Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

(Bài Thảo luận) Phân tích tác động của thương mại đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 20162019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.86 KB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN KINH TẾ THƯƠNG MẠI

Đề tài: Phân tích tác động của thương mại đối với tăng trưởng
kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016-2019

Nhóm
Lớp
Giáo viên hướng dẫn

: 04
: 2061TECO2011
: Phạm Thị Dự

Hà Nội, ngày 26, tháng,10 năm 2020

1


MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, dưới tác động của thương mại kinh tế Việt Nam đã đạt
được nhiều thành tích đáng kể, tăng trưởng luôn ở mức cao, tuy nhiên, so với thực tiễn
và tiềm năng vẫn còn một số hạn chế nhất định trong quá trình phát triển kinh tế đất
nước. Để thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển bền vững, cần tiếp tục có nhiều giải pháp
được thực hiện song hành trong thời gian tới.

2



I.

Cơ sở lý luận
1. Các lý luận cơ bản về thương mại và tăng trưởng kinh tế
1.1. Khái niệm thương mại và tăng trưởng kinh tế.
−Thương mại/ buôn bán/ trao đổi/ mậu dịch (trade) là khái niệm dùng để chỉ
hoạt động trao đổi hàng hóa trực tiếp giữa các cá nhân hay nhóm người dưới hình thức
hiện vật, hay gián tiếp thông qua một phương tiện trung gian như tiền. Ích lợi của
thương mại là ở chỗ nó mở rộng khả năng tiêu dùng và nâng cao năng suất lao động
thông qua chuyên môn hóa. Nếu không có thương mại, mọi người buộc phải sử dụng
nguồn lực riêng của mình để đáp ứng tất cả các nhu cầu. Hệ thống thương mại tự
nguyện cho phép mọi người tham gia vào quá trình phân công lao động theo hướng
cùng có lợi.
(Tài liệu tham khảo: Nguyễn Văn Ngọc, Từ điển Kinh tế học, Đại học Kinh tế
Quốc dân)
− Khái niệm tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng
quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.
(Trích T37/38 giáo trình Kinh tế Thương mại đại cương)
1.2. Đặc điểm của tăng trưởng kinh tế
1.2.1. Đặc điểm của tăng trưởng kinh tế
− Năng Suất là yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế. Năng suất lao động có
ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Nếu năng suất thấp sẽ là
yếu tố cản trở tăng trưởng kinh tế cả về tốc độ và tính bền vững. Do đó, thúc đẩy tăng
trưởng năng suất hiện đang là mục tiêu quan trọng được Việt Nam chú trọng đặc biệt
là nâng cao năng suất lao động trong doanh nghiệp - khu vực đóng vai trò quyết định
tới nâng cao năng suất lao động của toàn bộ nền kinh tế.
− Sự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 quá trình: Sự tích lũy tài sản (như
vốn, lao động và đất đai) và đầu tư những tài sản này có năng suất hơn. Tiết kiệm và

đầu tư là trọng tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng. Chính
sách chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài
nguyên thiên nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
− Các nguồn lực của tăng trưởng kinh tế bao gồm:
3


Nguồn nhân lực



Chất lượng đầu vào của lao động là yếu tố rất quan trọng của tăng trưởng kinh tế.
Chất lượng lao động được đánh giá dựa trên kỹ năng, kiến thức và kỷ luật của đội ngũ
lao động. Các yếu tố như thiết bị máy móc, nguyên vật liệu hay công nghệ chỉ có thể
phát huy được tối đa hiệu quả khi có sự tham gia của một đội ngũ lao động có sức
khỏe, trình độ và kỷ luật lao động tốt.


Tài nguyên thiên nhiên
Đây là những yếu tố tài nguyên thiên nhiên được sử dụng để làm yếu tố đầu vào
của quá trình sản xuất. Những tài nguyên quan trọng nhất là đất đai, nguồn nước,
khoáng sản... Các yếu tố này có một vai trò quan trọng nhưng không phải là thiết yếu
đối với nền kinh tế.
Vốn tư bản



Tư bản là một trong những nhân tố tạo tiền đề cho việc tối ưu năng suất lao động
và thương mại phát triển. Đó là những cơ sở vật chất, trang thiết bị được sử dụng trong

quá trình sản xuất. Yếu tố này có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển dài
hạn. Những quốc gia có tỷ lệ đầu tư tư bản tính trên GDP cao thường có được sự tăng
trưởng bền vững.
Tư bản không chỉ là do tư nhân đầu tư cho sản xuất, nó còn là tư bản cố định xã
hội tạo tiền đề cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Tư bản cố định xã hội
thường là những dự án có quy mô lớn do chính phủ thực hiện. Ví dụ như các dự án
thủy lợi, sức khỏe cộng đồng, dự án hạ tầng của sản xuất (hệ thống giao thông, mạng
lưới điện quốc gia...) ...
Tri thức công nghệ



Trong suốt lịch sử loài người, tăng trưởng kinh tế không chỉ là sự sao chép đơn
giản mà là một quá trình không ngừng thay đổi về công nghệ sản xuất. Tri thức công
nghệ là yếu tố giúp tăng hiệu quả sản xuất và tạo ra sản lượng cao với mức chi phí tối
ưu hơn.
Công nghệ đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là công nghệ thông tin,
công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học... đang có những bước tiến mạnh mẽ góp
phần gia tăng hiệu quả của sản xuất. Trí tuệ công nghệ không chỉ thể hiện đơn thuần ở
việc tìm tòi, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ. Nó còn là sự duy trì cơ chế cho phép
những phát minh được bảo vệ và trả tiền một cách xứng đáng.
4


Yếu tố phi kinh tế



Bên cạnh những yếu tố về kinh tế thì tăng trưởng kinh tế còn bị ảnh hưởng bởi
các yếu tố phi kinh tế như: Thể chế chính trị, Văn hóa - xã hội, Dân tộc, Tôn giáo, Các

quy định của pháp luật và khung phổ pháp lý….
1.2.2. Ý nghĩa của tăng trưởng kinh tế
− Tạo điều kiện nâng cao mức sống, giải quyết công ăn, việc làm và giảm tỷ lệ
thất nghiệp, đẩy mạnh an ninh quốc gia.
−Tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện để cải thiện chất lượng cuộc sống và phúc lợi
xã hội của cộng đồng. Là điều kiện tiền đề để phát triển các mặt khác của xã hội.
− Khuyến khích sự đổi mới, hiệu quả kỹ thuật và quản lý.
− Tạo thuận lợi cho tính năng động về mặt kinh tế (nguồn nhân lực mới, dòng
đầu tư mới), xã hội (sự sáng tạo).
− Tạo nguồn vốn cho cộng đồng.
1.3. Cơ sở luận nghiên cứu tác động của thương mại


Thương mại là một hoạt động kinh tế cơ bản và phổ biến.



