Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN CHU TR ÌNH TIỀN LƯƠNG VÀ NHÂN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO CÔNG TY KIỂM TOÁN DELOITTE VIỆT NAM THỰC HIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.57 KB, 33 trang )

THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN CHU TR ÌNH TIỀN LƯƠNG VÀ
NHÂN VIÊN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO
CÔNG TY KIỂM TOÁN DELOITTE VIỆT NAM THỰC HIỆN
I. Kiểm toán chu trình tiền lương và nhân viên trong kiểm toán báo cáo tài
chính
1. Vai trò, mục tiêu kiểm toán chu trình tiền lương và nhân viên trong
kiểm toán báo cáo tài chính
1.1. Vai trò của kiểm toán chu trình tiền lương và nhân viên trong kiểm
toán BCTC
Kiểm toán chu trình tiền lương và nhân viên đóng một vai trò quan trọng
trong kết quả hoạt động của doanh nghiệp vì một số lí do sau đây:
- Chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương là một khoản chi phí lớn
trong hầu hết các doanh nghiệp và các tổ chức
- Chi phí tiền lương được xem là một khoản mục trọng yếu khi đánh giá giá
trị hàng tồn kho của các công ty sản xuất hay xây dựng vì nếu việc phân loại và
phân bổ chi phí tiền lương mà không đúng đắn cho các đối tượng chịu chi phí
thì sẽ dẫn đến sai sót trọng yếu về giá trị sản phẩm dở dang và giá trị hàng tồn
kho và tất nhiên ảnh hưởng tới lợi tức
- Tiền lương là một lĩnh vực có thể xảy ra các hình thức gian lận của nhân
viên làm cho một lượng tiền lớn của công ty bị sử dụng kém hiệu quả hoặc bị
thất thoát.
- Ngoài ra tiền lương chính là phần thù lao lao động được biểu hiện bằng
tiền mà doanh nghiệp trả cho người lao động căn cứ vào thời gian, khối lượng
và chất lượng công việc của họ. Về bản chất tiền lương tiền lương chính là biểu
hiện bằng tiền của giá cả sức lao động. Mặt khác tiền lương còn là đòn bẩy kinh
tế để khuyến khích tinh thần hăng hái lao động, kích thích và tạo mối quan tâm
của người lao động đến kết quả công việc của họ. Tổ chức tốt kế toán lao động,
tiền lương và các khoản trích theo lương là một trong những điều kiện để quản
lí tốt quỹ lương và quỹ bảo hiểm xã hội đảm bảo cho việc trả lương và bảo hiểm
xã hội đúng nguyên tắc, đúng chế độ, có tác dụng khuyến khhích người lao
động nâng cao năng xuất lao động; đồng thời tạo điều kiện tính và phân bổ chi


phí tiền lương và các khoản trích theo lương vào giá thành sản phẩm chính xác.
Do đó, kiểm toán chu trình tiền lương và nhân viên thường được kiểm
toán viên chú trọng trong các cuộc kiểm toán.
1.2. Mục tiêu của kiểm toán chu trình tiền lương và nhân viên
Mục tiêu chung: đối với chu trình này là kiểm toán viên phải thu thập các
bằng chứng để khẳng định tính trung thực và hợp lý của các nghiệp vụ về tiền
lương và nhân viên, tất cả các thông tin tài chính trọng yếu có liên quan tới chu
trình đều được trình bày phù hợp với các nguyên tắc và chế độ kế toán hiện
hành
Mục tiêu hiện hữu: nghĩa là các nghiệp vụ tiền lương đã được ghi chép thì
thực sự đã xảy ra và số dư tài khoản tiền lương và các khoản trích theo lương
phải thực sự tồn tại.
Mục tiêu trọn vẹn: mục tiêu về sự trọn vẹn đối với các nghiệp tiền lương
có ý nghĩa rằng tất cả các nghiệp vụ tiền lương đã xảy ra thì đều được ghi chép
đầy đủ.
