Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Quản lý nhà nước đối với xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện krông búk, tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
……………/……………

BỘ NỘI VỤ
……………/……………

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ THỊ CẨM OANH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG BÚK, TỈNH ĐẮK LẮK

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 8 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ VĂN TỪ

ĐẮK LẮK - NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, Luận văn “Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk” là công trình nghiên cứu
khoa học của cá nhân tôi, dưới sự hướng dẫn của Thầy TS. Lê Văn Từ - Trưởng
phòng Đào tạo, Bồi dưỡng – Phân viện Học viện Hành chính, Khu vực Tây
Nguyên. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực, khoa học có
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả


Lê Thị Cẩm Oanh


LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập và nghiên cứu tại Học viện Hành chính Quốc gia, Phân
viện Tây Nguyên, tôi đã hoàn thành chương trình đào tạo cao học chuyên ngành
Quản lý công. Tôi đã nghiên cứu và hoàn thành Luận văn “Quản lý nhà nước về
xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk” . Trong
quá trình học tập, nghiên cứu, viết luận văn, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp
đỡ nhiệt tình của các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Ban Giám đốc Học viện, Lãnh đạo Khoa sau
Đại học, quý Thầy Cô giáo, Học viện Hành chính Quốc gia. Giám đốc Phân viện
và quý Thầy Cô giáo Phòng Đào tạo – Bồi dưỡng Phân viện Học viện Hành
chính, Khu vực Tây Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi được học tập và
nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc, chân thành đến Thầy TS. Lê
Văn Từ, Trưởng phòng Đào tạo, Bồi dưỡng – Phân viện Học viện Hành chính,
Khu vực Tây Nguyên – Thầy đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tôi rất tận
tình, để tôi hoàn thành Luận văn tốt nghiệp.
Đồng thời, tôi cũng gửi lời cảm ơn đến Huyện ủy, HĐND, UBND huyện,
các phòng ban chuyên môn thuộc UBND huyện và Đảng ủy, UBND các xã trên
địa bàn huyện đã tạo mọi điều kiện thuận lợi hỗ trợ cho tôi trong quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Trân trọng cảm ơn!
Tác giả

Lê Thị Cẩm Oanh


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân

MTQG

Mục tiêu quốc gia

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

NSNN

Ngân sách Nhà nước

NTM

Nông thôn mới

QLNN

Quản lý nhà nước

THCS


Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

UBND

Ủy ban nhân dân

XDNTM

Xây dựng nông thôn mới


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI ................................................................................................ 8
1.1. Xây dựng nông thôn mới.................................................................................. 8
1.2. Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ............................................. 19
1.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở một số địa
phương ở Việt Nam ............................................................................................... 31
Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN
MỚI TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KRÔNG BÚK, TỈNH ĐẮK LẮK .................... 38
2.1. Tình hình xây dựng nông thôn mới ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk ....... 38
2.2. Thực trạng quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện
Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk ...................................................................................... 50
2.3. Đánh giá hoạt động quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại huyện
Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk trong thời gian qua ...................................................... 63

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN KRÔNG BÚK, TỈNH
ĐẮK LẮK ............................................................................................................. 73
3.1. Quan điểm, mục tiêu, định hướng xây dựng nông thôn mới ........................ 73
3.2. Những giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở
huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk ........................................................................... 79
3.3. Kiến nghị ........................................................................................................ 88
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 94


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vai trò to lớn đối với sự nghiệp
cách mạng của Đảng cũng như đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất
nước. Đảng ta xác định đây là vấn đề có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng.
Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn,
nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với
xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch
là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt [01].
Chủ trương “xây dựng nông thôn mới” bắt đầu hình thành và trở thành
một trong số nhiều mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta nhằm đưa đất nước ta
nói chung và nông thôn nói riêng phát triển một cách tổng thể, toàn diện về
kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng. Xây dựng nông thôn mới
với mục đích cuối cùng là nâng cao đời sống cho nông dân.
Để đạt được mục tiêu xây dựng nông thôn mới theo đúng quan điểm,
định hướng, đòi hỏi các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương
phải thực hiện và phát huy hết vai trò trong quản lý, tổ chức, điều hành, ban
hành các tiêu chí, quy chuẩn, đặt ra các cơ chế, chính sách hỗ trợ, hướng dẫn,
kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện, tổ chức thi đua gắn với khen thưởng.

