Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Lý thuyết về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.61 KB, 33 trang )

Lý thuyết về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp
1.1. Giá trị doanh nghiệp
1.1.1 Doanh nghiệp và giá trị doanh nghiệp
1.1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp
Xét theo lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, doanh nghiệp là chủ thể kinh tế
độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm
tăng giá trị của chủ sở hữu.
Trong nền kinh tế, doanh nghiệp là chủ thể quan trọng thực hiện các hoạt
động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. Con người sở hữu
doanh nghiệp, chính là sở hữu cách thức và phương tiện tạo ra lợi nhuận.
Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp được coi là một loại tài sản. Cũng
giống như các loại tài sản khác, doanh nghiệp cũng được đem ra mua bán, hợp
nhất, chia nhỏ… Do đó, doanh nghiệp cũng không nằm ngoài sự chi phối của
các quy luật thị trường, trong đó có quy luật giá trị. Giá cả của doanh nghiệp
cũng phải tuân theo quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Tuy nhiên khác với
tài sản thông thường, doanh nghiệp không phải là một kho hàng, doanh nghiệp
còn là một tổ chức kinh tế, một thực thể đang hoạt động. Do vậy, không chỉ gồm
các tài sản hữu hình, doanh nghiệp thực sự sở hữu các tài sản vô hình khác như
giá trị thương hiệu, bí quyết kinh doanh, quyền khai thác, tiềm năng phát triển
của doanh nghiệp trong tương lai… Vì thế khái niệm giá trị doanh nghiệp phải
dựa trên tài sản là doanh nghiệp đang hoạt động, mà mỗi bộ phận tài sản cấu
thành nên doanh nghiệp đó không thể tách rời, các yếu tố cấu thành hữu hình và
vô hình là một thể thống nhất.
1.1.1.2 Khái niệm và đặc điểm của giá trị doanh nghiệp
Giá trị doanh nghiệp được định nghĩa là sự biểu hiện bằng tiền tại một
thời điểm nhất định về các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại
cho các nhà đầu tư trong quá trình kinh doanh.
Giá trị thực sự của doanh nghiệp phụ thuộc vào những quan niệm về giá
trị doanh nghiệp khác nhau của từng đối tượng khác nhau.
Một cách chung nhất, giá trị doanh nghiệp được đo bằng độ lớn của các
khoản thu nhập mà DN đem lại cho nhà đầu tư. Do đó giá trị doanh nghiệp khác


với giá bán doanh nghiệp_được đo bằng cung, cầu “hàng hoá DN”. Giá trị
doanh nghiệp vẫn tồn tại ngay cả khi không có hoạt động mua- bán DN, mà nó
chủ yếu được coi như một tiêu chí đánh giá các khoản thu nhập DN có khả năng
đưa lại. Giá trị doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, trong đó
nhiều nhân tố đòi hỏi sự đánh giá chủ quan, biến động, khó định lượng.
1.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp
Giá trị doanh nghiệp bị ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, bao gồm:
1.1.2.1 Yếu tố môi trường
 Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô:
- Môi trường kinh tế:
Doanh nghiệp luôn tồn tại trong một bối cảnh kinh tế cụ thể. Bối cảnh kinh
tế đó được nhìn nhận thông qua các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng
trưởng kinh tế, chỉ số giá cả, tỷ lệ ngoại tệ, tỷ suất đầu tư, các chỉ số trên thị
trường chứng khoán… Mặc dù môi trường kinh tế mang tính chất như yếu tố
khách quan nhưng ảnh hưởng của chúng tới giá trị doanh nghiệp lại là sự tác
động trực tiếp. Một sự thay đổi nhỏ của mỗi yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng
tới sự đánh giá về doanh nghiệp. Trong mỗi trường hợp, sự đánh giá về doanh
nghiệp, trong đó có giá trị doanh nghiệp sẽ khác nhau, và có khi bị đảo lộn hoàn
toàn.
- Môi trường chính trị:
Sản xuất kinh doanh chỉ có thể ổn định và phát triển trong môi trường có sự
ổn định về chính trị ở mức độ nhất định. Chiến tranh, xung đột sắc tộc, tôn giáo,
tính thiếu minh bạch và công bằng trong cơ chế vận hành cũng như các yếu tố
trật tự an toàn xã hội khác bao giờ cũng có những tác động xấu đến mọi mặt của
đời sống xã hội chứ không riêng gì đối với sản xuất kinh doanh.
- Môi trường văn hoá xã hội:
Môi trường văn hoá được đặc trưng bởi những quan niệm, hệ tư tưởng của
cộng đồng về lối sống, đạo đức… được thể hiện trong quan niệm về “chân,
thiện, mỹ”; quan niệm về nhân cách, văn minh xã hội thể hiện trong tập quán
sinh hoạt và tiêu dùng.

Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi,
mật độ , sự gia tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người và hàng loạt các vấn
đề nảy sinh như ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt…
Trên phương diện xã hội, doanh nghiệp ra đời là để đáp ứng những đòi hỏi
ngày càng cao trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng nơi doanh
nghiệp đang hoạt động. Chính vì thế, đánh giá về doanh nghiệp không thể bỏ
qua những yếu tố, những đòi hỏi bức xúc của môi trường văn hoá xã hội trong
hiện tại mà còn phải thực hiện dự báo được sự ảnh hưởng của yếu tố này đến
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai.
- Môi trường khoa học công nghệ:
Sự tác động của kỹ thuật công nghệ đang làm thay đổi một cách căn bản
các điều kiện về quy trình công nghệ và phương thức tổ chức sản xuất kinh
doanh trong các doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, sự biến đổi về khoa học
và công nghệ không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối với sự tồn tại của
mỗi doanh nghiệp. Sự thiếu nhạy bén trong việc chiếm lĩnh những thành tựu
khoa học mới nhất có thể là nguyên nhân đưa doanh nghiệp mau chóng đến chỗ
phá sản. Chính vì thế, khi đánh giá về doanh nghiệp, đòi hỏi phải chỉ ra mức độ
tác động của môi trường này đến sản xuất kinh doanh và khả năng thích ứng của
doanh nghiệp trước những bước phát triển mới của khoa học công nghệ.
 Các yếu tố thuộc môi trường ngành:
- Quan hệ của doanh nghiệp với khách hàng:
Thị trường là yếu tố quyết định đầu ra đối với sản phẩm của doanh nghiệp,
hay chính là quyết định khả năng phát triển, mở rộng sản xuất của doanh
nghiệp. Thị trường của doanh nghiệp được duy trì và phát triển khi mà mức độ
bền vững và uy tín của doanh nghiệp với khách hàng được đảm bảo. Do vậy
muốn đánh giá khả năng phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp cần phải xác định tính chất mức độ bền vững và uy tín của doanh nghiệp
trong quan hệ với khách hàng, được đánh giá qua các yếu tố như sự trung thành
và thái độ của khách hàng, số lượng và chất lượng khách hàng…Căn cứ có sức
thuyết phục cao nhất là thị phần hiện tại, thị phần tương lai, doanh số bán ra và