Mục tiêu về quyền và nghĩa vụ: mục tiêu quyền và nghĩa vụ đối với chu
trình này có nghĩa rằng đơn vị phải có nghĩa vụ thanh toán tiền lương và các
khoản trích trên tiền lương theo đúng chế độ tài chính kế toán hiện hành.
Mục tiêu tính giá: mục tiêu về sự đo lường và tính giá đối với các nghiệp
vụ tiền lương và các số dư có liên quan nghĩa là những giá trị đã được ghi chép
về các nghiệp vụ tiền lương hợp lệ là đúng. Nhiều khi giá trị của các nghiệp vụ
về tiền lương được phản ánh, ghi chép không chính xác do một số các nguyên
nhân khác nhau. Mục tiêu về tính giá đối với các nghiệp vụ tiền lương còn có ý
nghĩa quan trọng trong công việc lập các bản báo cáo các khoản thuế phải nộp
và các khoản phải nộp khác có liên quan tới tiền lương. Để tránh rủi ro về sai
phạm trong việc tính toán các khoản thuế và các khoản phải nộp liên quan tới
tiền lương thì các tổ chức thường phân công một nhân viên thực hiện rà soát
một cách độc lập về vấn đề tính toán và lập các báo cáo.
Mục tiêu phân loại và trình bày: mục tiêu phân loại và trình bày đối với
nghiệp vụ tiền lương có nghĩa là chi phí tiền lương và các khoản phải thanh toán

cho công nhân viên phải được trình bày vào các tài khoản thích hợp. Có nhiều
khi chi phí nhân công trực tiếp lại được phản ánh vào tài khoản chi phí sản xuất
chung, chi phí quản lí doanh nghiệp hay chi phí bán hàng. Những sai phạm như
vậy sẽ dẫn đến những sai lệch trong các khoản chi phí và ảnh hưởng đến giá trị
hàng tồn kho cũng như những tài sản có liên quan khác trên báo cáo tài chính.
1.3. Các loại hình kiểm soát nội bộ đối với khoản mục tiền lương
Các loại hình kiểm soát nội bộ trong chu trình tiền lương và nhân viên được
thiết lập nhằm thực hiện các chức năng của chu trình
Nghiệp vụ phê duyệt: Các cần được tuyển dụng dựa trên các tiêu chuẩn do
ban quản lí phê duyệt để phòng nhân sự có thể tuyển chọn được đúng người,
đúng việc thì doanh nghiệp cần có các tiêu chí tuyển dụng lao động rõ ràng.
Nếu không, sẽ chỉ tuyển chọn, thuê mướn được những lao động kém về năng
lực và phẩm chất dẫn tới việc tăng chi phí đào tạo, phải bỏ ra những chi phí
không đáng có.
Ghi sổ kế toán về tiền lương: các khoản chi liên quan tới lương, thưởng, các
khoản trích theo lương, khoản khấu trừ, thuế, phúc lợi phải được ghi chép chính
xác về số học, nếu không sẽ dẫn tới việc chi phí và nợ sau đó bị trình bày sai, và
việc phân bổ chi phí nhân công sẽ không chính xác.
Thực chi: thiết lập các thủ tục tiền lương và nhân viên cần phải tuân thủ
theo sự phê chuẩn của ban quản lí, tất cả các khoản chi tiền lương phải căn cứ
váo các khoản nợ đã được ghi nhận.
Tiếp cận hệ thống sổ sách: nhằm kiểm soát đối với các khoản chi không
đúng chỗ và những chi phí nhân công không được thông qua thì ban quản lí
doanh nghiệp cần đưa ra chính sách nhằm hạn chế việc tiếp cận hệ thống báo
cáo sổ sách nhân sự và kế toán tiền lương ở một số người có thẩm quyền. Chẳng
hạn, ban quản lí có thể tạo ra các hàng rào cản trở những nhân viên không có
phận sự tiếp cận tới tài liệu của bộ phận nhân sự và bộ phận tiền lương, và phân
chia trách nhiệm tách bạch giữa các quyền phê duyệt, quyền ghi chép sổ sách,
và quyền thanh toán tiền lương để hạn chế các hành vi gian lận
Phân chia trách nhiệm: để đảm bảo một cánh thoả đáng về việc phân chia

tách bạch các trách nhiệm thì bộ phận nhân sự cần phải tách bạch khỏi trách
nhiệm tính toán lương, thưởng; lập bảng lương, thưởng; chi lương, thưởng và
trách nhiệm giám sát thời gian lao động hoặc dịch vụ hoàn thành. Nếu không
chức năng phê duyệt của bộ phận nhân sự sẽ phối hợp với chức năng thanh toán
tiền lương dẫn tới các cơ hội tăng mức lương, bậc lương một cách cố ý vì mục
đích tư lợi hoặc tạo ra nhân viên khống.