Điều đó được khẳng định sâu sắc, nhất quán và cụ thể hơn từ Đại hội lần
thứ IX của Đảng cho đến nay. Trên cơ sở tổng kết 20 năm đổi mới, ngày
05/8/2008, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X,
Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về “nông nghiệp, nông dân,
nông thôn”. Nghị quyết đề cập toàn diện đến 3 lĩnh vực nông nghiệp, nông
dân, nông thôn với các quan điểm và chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân,
được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Trong đó, khẳng định: “Nông nghiệp,
nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa,

1


hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng
để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm
an ninh quốc phòng, giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi
trường sinh thái của đất nước” [01].
Thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối và khẳng định quyết tâm
chính trị của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP,
ngày 28/10/2008 về “ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”. Chương trình mục tiêu Quốc gia về
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 xác định rõ mục tiêu, thời
gian, phạm vi thực hiện, đồng thời nêu lên nội dung, các giải pháp cũng như
tiêu chí cụ thể của nông thôn mới. Sau 30 năm đổi mới, tại Đại hội lần thứ XII
Đảng ta đã đề ra yêu cầu trong thời gian tới cần phát triển nông nghiệp và
kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới. Xây dựng nền nông
nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao
chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia
tăng, đẩy mạnh xuất khẩu [09].
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về

xây dựng nông thôn mới, tỉnh Đắk Lắk nói chung và huyện Krông Búk nói
riêng cũng ban hành nhiều văn bản và triển khai thực hiện Chương trình mục
tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Sau 09 năm thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn
mới (từ năm 2011 đến năm 2019), hiện nay huyện Krông Búk có 2/7 xã đã
được công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới. Vấn đề nông nghiệp, nông dân
và nông thôn được cấp ủy, chính quyền địa phương đặc biệt chú trọng, có
nhiều chuyển biến tích cực, rõ rệt, góp phần thay đổi, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần của người dân trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, bên cạnh những

2


kết quả đạt được, quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
huyện Krông Búk vẫn còn những hạn chế như: Một số văn bản ban hành chưa
kịp thời, chưa đảm bảo chất lượng; công tác kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước về xây dựng nông thôn mới chưa kịp thời; cán bộ thực hiện công tác
quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới chưa có nhiều kinh nghiệm,
năng lực chuyên môn chưa cao; nguồn lực tuy được đa dạng hóa nhưng vẫn
còn gặp nhiều khó khăn, huy động nguồn lực từ các nguồn ngoài ngân sách
còn hạn chế; công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chương trình xây dựng
nông thôn mới còn mang tính hình thức, chưa đạt hiệu quả cao.
Xuất phát từ những lý do trên, nhằm đánh giá cụ thể về quản lý nhà nước
về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Krông Búk, từ đó đề ra những
giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới để huyện
Krông Búk tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây
dựng Nông thôn mới đạt chất lượng và hiệu quả; tôi lựa chọn vấn đề “Quản lý
nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk
Lắk” làm đề tài nghiên cứu Luận văn Thạc sỹ Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Vấn đề xây dựng nông thôn mới đã được nhiều tác giả lựa chọn để
nghiên cứu, đến thời điểm hiện nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu cung
cấp những luận cứ, luận chứng, dữ liệu rất quan trọng cho việc xây dựng
chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn và giải quyết vấn đề về nông
dân, đặc biệt là vấn đề xây dựng nông thôn mới. Có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu và đề tài tại Việt Nam như:
PGS.TS. Nguyễn Sinh Cúc trong bài viết “Nhìn lại chương trình xây
dựng nông thôn mới sau 2 năm thí điểm” (2013) đã đánh giá những kết quả
đạt được tại các xã thí điểm, phân tích những hạn chế, bất cập về tính khả thi
của nội dung chương trình, bất cập về vốn, về đào tạo nghề, về nhận thức của

3


các ngành các cấp; từ đó, đề ra những định hướng để hoàn thiện Chương trình
nông thôn mới về tổ chức chỉ đạo và Bộ tiêu chí quốc gia [8].
PGS.TS. Hoàng Văn Hoan trong cuốn sách “Xây dựng nông thôn mới
vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc nước ta hiện nay” (2014), Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, đã tiếp cận từ cơ sở lý luận về xây dựng nông
thôn mới, phân tích thực trạng xây dựng nông thôn mới ở vùng Tây Bắc, từ
đó đề xuất giải pháp đồng bộ, đột phá nhằm giải quyết những vấn đề có tính
chiến lược, phát huy tiềm năng, lợi thế của khu vực và sự nỗ lực vươn lên của
các dân tộc thiểu số, đưa các dân tộc thiểu số khu vực Tây Bắc thoát khỏi đói
nghèo, hòa nhập với sự phát triển chung của đất nước [11].
Luận văn Thạc sỹ Quản lý công “Quản lý nhà nước về xây dựng nông
thôn mới trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk” (2018) của Đỗ Danh Phương. Trên cơ sở
lý luận quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới cùng với kết quả phân
tích, đánh giá thực trạng tại tỉnh Đắk Lắk, tác giả đề xuất ra các giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh
[17].