Thương mại là một khâu trao đổi của quá trình tái sản xuất xã hội.



Thương mại là một ngành kinh tế quan trọng.



Thương mại là một hệ thống kinh tế.
2. Tác động của thương mại đối với tăng trưởng kinh tế
2.1. Tác động tích cực




Thương mại tạo ra khả năng huy động các nguồn lực có sẵn của quốc gia, tác động đến
việc di chuyển các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia. Nhờ vậy góp phần to lớn vào mở
rộng quy mô sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia, góp phần hội
nhập kinh tế quốc tế.



Thương mại là một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế,trực tiếp đóng góp vào việc tạo
ra thu nhập quốc dân và gia tăng tổng sản phẩm quốc dân.



Thương mại thúc đẩy đến sản xuất phát triển, trực tiếp làm tăng GDP của mình, đồng
thời gián tiếp tác động tới việc gia tăng GDP của các ngành kinh tế khác.



Thương mại tác động đến chất lượng của tăng trưởng kinh tế: Về lợi thế về quy mô do
các doanh nghiệp có thể tiếp cận và mở rộng thị trường lớn hơn ở nước ngoài, người
tiêu dùng, hội nhập thương mại quốc tế....
5


6


2.2. Tác động tiêu cực



Thương mại là một nhân tố tạo nền kinh tế nóng. Mà nền kinh tế nóng là nền kinh tế
tăng trưởng không bền vững.

II)



Thương mại tạo ra hàng giả hàng nhái.



Thương mại dẫn đến cạnh tranh không công bằng.
Thực trạng

1. Thực trạng trăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2016-2019

Về chất lượng tăng trưởng kinh tế, năm 2019, đóng góp của năng suất các nhân
tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP đạt 46,11%, bình quân giai đoạn 2016-2019
đạt 44,46%, cao hơn nhiều so với mức bình quân 33,58% của giai đoạn 2011-2015.
Năng suất lao động của toàn nền kinh tế theo giá hiện hành năm 2019 đạt 110,4 triệu
đồng/lao động (tương đương 4.791 USD/lao động, tăng 272 USD so với năm 2018);
theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 6,2% do lực lượng lao động được bổ sung và
số lao động có việc làm năm 2019 tăng cao. Hiệu quả đầu tư được cải thiện, nhiều
năng lực sản xuất mới bổ sung cho nền kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế dần dịch chuyển sang chiều sâu, thể hiện ở mức đóng góp
của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng của nền kinh tế ngày một
lớn. Trong 3 năm đầu của giai đoạn 2016 - 2020, đóng góp của TFP vào tăng trưởng
kinh tế tăng lên đáng kể, đạt 42,18%. Năng suất lao động có sự cải thiện đáng kể theo
hướng tăng đều qua các năm. Bình quân 3 năm 2016 - 2018 năng suất lao động tăng
5,62%, cao hơn so với mức tăng bình quân 4,3%/năm của giai đoạn 2011 - 2015 và

vượt mục tiêu tăng bình quân 5%/năm trong 5 năm 2016 - 2020.
Năm 2016, GDP tăng trưởng 6,21%, năm 2017 tăng 6,81%, còn năm 2018, khả
năng tốc độ tăng trưởng kinh tế 6,7% gần như chắc chắn đạt được. Thậm chí, nhiều
chuyên gia kinh tế, tổ chức quốc tế còn dự báo, khả năng GDP năm nay tăng 6,8 6,9%. Chưa cần GDP tăng 6,8 - 6,9%, chỉ cần đạt mục tiêu tăng 6,7%, thì bình quân
giai đoạn 2016 - 2019, GDP tăng 6,57%, tức là đã đạt mục tiêu tăng trưởng 6,5 - 7%
của cả giai đoạn 2016 – 2019.

7


Tăng trưởng Việt Nam so với các khu vực trên thế giới
(Nguồn: World Economic Outlook, 10/2019, Tổng cục Thống kê và tổng hợp các dự báo)
Các ngành, lĩnh vực phát triển toàn diện, tạo động lực cho tăng trưởng, đặc biệt
là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo tăng trưởng vượt bậc, liên tục ở mức 2 con
số.
Tỉ trọng trong GDP của khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm từ mức 17%
của năm 2015 xuống 13,96% vào năm 2019, trong khi đó, tỉ trọng của khu vực dịch vụ
tăng từ mức 39,73% của năm 2015 lên 41,17% vào năm 2018 và 41,64 % trong năm
2019; tỉ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng duy trì ổn định ở mức 33-34,5% từ
năm 2015 đến năm 2019.
Một điểm đáng lưu ý nữa là tỷ lệ nợ công giảm từ 63,8% năm 2016 xuống còn
61,4% năm 2019. Khi nợ công giảm, Chính phủ có dư địa để đẩy mạnh đầu tư công,
tạo động lực cho các thành phần kinh tế khác đẩy mạnh đầu tư, sẽ thúc đẩy kinh tế
tăng trưởng cao trong thời gian tới.
Năng suất lao động xã hội bình quân tăng 5%/năm.
Tiêu hao năng lượng tính trên GDP bình quân giảm 1 – 1,5%/năm.
8


=> Về tăng trưởng GDP, mặc dù môi trường kinh tế toàn cầu trở nên thách thức

hơn, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn đứng vững nhờ sức cầu mạnh trong nước và nền
sản xuất định hướng xuất khẩu.
2. Thực trạng tác động của thương mại đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam
2.1 Tác động tích cực