2. Quy trình kiểm toán chu trình tiền lương và nhân viên trong kiểm toán
báo cáo tài chính tại công ty TNHH Deloitte Việt Nam
2.1. Lập kế hoạch kiểm toán
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các kiểm toán viên cần
thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý cũng như
các điều kiện cần thiết khác cho cuộc kiểm toán. Chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam số 300 về “lập kế hoạch kiểm toán” cũng đã nêu rõ kiểm toán viên và công
ty kiểm toán cần lập kế hoạch kiểm toán để có thể đảm bảo rằng cuộc kiểm toán
đã được tiến hành một cách có hiệu quả. Tại Deloitte Việt Nam lập kế hoạch
kiểm toán cho từng khách hàng do manager và partner phụ trách khách hàng đó
lập và dựa theo kế hoạch chuẩn trên phần mền AS2 và thường thì bao gồm các
bước công việc
Chuẩn bị kiểm toán: công việc đầu tiên trong bước này là đánh giá khả năng
chấp nhận kiểm toán, đối với những khách hàng quen thuộc của công ty thì
bước công việc này thường thực hiện đơn giản. Đối với khách hàng mới đây là
một bước cực kì quan trọng đối với Deloitte Việt Nam. Manager và partner sẽ
đánh giá hệ thống kiểm soát chất lượng, độ liêm chính của ban giám đốc, liên hệ
với kiểm toán viên tiền nhiệm để đánh giá xem việc chấp nhận hay tiếp tục với
khách hàng này có làm tăng rủi ro hoạt động của KTV hay làm hại đến uy tín và
hình ảnh của công ty hay không? Ở Deloitte Việt Nam đang hướng tới những
khách hàng ít rủi ro, công ty đang loại bỏ đần những khách hàng rủi ro cao. Tiếp
theo là nhận diện các lý do kiểm toán thì manager và partner sẽ phỏng vấn trực
tiếp ban giám đốc công ty khách hàng để biết rõ lí do kiểm toán, việc nhận diện
lí do kiểm toán của khách hàng cũng giúp cho công ty kiểm toán ước lượng

được quy mô phức tạp của công việc kiểm toán cần thực hiện từ đó tạo điều
kiện thuận lợi cho việc lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán thích hợp. Việc
lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán của Deloitte do các manager chọn và tuân
thủ theo đúng chuẩn mực chung được thừa nhận. Khi đã quyết định chấp nhận
kiểm toán cho khách hàng thì công ty sẽ kí với khách hàng một hợp đồng về
thực hiện kiểm toán và các dịch vụ liên quan khác( ăn, ở, đi lại của KTV)
Thu thập thông tin cơ sở: Tất cả các thành viên trong nhóm kiểm toán đều có
trách nhiệm thu thập hiểu biết về ngành nghề, công việc kinh doanh của khách
hàng, tìm hiểu về hệ thống kế toán, hệ thống kiểm soát nội bộ và các bên liên
quan để đánh giá rủi ro và lên kế hoạch kiểm toán đối với những khách hàng
quen thuộc thì việc thu thông tin cơ sở về khách hàng chủ yếu sẽ ở file năm
ngoái còn với những khách hàng mới việc thu thập thông tin sẽ phải ở nhiều
nguồn. Trong giai đoạn này KTV đánh giá khả năng có những sai sót trọng yếu,
đưa ra đánh giá đầu về mức trọng yếu và thực hiện các thủ tục phân tích để xác
định thời gian cần thiết thực hiện cuộc kiểm toán và việc mở rộng các thủ tục
kiểm toán cần thiết khác.