Luận văn Thạc sỹ Quản lý công “Quản lý nhà nước về xây dựng nông
thôn mới ở huyện Ea Súp, tỉnh Đắk Lắk” (2018) của Phùng Thị Phương Loan.
Đề tài cũng phân tích trên cơ sở lý luận và thực tiễn để đề xuất những giải
pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Ea
Súp, tỉnh Đắk Lắk [16].
Các công trình nghiên cứu trên là những tài liệu hữu ích cho tác giả kế
thừa, tham khảo trong quá trình làm luận văn; tuy nhiên, chưa có công trình,
đề tài nghiên cứu nào nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ, toàn diện nội
dung quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Krông
Búk, tỉnh Đắk Lắk.

4


Vì vậy, trên cơ sở kế thừa, phát huy và sử dụng những luận cứ, dữ liệu
quan trọng của các công trình nghiên cứu khoa học khác để nghiên cứu, tác
giả chọn đề tài “Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk” đề cập đến những vấn đề chưa được các
công trình nghiên cứu đã công bố đề cập, nghiên cứu, giải quyết.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Nghiên cứu quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới để củng cố và
làm sâu sắc thêm cơ sở lý luận và đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại huyện Krông Búk,
tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Hệ thống hóa, phân tích và làm rõ thêm cơ sở lý luận quản lý nhà nước
về xây dựng nông thôn mới.
- Phân tích thực trạng, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế,

nguyên nhân trong quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại huyện
Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
xây dựng nông thôn mới tại huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk trong thời gian
tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn: Quản lý nhà nước về xây dựng
nông thôn mới trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.

5


- Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước
về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk từ
năm 2015 đến năm nay.
- Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung làm rõ cơ sở khoa học quản lý
nhà nước về xây dựng nông thôn mới, các yếu tố ảnh hưởng; phân tích kết
quả đạt được, hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân; đề xuất giải pháp nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện
Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong quá trình nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích tài liệu: Tìm hiểu các nghiên cứu đã có về xây

dựng nông thôn mới và quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở tỉnh
Đắk Lắk và ở Việt Nam, đánh giá các quan điểm hợp lý và chưa hợp lý từ đó
đưa ra các kiến giải theo cách tiếp cận của tác giả.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Thông qua khảo sát thực tế bằng
phiếu lấy ý kiến đối với 120 cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn mới và
phiếu khảo sát đối với 120 hộ dân nhằm thu thập thông tin định lượng về đánh
giá của cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn mới và một số hộ dân trên
địa bàn huyện Krông Búk đối với thực trạng xây dựng nông thôn mới và quản
lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
- Phương pháp tổng hợp và phân tích định lượng: Dựa trên những tài
liệu, thông tin thực tiễn của các ngành, các địa phương và các dữ liệu thu thập
được để phân tích, đánh giá thực trạng XDNTM và QLNN và XDNTM ở

6


huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk, những kết quả và hạn chế làm cơ sở để đưa
ra những kết luận và đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN về XDNTM ở
huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phương pháp thu thập thông tin, nghiên cứu,
so sánh, phân tích để đánh giá thực trạng xây dựng nông thôn mới và quản lý
nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Krông Búk.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa và làm sâu sắc thêm cơ sở lý luận về quản lý nhà
nước về xây dựng nông thôn mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã chỉ ra những hạn chế và phân tích nguyên nhân của những
hạn chế; đồng thời, đề xuất các giải pháp giúp các nhà quản lý nâng cao hiệu

quả quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Krông
Búk.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn có 03
chương cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn
mới.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên
địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.

7


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Xây dựng nông thôn mới
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
- Khái niệm về nông thôn:
“Nông thôn” là một khái niệm thông dụng, có nội hàm rộng và có thể
khác nhau ở các quốc gia.
+ Theo Từ điển bách khoa nông nghiệp Việt Nam: Nông thôn là vùng
lãnh thổ của một quốc gia hay một địa phương mà ở đó hoạt động sản xuất
chủ yếu là nông nghiệp. Nông thôn có môi trường tự nhiên, khung cảnh, kinh
tế - xã hội, điều kiện sống khác với đô thị. Dân cư Nông thôn chủ yếu làm
nông nghiệp và một số ngành nghề có liên quan với đất đai, cây trồng, vật
nuôi. Trong một quốc gia, Nông thôn thường phát triển chậm hơn đô thị. Tuy
nhiên, Nông thôn là yếu tố cân bằng cho đô thị, tạo nên sự hài hòa trong phát

