới.  
2. Kiến nghị
­ Đối với phòng Giáo dục và Đào tạo
+ Tổ chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên trong 
dịp đầu năm học (tháng 8).
+ Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng đồ chơi để tạo 
điều kiện cho việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
­ Đối với nhà trường
+ Tổ chức triển khai thực hiện chuyên đề về nội dung các đề  tài (sáng 
kiến kinh nghiệm đạt giải), nhân rộng và có chiều sâu.
+ Thường xuyên kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm để  vận dụng nội  
dung đề tài vào thực tế có hiệu quả.
+ Tiếp tục đầu tư  mua sắm trang thiết bị, đồ  dùng, đồ  chơi, tổ  chức 
làm đồ  dùng, đồ  chơi tự  tạo. Thực hiện tổ  chức các hoạt động giáo dục và  
cho trẻ khám phá khoa học để có hiệu quả năm sau cao hơn năm trước.
                                                                   Người viết
22


                             Lê Thị Hường

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………

…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………               

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

­ Tài liệu bồi duỡng cán bộ quản lý và giáo viên ;
­ Chuơng trình huớng dẫn tổ chức thực hiện giáo dục mầm non 5 – 6 
tuổi;
­ Tài liệu bồi duỡng thuờng xuyên cho giáo viên.

23


MỤC LỤC
                                                                                                 Trang 
I. Phần mở 
đầu: ........................................................................................1
1. Lý do chọn đề 
tài…………………………………………….................1
24


2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề 
tài.................................................................2
3. Đối tượng nghiên 

cứu……………………..............................................3
4. Giới hạn của đề tài................…………………………........…….
….....3
5. Phương pháp nghiên 
cứu……………………………….........................3
II. Phần nội 
dung ......................................................................................4
1. Cơ sở lý 
luận...........................................................................................3
2. Thực trạng vấn đề nghiên 
cứu.................................................................4
3. Nội dung và hình thức của giải pháp…….......…………...
…….............6
a. Mục tiêu của giải pháp.....................……………………...……........... 
6
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp....................
….. ..................6
c. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện 
pháp………………...................17
d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm 
vi và hiệu quả ứng dụng............................................................................... 
…......18

25


×