+ Thương mại tạo khả năng huy động các nguồn lực sẵn có của quốc gia cũng
như tác động tới việc di chuyển các yếu tố sản xuất giữa các quốc gia. Nhờ vậy mà
góp phần to lớn vào mở rộng quy mô sản xuất và chuyển dịch cấu kinh tế của mỗi
quốc gia, góp phần thúc đây hội nhập kinh tế quốc tế.
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tiếp tục xu hướng tăng trưởng tích cực.
Năm 2019, đầu tư phát triển tăng 10,2%, nâng tổng mức đầu tư lên mức 33,9% GDP
so với 32,6% trong năm 2015. Trong đó, đầu tư khu vực nhà nước chiếm 31% tổng
vốn và tăng trưởng 2,6% so với năm trước; mặc dù có tăng trưởng nhưng tỉ trọng vốn
đầu tư khu vực nhà nước tiếp tục xu hướng giảm từ mức 38% năm 2015 xuống 31%
năm 2019.
Đầu tư khu vực nhà nước giảm về tỉ trọng trong thời gian qua được bù đắp còn
nhiều hơn bởi đầu tư của khu vực tư nhân nhờ chính sách ưu đãi, hỗ trợ tạo điều kiện
cho doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đưa tốc độ tăng trưởng và tỉ
trọng vốn đầu tư của khu vực này lần lượt lên mức 17,3% và 46% vào năm 2019 so
với mức 13% và 38,7% năm 2015. Đầu tư khu vực FDI vẫn duy trì mức tăng trưởng
khá trong thời gian qua; năm 2019, tổng vốn FDI đạt 38,02 tỉ USD, tăng 7,2% so với
cùng kì; duy trì tỉ trọng ổn định ở mức 23,3 – 23,8% trong giai đoạn 2015 – 2019.
+ Nâng cao hiệu quả sản xuất: thương mại tác động đến chất lượng của tăng
trưởng kinh tế: nhờ lợi thế về quy mô do các doanh nghiệp có thể tiếp cận và mở rộng
ra các thị trường lớn hơn ở nước ngoài, qua đó giúp các doanh nghiệp tiếp cận thuận
lợi với trình độ công nghệ hiện đại.
Bên cạnh đó, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam trong giai đoạn 20162019 có sự biến động không đáng kể. Năng suất lao động năm 2019, theo Tổng cục
Thống kê, tính theo giá so sánh năm 2010, chỉ tăng 6,2% (so với mức tăng 6,36%), đạt
mức 110,4 triệu đồng/lao động theo giá hiện hành (tương đương 4.791 USD/lao động.
Tuy nhiên, cần lưu ý, có 4 ngành có năng suất lao động cao hơn mức bình quân chung

của cả nền kinh tế nhiều lần như ngành khai khoáng (cao hơn khoảng 20 lần); ngành
9


sản xuất và phân phối điện, khí đốt (cao hơn khoảng 17 lần); ngành tài chính, ngân
hàng và bảo hiểm (cao hơn khoảng 9 lần); hoạt động kinh doanh bất động sản (cao hơn
khoảng 13 lần). Năng suất lao động của những ngành này cao khiến năng suất chung
của nền kinh tế tăng lên không hoàn toàn phản ánh chất lượng năng suất lao động, đặc
biệt là ở khu vực sản xuất sản phẩm hang hóa tốt hơn.
Về kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2016-2019 cũng tăng trưởng đáng kể, từ
176,58 tỷ USD năm 2016 lên 264,27 tỷ USD năm 2019. Trung bình tăng trưởng xuất
khẩu tăng 13,1%/năm, cao hơn mục tiêu 10% đề ra tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2019 vượt mốc 500
tỷ USD, trong đó ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ của khu vực kinh tế trong nước
trong lĩnh vực xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều tốc độ tăng của khu vực
có vốn đầu tư nước ngoài
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đã đảm bảo đúng mục tiêu đề ra tại Chiến lược Xuất
nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030. Xuất khẩu tiếp tục
cải thiện theo hướng giảm hàm lượng xuất khẩu thô (tỷ trọng xuất khẩu của nhóm
nhiên liệu, khoáng sản giảm từ 11,6% năm 2011 xuống 3% vào năm 2015 và chỉ còn
1,7% năm 2019), tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, chế tạo (từ 63,46% vào năm 2011
lên 78,9% vào năm 2015 và 88,33% vào năm 2019). Cán cân thương mại hàng hóa
năm 2019 ước tính xuất siêu 9,9 tỷ USD, đây là mức cao nhất trong 4 năm liên tiếp
xuất siêu. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 179 tỷ USD, tăng 15,4%, trong
đó khu vực kinh tế trong nước tăng 17,5%, cao hơn khu vực FDI (tăng 14,6%). Có 26
mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó có 5 mặt hàng đạt trên 10
tỷ USD
Vị thế kinh tế đối ngoại của Việt Nam được tăng cường trên cơ sở thặng dư cán
cân vãng lai và dòng vốn FDI đổ vào mạnh mẽ. Cán cân thương mại hàng hóa của Việt
Nam đạt kỉ lục thặng dư 9,9 tỉ USD trong năm 2019, vượt đỉnh gần nhất là 9 tỉ USD

vào năm 2017.
+ Ngoài ra, hội nhập thương mại quốc tế là nhân tố quan trọng thúc đẩy các quốc
gia khai thác và phân bố các nguồn lực một cách hợp lí
Ủy ban Kinh tế đề nghị cần làm rõ mô hình tăng trưởng từ đó mới có căn cứ để
định hướng tái cơ cấu kinh tế năm năm tới; cần nhấn mạnh quan điểm có tính xuyên
suốt trong chỉ đạo và thực hiện tái cơ cấu - “Đó là cần tập trung phân bổ lại, khai thác
10