triển. Nhà nước Việt Nam có nhiều chính sách thúc đẩy phát triển nông thôn
[13].
+ Theo Thông tư số 41/2013/TT-BNNPTNT, ngày 04/10/2013 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng dẫn thực hiện bộ tiêu chí quốc
gia về nông thôn mới: “Nông thôn là phần lãnh thổ được quản lý bởi cấp
hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã” [02].
Tóm lại, có thể hiểu Nông thôn là phần lãnh thổ được quản lý bởi cấp
hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã, ở đó hoạt động sản xuất chủ yếu là
nông nghiệp; là nơi cung cấp lương thực, thực phẩm cho đời sống của người
dân; cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu; cung cấp lao động
cho công nghiệp và thành thị; là thị trường rộng lớn để tiêu thụ những sản
phẩm của công nghiệp và dịch vụ. Phát triển nông thôn tạo điều kiện ổn định

8


về mặt kinh tế - chính trị - xã hội. Nông thôn nằm trên địa bàn rộng lớn về các
mặt tự nhiên - kinh tế - xã hội.
- Khái niệm về nông thôn mới:
Khái niệm nông thôn mới dù xuất hiện từ rất sớm, nhưng đã có sự thay
đổi và hoàn thiện, bổ sung nhiều mặt, từ chỗ là một khái niệm đơn lẻ thuần
túy về quy hoạch, còn lý thuyết và mơ hồ, trở thành một khái niệm toàn diện,
bao quát và được cụ thể hóa tới mức có thể đo lường được.
Nông thôn mới trước tiên phải là nông thôn nhưng khác với nông thôn
truyền thống. Trong đó: Đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của người dân
không ngừng được nâng cao, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành
thị; nông dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới; nền kinh tế phát
triển toàn diện, bền vững; cơ sở hạ tầng được xây dựng đồng bộ, hiện đại,
phát triển theo quy hoạch, gắn kết hợp lý giữa nông nghiệp với công nghiệp,

dịch vụ và đô thị; giàu bản sắc văn hoá dân tộc; môi trường sinh thái được bảo
vệ; sức mạnh của hệ thống chính trị được nâng cao; an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội được giữ vững; đặc biệt, ở nông thôn mới, nông dân và cộng
đồng dân cư sinh sống ở khu vực nông thôn chính là chủ thể triển khai và trực
tiếp thụ hưởng kết quả của chương trình xây dựng nông thôn mới.
Nông thôn mới theo Quyết định số 69/QĐ-BNN-VPĐP, ngày
09/01/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có những đặc trưng:
“Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao nhanh
và bền vững; nông thôn phát triển theo quy hoạch, có hệ thống hạ tầng kinh
tế - xã hội đồng bộ và đáp ứng yêu cầu phát triển lâu dài; môi trường xanh sạch - đẹp, an toàn; bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc được bảo tồn và
phát huy; chất lượng hệ thống chính trị cơ sở được nâng cao” [03].

9


- Khái niệm về xây dựng nông thôn mới:
Xây dựng nông thôn mới bắt đầu xuất hiện từ năm 2009, là một trong
những chương trình mục tiêu quốc gia trong giai đoạn 2010-2020. Là một
cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để cộng đồng dân cư ở nông thôn đồng
lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình khang trang, sạch đẹp; phát triển
sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ); có nếp sống văn hoá,
môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất,
tinh thần của người dân được nâng cao. Xây dựng nông thôn mới giúp cho
nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ nhau xây
dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ
cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với
phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông
thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường
sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của

Đảng được tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công
nhân – nông dân – trí thức vững mạnh, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính
trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa [1].
Trong khi giai cấp công nhân được xác định là giai cấp tiên phong trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đội ngũ trí thức là nguồn lực trí tuệ và
nhân tài cho đất nước, thì nông dân là lực lượng cơ bản trong xây dựng nông
thôn mới. Đây là tư tưởng cơ bản định hình cái gọi là “vai trò chủ thể” của
nông dân trong sự nghiệp xây dựng phát triển kinh tế - xã hội của Đảng đã
được đề ra một cách hệ thống trong Nghị quyết 26-NQ/TW.
Tóm lại, Xây dựng nông thôn mới là sự nghiệp cách mạng của toàn
Đảng, toàn dân ta và của cả hệ thống chính trị. Xây dựng nông thôn mới