Đối với kiểm toán tiền lương, kiểm toán viên tìm hiểu về chính sách tiền
lương của đơn vị, các phê duyệt về thay đổi mức lương bậc lương, thưởng, các
khoản phúc lợi, chính sách tuyển dụng, các quy chế chấm dứt hợp đồng lao
động …cũng như sự phân tách trách nhiệm giữa các phòng ban đặc biệt là
phòng tổ chức lao động và phòng kế toán tại đơn vị khách hàng
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng: bao gồm các thông
tin trong các tài liệu như: Giấy phép thành lập và điều lệ công ty, các Báo cáo
tài chính, báo cáo kiểm toán, biên bản thanh tra hay kiểm tra của năm hiện hành
hay trong vài năm trước, biên bản các cuộc họp cổ đông, hội đồng quản trị và
Ban Giám đốc, các hợp đồng và cam kết quan trọng. Công việc này giúp cho
kiểm toán viên nắm bắt được các quy trình mang tính pháp lý có ảnh hưởng đến
các mặt hoạt động kinh doanh của khách hàng, những thông tin này được thu
thập trong quá trình tiếp xúc với Ban giám đốc công ty khách hàng
Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro: Từ những thông tin đã thu thập ở trên

manager và partner sẽ phân tích đánh giá nhận xét để đưa ra một kế hoạch kiểm
toán phù hợp.
- Đánh giá tính trọng yếu: trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, kiểm
toán viên phải đánh giá mức độ trọng yếu để ước tính mức độ sai sót của Báo
cáo tài chính có thể chấp nhận được. Công việc này sẽ giúp cho kiểm toán viên
ước lượng được số bằng chứng kiểm toán cần thu thập một cách hợp lí. Trường
hợp kiểm toán viên xác định mức trọng yếu là thấp nghĩa là mức sai sót có thể
chấp nhận được phải thấp thì số lượng bằng chứng kiểm toán cần phải thu thập
sẽ nhiều hơn trong trường hợp kiểm toán viên xác định mức trọng yếu cao hơn.
- Đánh giá rủi ro: có ba loại rủi ro mà kiểm toán viên cần đánh giá trong
giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán
Rủi ro cố hữu: để đánh giá loại rủi ro này kiểm toán viên cần xem xét
đến bản chất kinh doanh của khách hàng, tính trung thực của Ban giám đốc, kết
quả các lần kiểm toán trước, các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên, kết quả
kiểm toán năm ngoái…
Rủi ro kiểm soát: thông qua việc tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ
của khách hàng mà kiểm toán viên đánh giá rủi ro kiểm soát là cao hay thấp.
Nếu hệ thống kiểm soát của khách hàng tốt thì rủi ro kiểm soát sẽ ở mức thấp và
ngược lại.
Rủi ro phát hiện: đó là khả năng xảy ra các sai sót và gian lận mà hệ
thống kiểm soát nội bộ của khách hàng và kiểm toán viên không phát hiện được.
Trình độ của kiểm toán viên là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc phát sinh
loại rủi ro này.
Ở Deloitte Việt Nam mức trọng yếu sẽ được xác định chung cho tất cả các
khoản mục chứ không phân bổ mức trọng yếu cho từng khoản mục, khoản mục
nào được xác định là quan trọng ảnh hưởng nhiều đến các khoản mục khác hay
có nhiều khả năng xảy ra sai xót sẽ được tập chung xem xét kĩ hơn.