tốc độ tiến triển của các chỉ tiêu qua các thời kỳ kinh doanh khác nhau.
- Quan hệ doanh nghiệp với nhà cung cấp:
Doanh nghiệp phải trông đợi sự cung cấp từ phía bên ngoài các loại hàng
hoá, nguyên vật liệu, dịch vụ điện nước, thông tin, tư vấn… Tính ổn định của
nguồn cung cấp có ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho sản xuất và tiêu thụ được
thực hiện theo yêu cầu mà doanh nghiệp định ra.
- Các hãng cạnh tranh:
Đối thủ cạnh tranh chính là nguy cơ trực tiếp đến sự tồn tại của doanh
nghiệp. Sự quyết liệt trong môi trường cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải có
những chính sách thích hợp để củng cố vị trí của mình trên thương trường.
Đồng thời phải có khả năng dự báo về việc xuất hiện các đối thủ cạnh tranh mới
trong tương lai.
- Các cơ quan Nhà nước:
Sự hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào luôn phải đặt dưới sự kiểm tra
giám sát của các cơ quan nhà nước, bao gồm cơ quan thuế, cơ quan thanh tra, cơ
quan môi trường…Doanh nghiệp có quan hệ tốt đẹp với các tổ chức này tức là
đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình đối với xã hội và cũng là biểu hiện doanh
nghiệp có tiềm lực tài chính vững mạnh, lợi nhuận thu được chính đáng, có ảnh
hưởng tích cực tới giá trị của doanh nghiệp.
1.1.2.2 Yếu tố nội tại DN
 Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp
Tài sản của doanh nghiệp là biểu hiện của yếu tố vật chất cần thiết, tối thiểu
đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ thuật và
tính đồng bộ của các loại tài sản là yếu tố quyết định đến số lượng và chất lượng
sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất ra. Nói cách khác, khả năng cạnh tranh và
thu lợi nhuận của doanh nghiệp phụ thuộc trực tiếp và có tính chất quyết định
vào yếu tố này.
Mặt khác, giá trị các tài sản của doanh nghiệp được coi là một căn cứ và là
một sự đảm bảo rõ ràng nhất về giá trị của doanh nghiệp. Vì thay cho việc dự
báo các khoản thu nhập tiềm năng thì người sở hữu có thể bán chúng bất cứ lúc

nào để nhận về một khoản thu nhập từ những tài sản đó.
 Vị trí kinh doanh
Vị trí kinh doanh được đặc trưng bởi các yếu tố: địa điểm, diện tích, các chi
nhánh, yếu tố địa hình, thời tiết… Với vị trí thuận lợi doanh nghiệp có thể giảm
được nhiều khoản mục chi phí, đồng thời tiếp cận và nắm bắt nhanh chóng nhu
cầu thị hiếu của thị trường, thực hiện tốt các dịch vụ hậu mãi… Trong thực tế,
do sự khác nhau về vị trí kinh doanh mà có sự chênh lệch rất lớn khi đánh giá
về giá trị doanh nghiệp.
 Uy tín kinh doanh- thương hiệu
Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của doanh
nghiệp, được hình thành từ nhiều yếu tố khác nhau trong doanh nghiệp: chất
lượng sản phẩm, trình độ và năng lực quản trị kinh doanh, thái độ phục vụ tận
tình của nhân viên… Cùng sản xuất một loại sản phẩm nhưng doanh nghiệp do
có uy tín lớn có thể định giá cao cho sản phẩm của mình so với sản phẩm của
các doanh nghiệp khác không có được lợi thế này.
Có thể nói, khi đã xây dựng được uy tín-thương hiệu thì đó được coi như
một tài sản của doanh nghiệp vì nó góp phần tạo nên lợi nhuận cho doanh
nghiệp. Tài sản uy tín-thương hiệu có một giá trị nhất định. Vì vậy, uy tín-
thương hiệu của doanh nghiệp được thừa nhận như một yếu tố quan trọng cấu
thành nên giá trị của doanh nghiệp.
 Chất lượng lao động
Trình độ và chất lượng của lao động là nhân tố quan trọng tác động trực
tiếp đến chất lượng sản phẩm. Đồng thời, nhờ chất lượng lao động cao, doanh
nghiệp còn có thể giảm được chi phí sản xuất kinh doanh, chi phí đào tạo, bồi
dưỡng… góp phần nâng cao thu nhập.
Vì vậy, khi đánh giá khả năng tồn tại, phát triển và tạo ra lợi nhuận của
doanh nghiệp cần thiết phải xem xét đến yếu tố chất lượng lao động, coi đó như
là yếu tố nội tại quyết định đến giá trị doanh nghiệp.
 Năng lực quản trị kinh doanh
Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển lâu dài phải có một bộ máy