10


không chỉ đơn thuần là giải quyết những vấn đề xã hội theo sau phát triển
kinh tế, mà là xây dựng một xã hội tổng thể (societal development) trong
tương quan với xã hội đô thị; bao gồm nhiều khía cạnh về kinh tế, văn hóa,
nhu cầu xã hội của nông dân, dân chủ, công bằng xã hội, cơ sở hạ tầng, hệ
thống chính trị, đoàn kết xã hội, trật tự xã hội, quốc phòng, an ninh, môi
trường sinh thái, quy hoạch; trong đó, nông dân đóng vai trò chủ thể trong xây
dựng nông thôn mới.
1.1.2. Đặc điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng nông thôn mới
1.1.2.1. Đặc điểm xây dựng nông thôn mới
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là một chương
trình tổng thể phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, an ninh quốc phòng ở các địa
phương. Xây dựng nông thôn mới là cốt lõi của việc thực hiện Nghị quyết
Trung ương 26 về nông nghiệp, nông thôn và nông dân, thể hiện sự quan tâm,
chăm lo của Đảng, Nhà nước để phát triển khu vực nông thôn. Theo chương

trình này, xây dựng nông thôn mới có một số đặc điểm như sau:
Một là, tính kinh tế: Trong bối cảnh hiện nay, để phát triển nông nghiệp
toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả; xây dựng nông thôn có nền sản xuất
hàng hóa mở, hướng đến thị trường và hội nhập, đòi hỏi kết cấu hạ tầng nông
thôn phải hiện đại, tạo điều kiện để mở rộng sản xuất, giao lưu buôn bán.
Thúc đẩy để phát triển nhanh nền nông nghiệp, nông thôn, khuyến khích toàn
dân tham gia vào thị trường, hạn chế rủi ro cho nông dân, giảm bớt sự phân
hóa giàu nghèo, cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân cư
nông thôn. Ứng dụng công nghệ, sản xuất hàng hóa có chất lượng cao, đồng
thời mang nét đặc trưng, độc đáo của từng vùng địa phương.
Hai là, tính văn hóa – xã hội: Xây dựng nông thôn mới là xây dựng và
phát triển nông thôn không những về kinh tế, cơ cấu hạ tầng, hệ thống chính
trị, an ninh trật tự mà còn gắn với xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư,

11


góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân tại cộng đồng. Xây
dựng nông thôn mới là xây dựng nông thôn mà ở đó các thiết chế văn hóa
được quan tâm, xây dựng; các giá trị truyền thống làng xã được phát huy tối
đa; các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng ngày càng
sinh động, phong phú, hình thức đa dạng, hấp dẫn, thu hút người dân tham
gia; từ đó, nâng cao ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa, phát huy tinh thần làm
chủ, tính tự giác, tính sáng tạo của người dân.
Ba là, tính định hướng: Đảng lãnh đạo, ban hành chủ trương, đường lối,
để triển khai thực hiện trong thực tiễn, Nhà nước đóng vai trò định hướng, cụ
thể hóa bằng các tiêu chí, quy chuẩn, chính sách, cơ chế hỗ trợ, đào tạo cán bộ
và hướng dẫn thực hiện. Trên cơ sở đó, người dân địa phương bàn bạc dân
chủ để quyết định và tổ chức thực hiện đối với từng hoạt động cụ thể, đảm
bảo tạo hiệu ứng tổng thể, tích cực, lan tỏa để thực hiện mô hình xây dựng

nông thôn mới.
Bốn là, tính dân chủ được thể hiện ở hai khía cạnh:
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin “cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng”; theo tư tưởng của Hồ Chí Minh “lấy sức dân để làm lợi
cho dân” cùng với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, xây
dựng nông thôn mới chính là một cuộc cách mạng phát huy sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống chính trị, sự tham gia của người dân, giúp người dân
nhận thức rõ trách nhiệm, quyền lợi nhằm chủ động tham gia, tích cực thực
hiện xây dựng nông thôn mới. Vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng
nông thôn mới thể hiện ở chỗ người dân chính là người tham gia xây dựng kế
hoạch, chương trình và tổ chức thực hiện việc xây dựng nông thôn mới ở địa
phương mình; theo dõi, đánh giá, giám sát quá trình triển khai thực hiện các
dự án tại địa phương. Đồng thời, phát huy dân chủ phải gắn với tuân thủ theo

12


pháp luật, tôn trọng kỷ cương. Vai trò của Nhà nước, chính quyền địa phương
chỉ là hỗ trợ, thúc đẩy, định hướng, dẫn dắt.
- Phải phát huy vai trò chủ thể của người dân trong xây dựng nông thôn
mới vì: Xây dựng nông thôn mới là quá trình nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của mỗi người dân. Đồng thời, nguồn lực của Nhà nước rất hạn hẹp
trong khi đó nguồn lực từ trong nhân dân rất dồi dào, phải huy động tối đa các
nguồn lực mới có thể đem lại thành công của chương trình. Nguồn lực của
nhân dân cần huy động ở đây không chỉ là tiền của, công sức mà còn cả trí
tuệ. Thực tiễn xây dựng nông thôn mới ở các địa phương cho thấy nơi nào
huy động được trí tuệ, tâm huyết, tiền của, công sức của mỗi người dân cùng
với Nhà nước và địa phương thực hiện các tiêu chí xã nông thôn mới thì sớm
đạt đích xã nông thôn mới và ngược lại.
Năm là, tính phối hợp: Phối hợp trong xây dựng nông thôn mới thể hiện