hiệu quả các nguồn lực, loại bỏ cách tiếp cận theo hướng xin-cho; nhanh chóng
khoanh vùng để xử lý các vấn đề tồn đọng một cách kịp thời, tránh ảnh hưởng đến các
lĩnh vực khác, các thành quả kinh tế - xã hội, đe dọa sự phát triển bền vững của nền
kinh tế”.
Phân bổ nguồn lực tài chính nhà nước qua hệ thống doanh nghiệp nhà nước
(DNNN): Trong giai đoạn từ 2011 đến nay, quá trình tái cơ cấu DNNN được đẩy mạnh
trên mọi phương diện từ thể chế đến thực tiễn thực hiện. Nhờ đó, số lượng DNNN đã
giảm từ 1.500 DN (năm 2010), xuống còn khoảng 500 DN (năm 2018). Theo số liệu
báo cáo của các DNNN đã cổ phần hóa giai đoạn 2011-2018, kết quả hoạt động kinh
doanh đều tăng hơn so với năm trước khi cổ phần hóa, cụ thể: Vốn điều lệ tăng hơn
80%; tổng tài sản tăng 40%; vốn chủ sở hữu tăng 60%; doanh thu tăng 30%; lợi nhuận
trước thuế tăng khoảng 50%; nộp ngân sách tăng gần 30%; thu nhập bình quân của
người lao động tăng 35%. Cùng với quá trình cổ phần hóa, công tác thoái vốn nhà
nước tại DN cũng đạt được nhiều kết quả tích cực.
Về phân bổ nguồn lực tài chính ngoài nhà nước: Đầu tư của khu vực ngoài nhà
nước và khu vực FDI chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, ước lần lượt là 43,3% và
23,4% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2018 chủ yếu đầu tư vào công nghiệp chế
biến, chế tạo (84,4%), dịch vụ lưu trú và ăn uống (80%), hoạt động kinh doanh bất
động sản (82%)… và các lĩnh vực thúc đẩy sự tăng trưởng trong dài hạn như công
nghệ, hay các lĩnh vực về con người như giáo dục, y tế còn rất hạn chế, chiếm tỷ trọng
nhỏ (bình quân khoảng 1% cho mỗi lĩnh vực).

Về phân bổ nguồn lực tài chính qua hệ thống tài chính: Huy động các nguồn lực
tài chính thông qua hệ thống ngân hàng thương mại đã góp phần làm tăng năng lực
cho vay ra nền kinh tế, góp phần thúc đẩy các hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh.
Năm 2018, dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại đạt khoảng 9 triệu tỷ
đồng (gấp 12 lần dư nợ cho vay năm 2006). Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước,
có khoảng 70% kiều hối rót vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh; khoảng gần 22%
đầu tư vào bất động sản và chỉ khoảng 7% là hỗ trợ thân nhân, gia đình trang trải sinh
hoạt, mua sắm, chữa bệnh, xây dựng nhà cửa.
Đặc biệt, thời gian qua, các bộ, cơ quan Trung ương và các địa phương trong
vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) đã nỗ lực, tích cực phối hợp triển khai các nhiệm vụ
phát triển các vùng KTTĐ và đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Các vùng KTTĐ đã
11


đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế; bình quân hàng
năm giai đoạn 2011-2019, cả 4 vùng KTTĐ đóng góp 72,95% vào tốc độ tăng bình
quân GDP của toàn bộ nền kinh tế. Các vùng kinh tế trọng điểm là các cực tăng trưởng
quan trọng, đã thể hiện vai trò đầu tàu, dẫn dắt cả nước, cứ 1% tăng trưởng của 4 vùng
KTTĐ sẽ làm GDP của toàn bộ nền kinh tế tăng 0,61%. Nổi bật là vùng KTTĐ Bắc
Bộ và vùng KTTĐ phía Nam, trong giai đoạn 2011-2019, quy mô GRDP của 2 vùng
chiếm tỷ trọng hơn 61% trong GDP, thể hiện là các vùng “trọng điểm của các vùng
trọng điểm
+ Tác động đến khả năng tiêu dùng; thương mại tác động đến khả năng tiêu dùng
của một số nước và gián tiếp sản xuất ra các sản phẩm có hiệu quả hơn là tự sản xuất:
Trong 9 tháng đầu năm 2018, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc nhìn
nhận tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 11,3%.
Năm 2019, Việt Nam tiếp tục duy trì thành tích xuất siêu năm thứ 4 liên tiếp, với
mức xuất siêu khoảng 9,9 tỷ USD (dù nhập siêu dịch vụ 2,5 tỷ USD); nhiều mặt hàng
xuất khẩu của ta giữ được vị trí quan trọng trong xếp hạng thành tích xuất khẩu của thế
giới, như: dệt may (đứng thứ 7 thế giới về xuất khẩu với kim ngạch vào khoảng 33 tỉ

USD); da giày (thứ 3 thế giới về sản xuất và thứ 2 về xuất khẩu với kim ngạch vào
khoảng 17 tỷ USD); điện tử (đứng thứ 12 thế giới về xuất khẩu, trong đó mặt hàng
điện thoại di động đứng thứ 2 thế giới với kim ngạch vào khoảng khoảng 50 tỷ USD);
thủy sản (đứng thứ tư thế giới về xuất khẩu với kim ngạch vào khoảng 9 tỷ USD); đồ
gỗ (đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu với kim ngạch vào khoảng 9 tỷ USD) và một số
mặt hàng nông sản khác như cà phê, hồ tiêu, gạo…luôn đứng ở trong nhóm các quốc
gia xuất khẩu lớn nhất thế giới; nhiều mặt hàng của Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng
như cá basa, tôm... tiếp tục được xuất khẩu sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU…
với thuế suất bằng 0% hoặc ở mức rất thấp. Đồng thời, thu nhập của người dân được
cải thiện với bình quân GDP đầu người năm 2019 đạt gần 2.800 USD, tỷ lệ hộ nghèo
giảm còn 1,45%; trong 10 năm qua, thị trường trong nước luôn giữ vững được đà tăng
trưởng cao, ổn định với tốc độ tăng của tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch
vụ xã hội đạt xấp xỉ 17,5%, cao hơn 3 lần so với mức tăng trưởng GDP. Việt Nam trở
thành một trong những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất toàn cầu (đứng vị trí thứ 6 trong
nhóm 30 quốc gia có tiềm năng và mức độ hấp dẫn đầu tư trong lĩnh vực bán lẻ toàn
cầu theo Công ty tư vấn A.T Kearney). Các thương hiệu bán lẻ của doanh nghiệp trong
12