quản lý đủ mạnh để có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tận dụng mọi tiềm
năng và cơ hội nảy sinh, biến thách thức thành cơ hội, ứng phó linh hoạt với
những biến động của môi trường kinh doanh. Năng lực quản trị kinh doanh tổng
hợp của doanh nghiệp có thể thể hiện qua hệ thống các chỉ tiêu tài chính doanh
nghiệp. Vì vậy việc phân tích một cách toàn diện tình hình tài chính doanh
nghiệp sẽ trợ giúp cho việc đưa ra các kết luận về giá trị doanh nghiệp.
1.2. Xác định giá trị doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm xác định giá trị doanh nghiệp:
Doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, mục đích sở hữu doanh
nghiệp vì thế cũng là vì mục tiêu lợi nhuận. Tiêu chuẩn để nhà đầu tư quyết định
bỏ vốn là đánh giá hiệu quả hoạt động, đánh giá các khoản thu nhập mà doanh
nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong tương lai hay chính là việc xác định
giá trị doanh nghiệp. Vậy xác định giá trị doanh nghiệp là sự ước tính với độ tin
cậy cao nhất các khoản thu nhập mà DN có thể tạo ra trong quá trình sản xuất
kinh doanh, làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường của thị trường
tại một thời điểm nhất định.
Xác định giá trị doanh nghiệp là công việc ước tính. Điều nay cho thấy
không thể có được giá trị doanh nghiệp chính xác một cách tuyệt đối. Giá trị
doanh nghiệp chỉ ở mức hợp lý nhất trong điều kiện các thông tin, bằng chứng
thu thập được phục vụ cho việc phân tích đưa ra các phương pháp xác định giá
trị doanh nghiệp phù hợp với những thông tin đó.
1.2.2 Sự cần thiết của việc xác định giá trị doanh nghiệp
Nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu định giá doanh nghiệp ngày càng
nảy sinh một cách tự nhiên từ nhiều đối tượng trong nền kinh tế. Trên thế giới
xuất phát ban đầu của nhu cầu định giá doanh nghiệp là từ quá trình mua bán,
sát nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ doanh nghiệp. Giống như mua bán một mặt
hàng bình thường, người ta phải xác định giá trị của nó để có được giá cả phù
hợp. Đây là giao dịch diễn ra có tính chất thường xuyên và phổ biến trong cơ
chế thị trường, phản ánh nhu cầu về đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh,
cũng như nhu cầu để tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong môi trường

tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp có thể liên kết với nhau, sát nhập hoặc chia
tách để tận dụng lợi thế của nhau về thị trường, nhân lực, vốn… để vững chắc
và lớn mạnh trên thị trường. Giá trị của doanh nghiệp được đánh giá trên một
phạm vi lớn có tính đến tất cả các yếu tố tác động tới doanh nghiệp. Vụ mua bán
sát nhập chia tách diễn ra dựa trên cơ sở giá trị doanh nghiệp đã thương thuyết
giữa các bên.
Đặc biệt trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, xác định giá trị
doanh nghiệp còn là một bước đi quan trọng để các quốc gia tiến hành chuyển
đổi loại hình sở hữu như cổ phần hoá, sát nhập, hợp nhất, giao bán, khoán và
cho thuê.
Xét sự cần thiết của định giá từ các đối tượng trong nền kinh tế có liên quan
đến nhu cầu định giá doanh nghiệp, đó là những nhà đầu tư, người cung cấp,
bản thân nhà quản trị doanh nghiệp và các nhà hoạch định kinh tế vĩ mô.
- Đối với nhà đầu tư, người cung cấp:
Thông tin về giá trị doanh nghiệp cho sự đánh giá tổng quát về khả năng
tài chính, uy tín kinh doanh, rủi ro và vị thế tín dụng. Từ đó nhà đầu tư có quyết
định có tiếp tục đầu tư, nhà cung cấp có tiếp tục cung cấp các yếu tố đầu vào,
cấp tín dụng cho doanh nghiệp nữa hay không. Giá trị doanh nghiệp quyết định
giá cả cổ phiếu trên thị trường. Nếu nhà đầu tư định giá được đúng giá trị của
doanh nghiệp thì sẽ thu được lợi suất đầu tư mong muốn.
- Đối với nhà quản trị doanh nghiệp:
Thông tin về giá trị doanh nghiệp giúp các nhà quản trị phân tích đánh giá
trước khi đưa ra các quyết định về kinh doanh và tài chính có liên quan đến
doanh nghiệp. Từ giá trị doanh nghiệp của mình họ sẽ có cơ sở để so sánh giá trị
đó với doanh nghiệp khác, từ đó thấy được vị trí và khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp trên thị trường. Quyết định kinh doanh đúng đắn của các nhà quản
trị phải dựa trên nhận thức sâu sắc về vị trí và những điểm mạnh, điểm yếu của
doanh nghiệp mình.
- Đối với các nhà quản lý, hoạch định kinh tế vĩ mô:
Trên phương diện quản lí vĩ mô, thông tin về giá trị doanh nghiệp là một

căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chính sách, các tổ chức đánh giá tính
ổn định của nền kinh tế, của thị trường, nhận dạng hiện tượng đầu cơ, thao túng
thị trường… Theo dõi sự biến đổi giá trị doanh nghiệp sẽ rất hữu ích trong việc
dự báo sự thay đổi của thị trường.
Như vậy định giá doanh nghiệp đang ngày càng trở nên không thể thiếu
trước sự tăng trưởng kinh tế, khi mà số lượng các doanh nghiệp mua bán, sát
nhập, cổ phần hoá đang nhiều dần lên cùng với nhu cầu thông tin từ nhiều đối
tượng trong nền kinh tế.
1.2.3 Các phương pháp chung để xác định giá trị doanh nghiệp
Xác định giá trị doanh nghiệp là gì tuỳ thuộc vào từng quan niệm về giá trị.
Xác định giá trị doanh nghiệp hiện nay có thể sử dụng nhiều phương pháp,
nhưng điểm chung là các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp đều phải
có cơ sở khoa học, chặt chẽ và có thể chấp nhận được. Nhìn chung các phương
pháp xác định giá trị doanh nghiệp hiện nay dựa trên một trong hai cách tiếp
cận là:
+ Đánh giá giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp trong điều kiện
doanh nghiệp còn tiếp tục hoạt động, do đó có tính đến khả năng sinh lời của tài
sản trong tương lai.
+ Lượng hoá các khoản thu nhập mà doanh nghiệp mang lại cho nhà đầu
tư, người cho vay.
Sau đây là các phương pháp chung để xác định giá trị doanh nghiệp:
1.2.3.1 Phương pháp giá trị tài sản ròng
 Cơ sở lý luận:
Lý luận thực tiễn cho rằng nếu giá trị doanh nghiệp cao hơn giá trị đầu tư
cần thiết để xây dựng nên nó thì các chủ đầu tư sẽ lựa chọn phương án xây dựng
mới doanh nghiệp thay vì mua lại doanh nghiệp đó. Từ đó các nhà định giá đã
đề ra nguyên lý chung cho phương pháp định giá theo giá trị tài sản: “Giá trị của
một doanh nghiệp bằng với giá trị đầu tư cần thiết (hữu hình và vô hình) để lập
nên doanh nghiệp đó”.
Trong các phương pháp định giá doanh nghiệp theo giá trị tài sản thì