ở chỗ toàn bộ hệ thống chính trị và toàn xã hội phải cùng phối hợp thì chương
trình xây dựng nông thôn mới mới được thực hiện thành công. Trong đó,
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, điều hành quá trình xây dựng quy hoạch,
đề án, kế hoạch và tổ chức thực hiện. Đây là chương trình mới, cần nhiều thời
gian, kinh nghiệm, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban, ngành, mặt
trận, đoàn thể, Ban Chỉ đạo các cấp và Ban Quản lý xã nhằm hạn chế tối thiểu
những thiếu sót trong quá trình thực hiện. Tùy vào tình hình thực tiễn của mỗi
địa phương, để có sự cân nhắc, quyết định thứ tự ưu tiên khi triển khai dự án
đầu tư.
Sáu là, tính đa dạng: Tính đa dạng của chương trình xây dựng nông thôn
mới thể hiện ở nguồn lực để đầu tư vào chương trình được huy động từ tổng
hợp các nguồn vốn ngân sách nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng và nguồn
từ khu vực tín dụng. Vì vậy, ở Việt Nam, hệ thống các chính sách huy động

13


nguồn lực tài chính cho xây dựng nông thôn mới khá đa dạng, nhằm huy động
nguồn lực từ các doanh nghiệp và các tổ chức khác.
1.1.2.2. Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới
Theo Thông tư số 05/2017/TT-BNNPTNT, ngày 01/3/2017 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về “Hướng dẫn một số nội dung thực
hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 20162022”, xây dựng nông thôn mới thực hiện theo những nguyên tắc sau:
Một là, đảm bảo nguyên tắc quản lý, điều hành, thực hiện chương trình,
cụ thể:
- Phù hợp với quy định của pháp luật về đầu tư công, ngân sách nhà
nước và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan;
- Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; trách nhiệm của
các bộ, ngành và các cấp ở địa phương; vai trò giám sát của cộng
đồng trong quản lý và điều hành thực hiện các chương trình mục

tiêu quốc gia;
- Đảm bảo công khai, minh bạch trong quản lý, điều hành thực hiện
các chương trình mục tiêu quốc gia; khuyến khích huy động nguồn
lực xã hội để thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia;
- Đảm bảo phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa các bộ, ngành, địa
phương và các cơ quan có liên quan trong quản lý, điều hành thực
hiện chương trình mục tiêu quốc gia; phát huy vai trò chủ thể và sự
tham gia, đóng góp của cộng đồng dân cư vào quá trình lập kế
hoạch, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia [18].
- Gắn kết chặt chẽ giữa Chương trình xây dựng nông thôn mới với
Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững, Chương
trình cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp và các chương trình mục tiêu,
các chương trình, dự án khác đang triển khai trên địa bàn nông

14


thôn; gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và
phù hợp với đồ án quy hoạch xây dựng nông thôn mới đã được cấp
có thẩm quyền phê duyệt [04].
Hai là, nội dung xây dựng nông thôn mới phải hướng tới thực hiện Bộ
tiêu chí Quốc gia được quy định tại Quyết định 1980/QĐ-TTg ngày
17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ.
Ba là, xây dựng nông thôn mới theo phương châm phát huy vai trò chủ
thể của cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò định
hướng, ban hành các tiêu chí, quy chuẩn, đặt ra các chính sách, cơ chế hỗ trợ
và hướng dẫn. Các hoạt động cụ thể do chính cộng đồng người dân ở thôn, xã
bàn bạc dân chủ để quyết định và tổ chức thực hiện.
Bốn là, được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các chương trình
mục tiêu quốc gia, chương trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án

khác đang triển khai ở nông thôn, có bổ sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực
cần thiết; có cơ chế, chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của các thành
phần kinh tế; huy động đóng góp của các tầng lớp dân cư.
Năm là, được thực hiện gắn với các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh
tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của mỗi địa phương (xã, huyện,
tỉnh); có quy hoạch và cơ chế đảm bảo cho phát triển theo quy hoạch (trên cơ
sở các tiêu chuẩn kinh tế, kỹ thuật do các Bộ chuyên ngành ban hành).
Sáu là, xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và
toàn xã hội; cấp uỷ Đảng, chính quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá
trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch, tổ chức thực hiện; hình thành cuộc vận
động “toàn dân xây dựng nông thôn mới" do Mặt trận Tổ quốc chủ trì cùng
các tổ chức chính trị - xã hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò
chủ thể trong việc xây dựng nông thôn mới.