nước cũng đã và đang phát triển mạnh mẽ với một số thương hiệu lớn có tốc độ phát
rất nhanh. Việt Nam đã tạo ra một câu chuyện huyền thoại trong công cuộc giảm
nghèo khi nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng chỉ số HDI cao nhất trên
thế giới (năm 2019 là 0,63, Việt Nam xếp thứ 118 trong tổng số 189 nước). Việt Nam
cũng đang ở gần mức trần của nhóm các nước có HDI ở mức trung bình và chỉ cần
thêm 0,007 điểm để vào được nhóm các nước có HDI ở mức cao.
+ Thương mại gia tăng GDP: thương mại một mặt trực tiếp làm tăng GDP nhờ
chính hoạt động của mình, mặt khác gián tiếp tác động đến việc gia tăng GDP của các
ngành nhờ ảnh hưởng có tính lan truyền.
BẢNG 1: Tăng trưởng kinh tế và tổng sản phẩm nội địa (GDP) bình quân đầu
người (2016-2019)

Năm
Tăng trưởng kinh tế (%)
GDP bình quân đầu
người (USD)

2016
6,21
2215

2017
6,81
2385

2018
7,08
2587

2019
7,02
2698

Nguồn: Tác giả tổng hợp từ số liệu của Tổng cục Thống kê.
Qua bảng trên có thể thấy, từ 2016-2019, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng
trưởng cao, GPD bình quân đầu người có sự gia tăng qua các năm, đạt mức 2698 USD
năm 2019. Bên cạnh đó, cơ cấu kinh tế còn tiếp tục chuyển dịch theo hướng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Năm 2019, mặc dù tăng trưởng kinh tế các quý đều thấp hơn 7% (ngoại trừ quý
III tăng 7,48%), tăng trưởng của cả năm 2019 vẫn đạt ở mức trên 7% cho cả năm
(7,02%). Tuy thấp hơn một chút so với mức tăng trưởng kỷ lục của năm 2018 nhưng
đây là tín hiệu tích cực, nhất là trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực còn tương

đối ảm đạm. Mức tăng trưởng này cao hơn nhiều so với các nước khu vực Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc. Tuy nhiên, tổng sản phẩm nội
địa (GDP) bình quân đầu người theo giá hiện hành năm 2019 cũng mới chỉ đạt 2.698
đô la Mỹ (USD)/người/năm, tương đương mức trung bình nhóm các nước có thu nhập
trung bình thấp, thấp hơn đáng kể so với các nước trong khu vực.
Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung chắc chắn tác động với Việt Nam, cơ hội
cũng có, thách thức cũng không ít, nhưng Chính phủ đã tính toán, tổng kim ngạch xuất
khẩu năm 2019 tiếp tục tăng 7-8% là yếu tố quan trọng để GDP tăng 6,6-6,8% và giúp
hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế của cả giai đoạn 2016 – 2019.
13


2.2. Tác động tiêu cực:
+ Thương mại là một nhân tố tạo nền kinh tế nóng: thực tế cho thấy, việc Việt
Nam cứ tiếp tục khai thác gỗ, than, dầu mỏ …thì nguồn thu mang lại lớn , nền kinh tế
tăng trưởng nhanh chóng nhưng chỉ trong khoảng thời gian ngắn sẽ lâm vào khủng
hoảng vì khai thác quá nhiều đã dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên mà những tài
nguyên này cần có khoảng thời gian lâu dài mới tái sinh được.
Khai thác dầu ở các mỏ chủ lực trong năm 2019 đang trong giai đoạn suy kiệt,
sản lượng giảm mạnh, các mỏ mới phát hiện đều khá nhỏ, cận biên, điều kiện phát
triển, vận hành phức tạp, chi phí cao... Ước tính sản lượng khai thác dầu thô tháng 112019 đạt 1 triệu tấn, giảm 9,6% so với cùng kỳ năm 2018, còn tính chung 11 tháng,
sản lượng khai thác dầu thô ước đạt 12,1 triệu tấn, giảm 5,8% so với cùng kỳ năm
trước. Sản lượng khai thác khí đốt thiên nhiên tháng 11 ước đạt 0,8 tỷ m3, giảm 10,3%
so với cùng kỳ năm trước.
+ Phát triển kinh tế vì mục đích thương mại làm gia tăng sự khai thác tài nguyên
thiên nhiên. Việc khai thác tài nguyên thiên nhiên không có kế hoạch, thiếu sự kiểm
soát có thể đưa đến nhiều hậu quả về môi trường như ô nhiễm nguồn nước, không khí,
đất đai phá vỡ cân bằng hệ sinh thái, đưa đến sự hủy diệt nhiều loại động thực vật.
Từ năm 2018 đến năm 2019, nồng độ bụi PM2.5 có xu hướng tăng hơn so với
giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2017. So sánh kết quả quan trắc nồng độ bụi PM2.5

trong các tháng qua các năm từ 2013 - 2019 cho thấy, từ tháng 9 đến giữa tháng 12
năm 2019, nồng độ bụi PM2.5 tăng mạnh so với các tháng trước đó và tăng cao so với
cùng kỳ các năm từ 2015 - 2018. Giai đoạn từ tháng 9 đến tháng 12 năm 2019, khu
vực miền Bắc đã xảy ra một số đợt cao điểm ô nhiễm không khí. Chỉ số chất lượng
không khí tại một số đô thị như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều thời điểm ở
mức xấu với chỉ số AQI từ 150 đến 200, có khi vượt 200 tương đương mức rất xấu.
Nguy hại nhất là bụi mịn gồm những hạt nhỏ bay lơ lửng trong không trung như
PM2.5 (dưới 2.5 micromet), khi thẩm thấu qua đường hô hấp sẽ là nguyên nhân tiềm
ẩn của hàng loạt các căn bệnh, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng.
Theo thống kê mới nhất của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tại Việt Nam rác thải
nhựa chiếm 7% tổng lượng chất thải rắn thải ra, tương đương gần 2.500 tấn/ngày. Bạn
có biết rằng Việt Nam đang đứng thứ 4 trên thế giới về lượng chất thải nhựa xả ra đại