2.2. Thực hiện kiểm toán
2.2.1. Thử nghiệm kiểm soát
Khảo sát tổng quan chu trình tiền lương và nhân viên: bảng tính lương của

đơn vị được kiểm toán chính là cơ sở để thanh toán tiền lương, ghi chép vào sổ
sách kế toán và phân bổ chi phí tiền lương, do đó nó thường là điểm xuất phát
trong các cuộc khảo sát về kiểm toán tiền lương và nhân viên. Và ở Deloitte
Viêt Nam cũng vậy, đầu tiên KTV chọn ra bảng tính lương của một kì nào đó để
kiểm tra độ chính xác số học của việc tính toán, và việc phân bổ vào các tài
khoản hợp lí. Sau đó KTV chọn ngẫu nhiên một số nhân viên kiểm tra sự hoàn
hảo của các hồ sơ và rà soát lại các báo cáo hoạt động nhân sự về sự phê duyệt
xem có hợp lí không ( bao gồm kiểm tra hợp đồng lao động, các giấy tờ liên
quan đến việc tuyển dụng…), đồng thời KTV so sánh các mức lương, bậc lương
và các khoản khấu trừ trên các sổ nhân sự với các thông tin như vậy trên bảng
tính lương để xác định xem chúng có giống nhau hay không.
Các khảo sát tiền lương khống: Trong lĩnh vực tiền lương và nhân viên có
nhiều cách khác nhau để nhân viên có thể thực hiện hành vi gian lận, tuy nhiên
hình thức phổ biến nhất vẫn là “lương khống”. Lương khống có thể biểu hiện
dưới hình thái là số nhân viên khống hoặc số giờ lao động hoặc số lượng sản
phẩm hoàn thành khống, để kiểm soát được những gian lận này KTV của
Deloitte Việt Nam có một số giả pháp như sau:
- Số nhân viên khống: đó là việc tiếp tục viết phiếu chi cho nhân viên đã
thôi việc hoặc đã mãn hạn hợp đồng hoặc không có thực. Hành động gian lận
này rất dễ xảy ra ở những đơn vị mà nguyên tắc phân công phân nhiệm, nguyên
tắc bất kiêm nhiệm không được tuân thủ.
Để kiểm soát nghiệp vụ này KTV của Deloitte so sánh tên trên các phiếu
chi hoặc séc chi lương đã thanh toán với các bảng chấm công và các giấy tờ liên
quan khác về chữ kí phê chuẩn và tính hợp lí của chữ kí tắt mặt sau.
Một thủ tục khác nữa là KTV chọn ra một số hồ sơ nhân viên từ sổ nhân sự
nhằm tìm các nhân viên đã thôi việc đã mãn hạn hợp đồng lao động trong năm
hiện hành để xác định xem các khoản thanh toán mãn hạn hợp đồng cho nhân
viên này có phù hợp với chính sách của công ty hay không.
Kiểm tra việc thanh toán lương cho nhân viên để đảm bảo việc chấm dứt
thanh toán cho những nhân viên đã kết thúc hợp đồng lao động. Một nhược

điểm của thủ tục này là nếu phòng nhân sự không được báo cáo về việc mãn
hạn hợp đồng thì thủ tục này sẽ không còn hiệu lực.
Một biện pháp khác mà KTV của Dloitte Việt Nam tiến hành nhằm kiểm
soát số nhân viên khống bằng cách là yêu cầu trả lương đột xuất, mọi nhân viên
đều phải trực tiếp kí vào phiếu chi hoặc séc chi của mình dưới sự giám sát của
KTV. Đây là hình thức rất tốn thời gian và công sức của cả hai phía nên rất hiếm
khi được thực hiện.
- Số giờ, khối lượng công việc, sản phẩm hoặc lao vụ hoàn thành khống:
hình thức này dễ xảy ra trong những trường hợp do việc theo dõi thời gian, giám
sát và quản lí không chặt chẽ hoặc do sự móc nối giữa người giám sát với nhân
viên của họ.
Để khảo sát hình thức gian lận này các KTV của Deloitte Việt Nam tiến
hành cân đối tổng số giờ công, ngày công hoặc khối lượng công việc hay lao vụ
được thanh toán theo số lương với số liệu ghi chép độc lập và được kiểm tra
thường xuyên của KTVNB tại từng bộ phận hoạt động. Hoặc KTV sẽ tiếp cận
với quản đốc nhằm theo dõi việc chấm công của quản đốc và phỏng vấn nhân
viên về việc kiểm soát giờ giấc của quẩn đốc.