15


1.1.2.3. Nội dung xây dựng nông thôn mới
- Theo Quyết định số 1600/QĐ-TTg, ngày 16/8/2016 về “phê duyệt
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 20162020”; Thông tư số 05/2017/TT-BNNPTNT, ngày 01/3/2017 của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn về “Hướng dẫn một số nội dung thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 20162020”.
Xây dựng nông thôn mới gồm có các nội dung như sau:
+ Quy hoạch xây dựng nông thôn mới.
+ Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội.
+ Phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập cho người dân.
+ Giảm nghèo và an sinh xã hội.
+ Phát triển giáo dục ở nông thôn.
+ Phát triển y tế cơ sở, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người

dân nông thôn.
+ Nâng cao chất lượng đời sống văn hóa của người dân nông thôn.
+ Vệ sinh môi trường nông thôn, khắc phục, xử lý ô nhiễm và cải thiện
môi trường tại các làng nghề.
+ Nâng cao chất lượng, phát huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền,
đoàn thể chính trị - xã hội trong xây dựng nông thôn mới; cải thiện và nâng
cao chất lượng các dịch vụ hành chính công; bảo đảm và tăng cường khả năng
tiếp cận pháp luật cho người dân.
+ Giữ vững quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội nông thôn.
+ Nâng cao năng lực xây dựng nông thôn mới và công tác giám sát, đánh
giá thực hiện Chương trình; truyền thông về xây dựng nông thôn mới nhằm
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn mới các

16


cấp; thiết lập hệ thống giám sát, đánh giá đồng bộ, toàn diện đáp ứng yêu cầu
quản lý Chương trình; nâng cao hiệu quả công tác truyền thông về xây dựng
nông thôn mới [21].
- Để cụ thể hóa 11 nội dung xây dựng nông thôn mới nêu trên, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai
đoạn 2016-2020 theo Quyết định số 1980/QĐ-TTg, ngày 17/10/2016 nhằm:
+ Cụ thể hóa nội dung định hướng và đặc trưng của xã nông thôn mới
thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH;
+ Là căn cứ để thực hiện nội dung Chương trình MTQG xây dựng nông
thôn mới, là chuẩn mực để các xã lập kế hoạch phấn đấu đạt 19 tiêu chí
nông thôn mới giai đoạn 2016-2020;
+ Là căn cứ để chỉ đạo và đánh giá kết quả thực hiện xây dựng nông
thôn mới của các địa phương;
+ Đánh giá công nhận xã đạt nông thôn mới trong giai đoạn 2016-2020;

đánh giá trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền xã trong thực
hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn;
+ Giúp cho cán bộ và nhân dân các địa phương hiểu rõ nội dung cụ thể
của xây dựng nông thôn mới [03].
- Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới gồm 5 nhóm tiêu chí, 19 tiêu
chí, 49 chỉ tiêu, bao gồm:
+ Nhóm I, Quy hoạch, gồm 01 tiêu chí: Quy hoạch.
+ Nhóm II, Hạ tầng kinh tế - xã hội, gồm 08 tiêu chí: Giao thông; Thủy
lợi; Điện; Trường học; Cơ sở vật chất văn hóa; Cơ sở hạ tầng thương mại
nông thôn; Thông tin và truyền thôn; Nhà ở dân cư.
+ Nhóm III, Kinh tế và tổ chức sản xuất, gồm 04 tiêu chí: Thu nhập; Hộ
nghèo; Lao động có việc làm; Tổ chức sản xuất.

17


+ Nhóm IV, Văn hóa – xã hội – môi trường, gồm 04 tiêu chí: Giáo dục
và đào tạo; Y tế; Văn hóa; Môi trường và an toàn thực phẩm.
+ Nhóm V, Hệ thống chính trị, gồm 02 tiêu chí: Hệ thống chính trị và
tiếp cận pháp luật; Quốc phòng và an ninh [20].
1.1.3. Sự cần thiết phải xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới là sự lựa chọn tất yếu để thực hiện phát triển
nông thôn một cách tổng thể, toàn diện vì những lý do sau:
Một là, cơ sở hạ tầng nội thôn còn nhiều yếu kém; nhiều hạng mục công
trình xuống cấp, tỷ lệ giao thông nông thôn được cứng hoá thấp; hệ thống
thuỷ lợi ít được quan tâm đầu tư; chất lượng lưới điện nông thôn chưa đảm
bảo an toàn; cơ sở vật chất về giáo dục, y tế, văn hoá còn nhiều hạn chế, mạng
lưới chợ nông thôn chưa được đầu tư đồng bộ.
Hai là, ngành nông nghiệp vẫn sản xuất theo phương thức manh mún,
nhỏ lẻ, chất lượng nông sản chưa đủ sức cạnh tranh, bảo quản chế biến nông