phương pháp giá trị tài sản ròng (NAV) được sử dụng phổ biến và dựa trên cơ
sở là:
- Doanh nghiệp về cơ bản giống như một loại tài sản thông thường.
- Sự hoạt động của doanh nghiệp bao giờ cũng được tiến hành dựa trên cơ sở
một lượng tài sản có thực. Những tài sản đó là sự hiện diện rõ ràng và cụ thể
cho sự tồn tại của doanh nghiệp, cấu thành nên thực thể của doanh nghiệp.
- Tài sản của doanh nghiệp được hình thành bởi sự tài trợ vốn của các nhà
đầu tư khi thành lập và tiếp tục được bổ sung trong quá trình hoạt động. Cơ
cấu nguồn tài trợ để hình thành tài sản là sự khẳng định và thừa nhận về mặt
pháp lý các quyền sở hữu và lợi ích của các nhà đầu tư đối với tài sản đó.
Vì vậy giá trị doanh nghiệp được tính bằng tổng giá trị thị trường của số
tài sản mà doanh nghiệp hiện đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh.
 Phương pháp xác định:
 Phương pháp 1:
Giá trị doanh nghiệp = Giá trị tài sản ròng
Giá trị tài sản ròng (NAV) có thể được tính theo hai cách:
Cách 1: Căn cứ vào giá trị sổ sách
NAV = Tổng giá trị tài sản có - Tổng các khoản nợ phải trả
 Đánh giá
Ưu điểm:
- Việc định giá tài sản không đòi hỏi những kỹ thuật phức tạp, giá trị của các
yếu tố vô hình là không đáng kể.
- Có được giá bán doanh nghiệp tối thiểu, giá này có thể coi là mức giá sàn
trong đàm phán về giá trị doanh nghiệp.
Hạn chế:
- Nếu chỉ căn cứ vào số liệu trên bảng cân đối kế toán thì sẽ không thu được
kết quả chính xác tại thời điểm định giá. Bởi doanh nghiệp thực hiện tốt chế
độ kế toán thì những số liệu đó cũng chỉ là phản ánh trung thực chi phí phát
sinh tại thời điểm xảy ra các nghiệp vụ kinh tế trong quá khứ của kỳ kế toán
chứ không còn phù hợp ở thời điểm định giá doanh nghiệp, ngay cả khi không

có lạm phát.
- Giá trị còn lại của TSCĐ phản ánh trên sổ sách kế toán cao hay thấp phụ
thuộc vào việc doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao nào, thời điểm
doanh nghiệp xác định nguyên giá và sự lựa chọn tuổi thọ kinh tế của TSCĐ.
Vì vậy, giá trị TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán thường không phù hợp với giá
trị thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
- Cách sử dụng giá hạch toán là giá mua đầu kỳ, cuối kỳ hay thực tế bình
quân; tiêu thức phân bổ chi phí… sẽ ảnh hưởng đến giá trị hàng hoá vật tư,
công cụ lao động… Do vậy, số liệu kế toán phản ánh giá trị của chúng sẽ
không đủ độ tin cậy tại thời điểm định giá.
Vì những hạn chế cơ bản như vậy của cách xác định giá trị tài sản thuần
theo số liệu của bảng cân đối kế toán mà giá trị tính được chỉ được coi như
một tài liệu tham khảo.
Cách 2: Xác định giá trị tài sản thuần theo giá trị thị trường
Để xác định giá trị tài sản ròng theo giá thị trường, nhà định giá sẽ loại khỏi
danh mục định giá những tài sản không cần thiết và không có khả năng đáp ứng
yêu cầu của nhà sản xuất kinh doanh. Sau đó, công việc định giá sẽ được tiến
hành:
- Đối với TSCĐ và TSLĐ là hiện vật thì đánh giá theo giá thị trường
nếu trên thị trường hiện có bán những tài sản như vậy. Trong thực tế
thường không tồn tại thị trường TSCĐ cũ, đã qua sử dụng ở nhiều mức độ
khác nhau. Khi đó người ta dựa theo công dụng hay khả năng phục vụ sản
xuất của tài sản để áp dụng một tỷ lệ khấu trừ dựa trên giá trị của TSCĐ
mới. Đối với những TSCĐ không còn tồn tại trên thị trường thì nhà định
giá sẽ áp dụng một hệ số quy đổi so với những TSCĐ khác loại nhưng có
tính năng tương đương.
- Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm quỹ, đối chiếu
số dư trên tài khoản. Nếu là ngoại tệ sẽ được quy đổi về đồng nội tệ theo tỷ
giá thị trường tại thời điểm định giá. Các loại tài sản như vàng, kim loại
quý, đá quý… cũng được tính toán tương tự.