* Ngoài ra có một thủ tục mà các KTV Deloitte Việt Nam thường xuyên
dùng để khảo sát tiền lương khống đó là thủ tục ước tính lương có hai cách
thường dùng để ước tính đó là:
- Đối với các doanh nghiệp không có biến động nhiều về mức lương và số
nhân công thì KTV sẽ chọn mẫu một tháng lương sau đó nhân với mười hai
tháng để tính ra mức lương của công ty trong một năm. Từ số ước tính này KTV
so sánh với số của khách hàng nếu chênh lệch nhỏ hơn mức trọng yếu cho phép(
mức trọng yếu này được manager hay partner xác định trong kế hoạch kiểm
toán) thì bỏ qua, nếu chênh lệch lớn hơn mức trọng yếu đặt ra thì yêu cầu ban
giám đốc giả trình.
- Đối với doanh nghiệp mà mức lương và số nhân viên thường xuyên thay
đổi thì KTV sẽ tính ra mức lương trung bình một tháng của một nhân viên trong
năm ngoái dựa vào hồ sơ kiểm toán năm trước theo công thức

Lương TB của 1 nhân viên = Tổng lương/ ( 12 x số nhân viên trung bình)
Trong đó: Tổng lương lấy trên số liệu kiểm toán năm trước
Số nhân viên trung bình cũng lấy số liệu kiểm toán măn trước
Từ số tiền lương trung bình của một nhân viên trong năm trước KTV nhân với
mức biến động lương trong năm nay so với năm trước( số liệu về mức biến
động lương năm nay so với năm trước do ban giám đốc giải trình) để tính ra tiền
lương trung bình của một nhân viên trên một tháng trong năm nay. Sau đó KTV
sẽ lấy số nhân viên trung bình của năm nay( số liệu này được phòng nhân sự
cung cấp) nhân với mức lương trung bình năm nay vừa tính được tính được và
nhân với mười hai tháng sẽ ra tổng tiền lương năm nay của doanh nghiệp do
KTV ước tính. Từ số ước tính này KTV so sánh với số của khách hàng nếu
chênh lệch nhỏ hơn mức trọng yếu cho phép( mức trọng yếu này được manager
hay partner xác định trong kế hoạch kiểm toán) thì bỏ qua, nếu chênh lệch lớn
hơn mức trọng yếu đặt ra thì yêu cầu ban giám đốc giả trình.
Các khảo sát việc phân bổ chi phí tiền lương vào các đối tượng sử dụng lao
động: việc tính và phân bổ tiền lương cho các đối tượng sử dụng lao động
không đúng sẽ dẫn tới việc đánh giá sai lệch các tài sản trên bảng cân đối kế
toán, sai lệch các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả kinh doanh chẳng hạn như sẽ làm
sai lệch giá trị của các chỉ tiêu như: sản phẩm dở dang, thành phẩm, hàng tồn
kho, giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp…
Để khảo sát nghiệp vụ này các KTV sẽ xem xét tính nhất quán trong hạch
toán chi phí giữa các kỳ kế toán đối với việc phân loại các bộ phận chịu phí ( bộ
phận trực tiếp sản xuất, bán hàng, quản lí doanh nghiệp…). Ngoài ra KTV còn
kiểm tra sơ đồ hạch toán tiền lương xem có đúng theo quy định hiện hành và
chính sách đã đề ra của công ty hay không.
Các khảo sát đối với các khoản trích theo lương: theo quy định của chính sách
kế toán hiện hành, quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y tế và kinh phí công
đoàn là các khoản trích theo lương. Đối với các khoản này thì KTV của Deloitte
sẽ lấy kết quả của việc kiểm toán tiền lương làm căn cứ tính ra quỹ bảo hiểm xã
hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. Đồng thời đối chiếu với biên bản xác

nhận của cơ quan bảo hiểm xem đơn vị có hạch toán đúng hay không.