sản còn hạn chế, chưa gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cơ cấu kinh tế
chuyển dịch còn chậm, việc ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp
còn hạn chế, chưa đồng bộ. Kinh tế phát triển tự phát, chưa theo quy hoạch
chung.
Ba là, thu nhập của nông dân thấp, tỷ lệ hộ nghèo còn cao; số lượng
doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn ít. Kinh tế hộ, kinh tế trang
trại, hợp tác xã còn nhiều yếu kém. Lực lượng lao động trong nông nghiệp
còn cao. Công tác đào tạo nghề, tạo cơ hội việc làm còn nhiều hạn chế.
Bốn là, đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân phải được chăm lo để
người lao động có động lực nhằm tái tạo sức lao động, nâng cao năng suất
làm việc. Tuy nhiên, tại địa phương đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân
vẫn còn hạn chế, nhiều nét văn hoá truyền thống chưa được quan tâm, bảo tồn
và phát huy.

18


Năm là, công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước là vấn đề tất yếu sẽ
diễn ra và công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nhằm cải
tạo và làm mới quá trình sản xuất nông nghiệp, thay đổi diện mạo của nông
thôn, nâng cao đời sống của nhân dân. Thực hiện thành công chương trình
xây dựng nông thôn mới nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại
hóa.
1.2. Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới
1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới
- Khái niệm quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ
quan nhà nước tiến hành đối với tất cả mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội,
trên tất cả các mặt của đời sống xã hội bằng cách sử dụng quyền lực nhà nước
có tính cưỡng chế đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ lợi ích chung của cả

cộng đồng, duy trì ổn định, an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển theo
một định hướng thống nhất của Nhà nước [12, tr.10].
Có thể hiểu quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang
tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh các
hành vi của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ
quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của
con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
- Khái niệm quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới
Từ khái niệm xây dựng nông thôn mới và khái niệm quản lý nhà nước đã
phân tích ở trên có thể hiểu khái niệm quản lý nhà nước về xây dựng nông
thôn mới là hoạt động tổ chức, điều hành của cơ quan nhà nước từ Trung
ương đến địa phương tác động vào khu vực nông nghiệp, nông thôn và nông
dân nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng nông thôn mới, hướng đến sự phát
triển bền vững của nền kinh tế, đưa khu vực nông thôn phát triển toàn diện và

19


đồng bộ theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất,
chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao; xã hội ổn định, giàu bản sắc
văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông
thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường, an ninh trật tự được tăng
cường; đảm bảo cho người dân có cuộc sống tốt đẹp hơn, đời sống vật chất,
tinh thần ngày càng được nâng cao.
1.2.2. Vai trò của quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới
Để thực hiện thành công chương trình xây dựng nông thôn mới rất cần
sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Trong đó, cấp ủy Đảng đóng vai trò
lãnh đạo; Nhà nước quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện; người dân phát huy
vai trò chủ thể trong xây dựng nông thôn mới; các tổ chức đoàn thể trong hệ
thống chính trị tuyên truyền vận động, đi sâu nắm bắt tâm tư nguyện vọng của

quần chúng nhân dân, kịp thời giải đáp những vướng mắc của quần chúng
nhằm tạo nên sự thống nhất cao trong mọi tầng lớp nhân dân, mọi đối tượng
quần chúng để có cơ sở tạo điều kiện triển khai nhanh và đúng tiến độ chương
trình xây dựng nông thôn mới. Nói đến quản lý nhà nước đối với xây dựng
nông thôn mới chính là nói đến tính hiệu lực, hiệu quả sự tác động của Nhà
nước ta đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực nông thôn theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cho thấy quản lý nhà nước đối với xây
dựng nông thôn mới có vai trò rất quan trọng như sau:
Một là, Nhà nước là cơ quan ban hành các nghị định, quy định, văn bản
pháp luật nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn và thực hiện chức năng
quản lý của mình trong xây dựng nông thôn mới;
Hai là, xây dựng quy hoạch và đảm bảo thực hiện xây dựng nông thôn
mới theo đúng quy hoạch;
Ba là, triển khai các giải pháp nhằm huy động, quản lý và sử dụng hiệu
quả nguồn lực thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới;

20


×