14


dương hàng năm lên đến 0,28 - 0,73 triệu tấn rác thải nhựa (chiếm 6% toàn thế giới),
chỉ đứng sau Trung Quốc, Indonesia và Philippines.
+ Trên thực tế, diễn biến lạm phát còn chịu tác động của nhiều yếu tố nội tại,
trong khi đó, công tác điều hành chính sách kinh tế vĩ mô chưa được điều chỉnh một
cách linh hoạt nên đã làm cho lạm phát tăng cao. Cụ thể, trong 2 tháng đầu năm 2018,
sự tăng tốc của lạm phát theo tháng (0,5% và 0,7%) đã khiến cho lạm phát cùng kỳ
tăng theo, từ mức 2,6% vào tháng 12/2017 lên mức 3,15% vào tháng 2/2018. Mặc dù,
lạm phát có xu hướng chững lại trong các tháng 3, tháng 4 nhưng sự tăng tốc nhanh
trong tháng 5 và tháng 6 đã khiến cho lạm phát cùng kỳ tăng cao, đạt tới mức 4,67%
vào giữa năm 2018.
+ Thương mại tạo ra hàng giả hàng nhái: hiện nay, sự phát triển của thương mại
đang phải đối mặt với thách thức về hàng giả, hàng nhái mang tính toàn cầu trong quá
trình hội nhập ngày càng gia tăng. Đó là biểu hiện vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, làm
thiệt hại lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh với những nhãn hàng, thương

hiệu đã được bảo hộ.
Năm 2017 và 9 tháng năm 2018, lực lượng Quản lý thị trường (QLTT)đã phát
hiện 34.733 vụ vi phạm, xử phạt vi phạm hành chính trên 121,3 tỷ đồng, trị giá hàng vi
phạm hơn 907 tỷ đồng. Trong đó hàng hóa giả về chất lượng, công dụng 458 vụ vi
phạm; hàng hóa giả mạo chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu, bao bì 6.154 vụ; 690 vụ vi phạm
tem, nhãn, bao bì hàng hoá giả; 1.064 vụ vi phạm về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;
26.367 vụ vi phạm về nhãn hàng hoá.
Theo Báo cáo của Tổng cục Quản lý thị trường (QLTT), năm 2019, cơ quan này
đã phát hiện, xử lý trên 90.000 vụ vi phạm, ước thu nộp ngân sách gần 670 tỷ đồng.
Trong đó, đã thu nộp ngân sách nhà nước gần 500 tỷ đồng, giá trị hàng hóa tịch thu
chưa bán trên 170 tỷ đồng (tăng gần 180 tỷ đồng so với năm 2018), giá trị hàng hóa,
tang vật vi phạm bị tiêu hủy trên 120 tỷ đồng.
+ Thương mại dẫn đến cạnh tranh không công bằng: khi môi trường kinh doanh
càng khó khăn thì vấn đề cạnh tranh của các doanh nghiệp càng trở nên khốc liệt hơn.
Theo Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công Thương), tính đến hết
năm 2018, có gần 400 hồ sơ khiếu nại, trong đó hơn 200 vụ đã được điều tra, xử lý.
Các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh thường diễn ra dưới nhiều hình thức, theo
nhiều dạng khác nhau. Thông qua xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các
15


cơ quan quản lý đã thu về cho ngân sách nhà nước với tổng số tiền phạt và chi phí xử
lý đáng kể. Nếu năm 2007, tổng số tiền phạt là 85 triệu đồng, thì năm 2008, tổng số
tiền phạt đã tăng lên gần gấp 10 lần (tương đương 805 triệu đồng, đến năm 2016 là
2,114 tỷ đồng). Như vậy, số vụ vi phạm cạnh trạnh tranh không lành mạnh không chỉ
dừng lại như con số công bố chính thức hiện nay. Điều này đồng nghĩa với việc số tiền
xử phạt vi phạm cạnh tranh không lành mạnh sẽ tăng lên một khi các chế tài mới được
áp dụng từ ngày 1/12/2019 theo Nghị định số 75/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực cạnh tranh. Theo khảo sát, các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trên thị trường hiện nay phổ biến dưới các dạng như: Hành vi xâm

phạm thông tin bí mật trong kinh doanh; Hành vi ép buộc trong kinh doanh; Cung cấp
thông tin không trung thực về doanh nghiệp (DN) khác; Hành vi gây rối hoạt động
kinh doanh của DN khác; Hành vi lôi kéo khách hàng bất chính; Hành vi bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ… Trước tình hình cạnh tranh không lành
mạnh ngày càng có chiều hướng gia tăng, ngày 12/6/2018, Quốc hội thông qua Luật
Cạnh tranh số 23/2018/QH14, trong đó dành riêng 1 chương về Hành vi cạnh tranh
không lành mạnh bị cấm (Chương VI). Trong đó, các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh bị cấm được quy định trong Luật gồm: Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh
doanh; Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của DN khác bằng hành vi đe dọa
hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với DN đó; Cung cấp
thông tin không trung thực về DN khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp đưa thông
tin không trung thực về DN gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính hoặc
hoạt động kinh doanh của DN đó; Gây rối hoạt động kinh doanh của DN khác bằng
cách trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh hợp pháp
của DN đó...
Giải pháp cho việc phát triển nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới:

II)