2.2.2. Thử nghiệm cơ bản
Sau khi tiến hành các thử nghiệm kiểm soát, nếu KTV nhận thấy rằng hệ
thống kiểm soát nội bộ của khách hàng hoạt động tốt, các nghiệp vụ về tiền
lương đã được tính toán và vào sổ đúng đắn, các sổ nhật ký tiền lương, các bảng
tính lương, bảng chấm công, các phương pháp phân bổ chi phí phí và các báo
cáo có liên quan đều thống nhất thì các khảo sát chi tiết số dư sẽ được giảm bớt
và ngược lại.
Nếu KTV nhận thấy có sự thay đổi đáng kể trong thủ tục kiểm soát hoặc trong
việc áp dụng các phương pháp hạch toán mới của khách hàng thì KTV sẽ bổ
sung thêm các thử nghiệm tuân thủ để đánh giá hệ thống KSNB hoặc là sẽ đánh
giá rủi ro kiểm soát cao và sẽ không cần xem xét hệ thống KSNB mà thực hiện
luôn thử nghiệm cơ bản.
Mục tiêu của các thử nghiệm cơ bản trong kiểm toán tiền lương và các
khoản trích theo lương là kiểm tra xem các khoản tính dồn về tiền lương và các
khoản trích theo lương có được đánh giá đúng hay không đồng thời cũng xác
định xem các nghiệp vụ trong chu trình tiền lương và nhân viên có được thanh
toán và ghi sổ đúng kì hạn hay không. Các số dư tài khoản của tài khoản tiền
lương thưởng và các khoản phải trả CNV (TK334), tài khoản phải trả, phải nộp
khác (TK338), các tài khoản liên quan đến các khoản trích theo lương như
BHXH, BHYT, KPCĐ và các tài khoản liên quan đến chu trình tiền lương như
chi phí nhân công trực tiếp (TK622), chi phí sản xuất chung (TK627), chi phí
quản lí doanh nghiệp (TK642) sẽ là đối tượng thường xuyên của các KTV thực
hiện kiểm toán tiền lương và nhân viên nếu KTV thực hiện thử nghiệm cơ bản.
Cụ thể:
- Đối với tài khoản “ Phải trả công nhân viên- TK334” khi thực hiện thử
nghiệm cơ bản KTV sẽ tiến hành thông qua số dư tiền lương, tiền thưởng và các
khoản thanh toán khác cho CNV. Khi tiến hành thử nghiệm cơ bản trên số dư
tiền lương KTV sẽ vận dụng những hiểu biết về những chính sách và chế độ
thanh toán tiền lương của doanh nghiệp từ những bước tìm hiểu về khách hàng

ở trên và từ đó đánh giá xem chúng có được tuân thủ một cách nhất quán hay
không. Khi KTV đã xác định được chính sách của doanh nghiệp đối với tiền
lương là nhất quán giữa các kì kế toán thì KTV sẽ bắt đầu xem xét đến thời hạn
và độ tin cậy của số dư trên tài khoản “ Phải trả công nhân viên”.
Về các khoản tiền thưởng tính dồn tại một số doanh nghiệp, số tiền thưởng
phải trả cho người lao động chưa được trả vào cuối niên độ là một khoản mục
lớn, nếu không ghi chép kịp thời và chính xác sẽ dẫn tới những sai sót trọng yếu
trên bảng cân đối kế toán. Để kiểm tra khoản mục này KTV sẽ xem xét tính kịp
thời và chính xác trong việc ghi sổ các khoản đó thông qua việc đối chiếu với
quyết định hay biên bản của ban quản lý về sự phê duyệt các khoản tiền lương
đối với người lao động.
Đối với các khoản phải trả khác cho công nhân viên, bao gồm các khoản
được chia từ phúc lợi, tiền nghỉ ốm đau, thai sản, bảo hiểm mà người lao động
được hưởng thì KTV sẽ xem xét tính nhất quán trong cách tính dồn giữa các kì
kế toán sau đó KTV sẽ kiểm tra độ tin cậy của số liệu bằng cách tính toán lại chi
tiết các khoản tiền liên quan đã được ghi sổ và cộng dồn, đồng thời sẽ xem xét
các chứng từ tài liệu đính kèm.