1. Phát huy tác động tích cực của thương mại:


Đối với nền kinh tế vĩ mô:
Tiếp tục củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực
ứng phó với những biến động khó lường của thị trường, nhất là thị trường thế giới; duy
trì đà tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng trên cơ sở cải thiện hơn nữa môi
trường kinh doanh, ứng dụng những thành tựu của cách mang công nghiệp 4.0 vào
phát triển kinh tế, chuyển đổi số nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả
16



và sức cạnh tranh của nền kinh tế gắn với đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược,
đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế.
Phát triển kinh tế bền vững nhìn xa hơn các nội dung về tăng trưởng; về phát
triển bền vững và chia sẻ thịnh vượng; chú ý tới các chương trình về dân tộc thiểu số,
bình đẳng giới, đô thị hóa và hạn chế của hạ tầng giao thông, ô nhiễm không khí.
Thúc đẩy phát triển các yếu tố tiền đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là về
hạ tầng cơ sở, phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ; phát triển nông
nghiệp; nông thôn theo các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông
thôn mới.
Nghiên cứu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, làm rõ những cơ hội, thách
thức và điểm mạnh, điểm yếu của nền kinh tế, từ đó có các giải pháp thực hiện cụ thể


Đối với lãi suất:
Chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất tỉ giá phù hợp với
diễn biến thị trường trong nước và quốc tế để hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh và tăng
trưởng kinh tế. Nâng cao chất lượng tín dụng, tập trung cho các lĩnh vực ưu tiên như
nông nghiệp, nông thôn, công nghiệp hỗ trợ, xuất khẩu, doanh nghiệp ứng dụng công
nghệ cao, doanh nghiệp nhỏ và vừa, hỗ trợ khởi nghiệp; kiểm soát tín dụng ở một số
ngành, lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro.
Để phát triển kinh tế trong năm 2020 chúng ta nên giảm lãi suất vì trong hời gian
vừa qua nhiều quốc gia trên toàn thế giới đã thực hiện cuộc đua giảm lãi suất để kích
thích nền kinh tế. Ngân hàng nhà nước Việt Nam cần phải quyết liệt hơn nữa trong
việc cắt giảm lãi suất điều hành, từ đó làm giảm lãi suất huy động và lãi suất cho vay
của các ngân hàng thương mại. Điều kiện thuận lợi để thực hiện giảm mạnh lãi suất đó
là lạm phát năm 2019 ở mức rất thấp 2,79% (thấp nhất trong hơn 10 năm qua). Việc
giảm lãi suất không chỉ kích thích đầu tư mà còn kích thích tiêu dùng. Hiện nay, các
doanh nghiệp Việt Nam đang phải đi vay với lãi suất cao hơn nhiều so với các nước
trong khu vực. Rõ ràng đây là yếu tố bất lợi làm tăng chi phí của các doanh nghiệp

Việt Nam. Ngoài ra, lãi suất cao còn là gánh nặng đối với ngân sách nhà nước
(NSNN). Theo Dự toán ngân sách năm 2020, chi trả lãi là 118.192 tỷ đồng, chiếm
6,8% tổng chi ngân sách nhà nước.



Huy động nguồn lực:

17


Tăng cường hiệu quả huy động nguồn lực, tiếp tục cải cách hệ thống chính sách
thu đi đôi với cơ cấu lại NSNN. Nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính
nhà nước trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội gắn với thu hút sự tham gia đầu tư của
khu vực tư nhân.


Cải cách thể chế kinh tế:
Cải cách chính sách trọng yếu các chính sách liên quan đến nhiều vấn đề, như:
đầu tư cơ sở hạ tầng và thúc đẩy kết nối; thích ứng với biến đổi khí hậu; đào tạo và
duy trì nguồn nhân lực chất lượng có tay nghề cao.
Cải cách thuế : Việt Nam đã thực hiện việc giảm thuế Thu nhập doanh nghiệp
(TNDN) có lộ trình từ 32% xuống còn 20% hiện nay (vẫn cao nếu so với 17% của
Singapore.). Do đó, trong thời gian tới cần phải được giảm thêm từ 1% đến 2% để tạo
thêm sức hấp dẫn đối với các doanh nghiệp. Điều này cũng giúp thu hút các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, cần tăng thuế tiêu thụ đặc biệt đối
vdụ các mặt hàng có hại sức khỏe, như: rượu, bia và thuốc lá. Việc này góp phần tăng
thu cho NSNN, làm giảm số lượng người dùng, từ đó, giảm số lượng bệnh nhân và
giảm chi phí của toàn xã hội vào việc khám và chữa bệnh. Bên cạnh đó :




Phát huy và sử dụng mọi tiềm năng vốn có của lực lượng sản xuất
Kinh tế dân doanh phải được phát triển ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề mà
pháp luật không cấm và mở rộng địa bàn hoạt động ở cả thành thị và nông thôn
.Trung Quốc các xí nghiệp hương trấn hoạt động rất thành công cũng là điều ta cần
tham khảo và vận dụng, và miền núi, miền biển (trang trại lâm nghiệp, thuỷ sản) với
mục đích là tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Chỉ có như vậy chúng ta mới khai thác
được những tiềm năng rất lớn của nguồn nội lực quan trọng này



Đổi mới công nghệ và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư trong hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và nền kinh tế thế giới đang bước vào
một dạng thức mới- nền kinh tế tri thức, một dạng thức mới của kinh tế thế giới (đặc
trưng là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, chất xám chiếm tỷ lệ chủ yếu trong
giá thành sản phẩm), thì cho các ngành công nghệ cao phải được ưu tiên và quan tâm
hàng đầu. Để phát triển các ngành này phải đòi hỏi một nguồn vốn đầu tư ban đầu rất
lớn và có khả năng thu hồi vốn nhanh . Vì thế trong thời gian tới nên xem việc gia tăng
18


mạnh mẽ tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành công nghệ cao trong tổng vốn đầu tư của
toàn xã hội là một hướng đi tích vực đem lại hiệu quả cao


Đẩy mạnh việc phát triển nâng cao trình độ nguồn nhân lực cho nền kinh tế
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến việc thực hiện các mục tiêu kinh tế và
quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì suy cho cùng chính con

người mới là yếu tố cơ bản nhất và quan trọng của toàn bộ lực lượng sản xuất. Trong
bối cảnh thế giới ngày nay đang có sự tiến bộ vượt bậc của cuộc cách mạng khoa học
kỹ thuật, nhờ đó mà trình độ kỹ thuật, quy trình công nghệ ngày càng được đổi mới
một cách hết sức mau lẹ, thì vấn đề quan tâm đến đào tạo nguồn nhân lực cho nền kinh
tế để tương thích với sự thay đổi nhanh chóng của máy móc thiết bị được đặt ra như
một nhu cầu bức xúc.



Đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế:
Việt Nam sẽ tiếp tục chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng trên các lĩnh vực mà
trọng tâm là kinh tế. Để thực hiện mục tiêu này, Thủ tướng yêu cầu tất cả các bộ,
ngành và địa phương phải chủ động xây dựng kế hoạch hội nhập quốc tế trong từng
ngành, từng lĩnh vực; tập trung khai thác lợi thế các Hiệp định thương mại tự do đã ký
kết và sắp ký kết để phát triển kinh tế. Việc mở cửa thị trường, cạnh tranh là điều tất
yếu.

19


2. Hạn chế tác động tiêu cực của thương mại với tăng trưởng kinh tế việt nam
• Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp nâng cao nặng lực cạnh tranh quốc gia:

Phát huy và nâng cao hiệu quả hoạt động DN nhỏ và vừa, các DN đổi mới sáng
tạo; Hỗ trợ đẩy mạnh phong trào khởi nghiệp quốc gia; Tạo thuận lợi để các hộ và cá
nhân tự nguyện liên kết hình thành DN hoặc các hình thức tổ chức hợp tác khác; Hỗ
trợ và khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp
vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước; Hỗ trợ đổi mới, sáng tạo, hiện đại hoá công
nghệ và phát triển nguồn nhân lực có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá
trị khu vực và toàn cầu; Cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính (TTHC), tạo điều kiện

thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển


Điều tra theo dõi , theo dõi , xử lý nghiêm với các trường hợp kinh doanh gian lận ,
buôn bán hàng giả hàng nhái :
Tăng cường các giải pháp giám sát thị trường, chủ động thu thập thông tin, đánh
giá thị trường để xây dựng phương án đấu tranh chuyên đề; Nâng cao năng lực công
tác cho công chức lực lượng QLTT. Thực hiện đầu tư trang thiết bị cho lực lượng, nhất
là những thiết bị kiểm tra nhanh về thực phẩm, xăng dầu…; Tăng cường đào tạo, tập
huấn các kỹ năng về nhận diện hàng giả, hàng vi phạm sở hữu trí tuệ, kỹ thuật chống
buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả sử dụng công nghệ cao,....; Đẩy mạnh hơn
nữa công tác tuyên truyền, giáo dục chính sách pháp luật cho tổ chức, cá nhân kinh
doanh; đa dạng về hình thức tuyên truyền, để nâng cao ý thức người dân về tác hại của
buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả đối với xã hội và kêu gọi mọi người không
bao che, tiếp tay cho hành vi này; Tổ chức ký cam kết không kinh doanh hàng giả,
hàng nhập lậu, hàng kém chất lượng và kiểm tra đối với những cơ sở kinh doanh đã ký
cam kết và xử lý nghiêm những trường hợp đã ký cam kết nhưng vẫn vi phạm.



Cải thiện môi trường đầu tư
Đây là nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ với các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội.
Hiện nay trong thể chế luật pháp, cơ chế chính sách, thủ tục hành chính, thực thi công
vụ vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia luôn là một yêu cầu cấp bách. Do đó,
các Bộ, ngành, địa phương phải coi đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, phải
thực hiện thường xuyên, phải đưa ra các giải pháp, mục tiêu cụ thể cải cách, để đơn
giản hóa thủ tục và cắt giảm thời gian làm các thủ tục hành chính, đặc biệt trong lĩnh
20



vực thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, thành lập doanh nghiệp…Việc cải cách hành
chính không nói chung chung mà phải bằng những hành động cụ thể


Tiếp tục củng cố và tái cấu trúc hệ thống tài chính, các tổ chức tín dụng
Nhằm thực hiện huy động và phân bổ các nguồn lực tài chính cho phát triển kinh
tế - xã hội... Đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật đối với thị trường tài chính, thị
trường bảo hiểm, thúc đẩy sự phát triển của hệ thống các thị trường tài chính. Quyết
liệt thực hiện tái cấu trúc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.



Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với phát triển kinh tế - xã hội:
Thông qua việc tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước; nâng
cao chất lượng công tác xây dựng chính sách, thực hiện phối hợp hiệu quả trong quản
lý kinh tế vĩ mô; tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ thận trọng, linh hoạt.
Tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, thúc đẩy cải cách hành chính.



Cần tạo ra một hành lang pháp lý vững chắc về các thiết kế tài chính, công khai minh
bạch thông tin, thúc đẩy mối liên kết giữa khu kinh tế công và tư, nhằm hướng tới xây

dựng một môi trường kinh doanh minh bạch, lành mạnh
• Chú trọng đầu tư phát triển khoa học – kỹ thuật và ứng dụng khoa học công nghệ vào
phát triển kinh tế tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Chú trọng
đến chất lượng giáo dục và đào tạo
• Chính phủ cần thực hiện nhất quán mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô:
Kiểm soát lạm phát, tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, xử lý

nợ xấu, phát triển thị trường, tăng sức mua, đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa.Tiếp tục thực
hiện có hiệu quả các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh theo Nghị
quyết của Quốc hội, Nghị quyết số 01 và 02 của Chính phủ, nhất là các chính sách
giãn, hoãn, miễn, giảm thuế và chính sách hỗ trợ tín dụng...; bảo đảm an sinh xã hội và
phúc lợi xã hội, tăng cường phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường và ứng phó với
biến đổi khí hậu; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước,
tăng cường phòng chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại.

21


IV)

Kết luận
Phát triển thương mại và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mặt thiết với
nhau.Một nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định luôn tạo ra sự hấp dẫn mạnh mẽ.
Tăng trưởng kinh tế là cơ sở để cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống con người,
là tiền đề để phát triển các mặt khác của xã hội.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO



http://vinanet.
Giáo trình Kinh tế Thương mại


23



×