- Đối với khoản “Phải trả phải nộp khác- TK338” có liên quan tới các khoản
trích nộp trên tiền lương như: BHXH, BHYT, KPCĐ thì KTV sẽ so sánh số dư
trên các tài khoản chi tiết với số liệu trên bảng tính trích BHXH, BHYT, KPCĐ
và đối chiếu với các khoản chi bằng tiền đã phát sinh trên các chứng từ chi tiền
mặt.
- Đối với các khoản chi phí liên quan đế chu trình tiền lương và nhân viên “
Chi phí nhân công trực tiếp- TK 622” “ Chi phí quản lý sản xuất chung-
TK627” “ Chi phí bán hàng- TK641” và “ Chi phí quản lý doanh nghiệp-
TK642” thì KTV thường chỉ tiến hành bổ sung các thử nghiệm cơ bản khi phát
hiện những nhược điểm trong cơ cấu KSNB của đơn vị kiểm tra liên quan tới
việc hạch toán và ghi sổ các tài khoản này. Ngoài ra các thông tin của khoản
mục này sẽ được đối chiếu với KTV làm phần hành chi phí.
2.3. Kết thúc kiểm toán

2.3.1. Xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ
Kiểm toán viên có trách nhiệm xem xét lại các nghiệp vụ và các sự kiện
xảy ra sau ngày kết thúc niên độ để xác định liệu có sự kiện gì xảy ra mà có thể
có ảnh hưởng đến ý kiến của KTV hay không, nếu có sự kiện nào đó ảnh hưởng
đến ý kiến kiểm toán thì KTV sẽ yêu cầu kế toán đưa ra bút toán điều chỉnh
điều chỉnh (đối với khoản mục tiền lương thì thường xảy ra việc kế toán phân
bổ chi phí tiền lương không hợp lí ). Việc chấp nhận điều chỉnh hay không của
kế toán sẽ ảnh hưởng tới kết luận của kiểm toán viên sau này.
2.3.2. Tổng hợp và đánh giá kết quả kiểm toán
Giai đoạn này KTV phải hoàn thành tất cả các thủ tục kiểm toán sau đó
hợp nhất tất cả các kết quả vào một kết luận chung. KTV phải quyết định liệu
bằng chứng kiểm toán đã được tập hợp đầy đủ để đảm bảo cho kết luận là các
báo cáo tài chính đã được trình bày phù hợp với chuẩn mực và chính sách kế
toán hiện hành hay chưa.
2.3.3. Lập báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính là báo cáo bằng văn bản do KTV
lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về báo cáo tài chính của
khác hàng. Ý kiến của KTV có thể là:
- Ý kiến chấp nhận toàn phần: KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến
chấp nhận toàn phần khi báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán phản ánh
trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu và phù hợp với các chuẩn mực
và chính sách kế toán hiện hành, nhưng không có nghĩa là báo cáo tài chính
được kiểm toán là chính xác tuyệt đối mà có thể có sai sót nhưng sai sót đó
không trọng yếu.
- Ý kiến chấp nhận từng phần: KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến
chấp nhận từng phần khi báo cáo tài chính chỉ phản ánh trung thực và hợp lý
tình hình tài chính của đơn vị trên các khía cạnh trọng yếu nếu không bị ảnh
hưởng bởi các yếu tố tùy thuộc mà kiểm toán viên đã nêu ra trong báo cáo kiểm
toán về báo cáo tài chính ( trong trường hợp này nếu kế toán chấp nhận điều
chỉnh các yếu tố ảnh hưởng do KTV đưa ra thì có thể đưa ra ý kiến chấp nhận

toàn phần)
- Từ chối đưa ra ý kiến: KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến từ chối
trong trường hợp hậu quả của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng
hoặc tính không đầy đủ về thông tin đến mức làm cho KTV không thể thu thập
đầy đủ bằng chứng kiểm toán để đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính.
- Ý kiến không chấp nhận: KTV và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến không
chấp nhận khi không thống nhất được với ban giám đốc khách hàng về những

×