- Các khoản phải thu: Do khả năng thu hồi của các khoản này là
không đồng nhất nên ta phải tìm cách loại bỏ những khoản nợ không có
khả năng thu hồi hay khả năng thu hồi là quá mong manh bằng việc: đối
chiếu công nợ, xác minh tính pháp lý, đánh giá độ tin cậy của từng khoản
phải thu.
- Đối với các khoản đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp: Nếu khoản
đầu tư không quá lớn, có thể dựa trên giá tri chứng khoán, hoặc dựa theo số
liệu của bên đối tác liên doanh. Nếu khoản đầu tư khá lớn, cần thực hiện
đánh giá một cách toàn diện về giá trị của khoản đầu tư đó trong việc tạo
nên giá trị doanh nghiệp.
- Đối với tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản: tính theo
phương pháp chiết khấu dòng thu nhập trong tương lai.
 Phương pháp 2:
GTDN =V2 =(Giá trị tài sản ròng + Giá trị khả năng sinh lời) /2
Giá trị khả năng sinh lời = LN ròng hàng năm dự tính thu được
Hệ số sinh lời
Lợi nhuận ròng bình quân hàng năm dự tính thu được =
n
LNi

o LNi: Lợi nhuận ròng dự tính thu được năm i
o n: số năm dự tính
o Hệ số sinh lời là tỷ lệ quy đổi giá trị các khoản lợi nhuận trong tương
lai về hiện tại hay chính là lãi suất chiết khấu.
Phương pháp này là phương pháp kết hợp giữa hai phương pháp định giá
dựa trên giá trị tài sản ròng và dựa trên thu nhập. Giá trị thu được là giá trị bình
quân của hai giá trị tương ứng theo hai phương pháp.
 Phương pháp 3:
Giá trị doanh nghiệp = ( V2 + Giá trị tương đối )/2
o V2: giá trị doanh nghiệp tính theo phương pháp 2

Giá trị tương đối =
2
)//(
10101
NAVNAVLNLNP

o
1
P
: Giá cổ phiếu bình quân nhóm công ty cùng quy mô, lĩnh vực
o
0
LN
: Lợi nhuận ròng của công ty định giá
o
1
LN
: Lợi nhuận ròng của nhóm công ty so sánh
o
0
NAV
: Giá trị tài sản ròng của công ty định giá
o
1
NAV
: Giá trị tài sản ròng bình quân của nhóm công ty so sánh
Phương pháp này là sự kết hợp của phương pháp 2 với phương pháp định
giá theo giá trị tương đối. Giá trị tương đối được xác định dựa trên cơ sở so sánh
với các công ty cùng lĩnh vực kinh doanh dựa trên các số liệu theo công thức đã
nêu.

Ba phương pháp đã trình này trên đây sẽ đưa đến những kết quả giá trị
doanh nghiệp khác nhau. Ta nhận thấy phương pháp 3 là sự kết hợp của phương
pháp 1 và phương pháp 2 trong đó có tính đến các yếu tố đặc thù của ngành mà
doanh nghiệp hoạt động, tiềm năng lợi nhuận, mức độ rủi ro của từng công ty. Ở
một khía cạnh nào đó, giá trị doanh nghiệp tính được theo phương pháp 3 có
tính bao quát hơn hai phương pháp trước. Nhưng việc lựa chọn phương pháp
nào để kết quả thu được là chính xác và hợp lý nhất thì còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố.
 Đánh giá phương pháp giá trị tài sản ròng:
Hạn chế:
- Theo cách này, giá trị doanh nghiệp chỉ thuần tuý là một phép cộng tổng
các tài sản bên trong doanh nghiệp tại thời điểm tính giá trị. Phương pháp
này đã đánh giá doanh nghiệp ở một trạng thái tĩnh, doanh nghiệp không
được coi như một thực thể, một tổ chức đang tồn tại và có thể hoàn chỉnh
và phát triển trong tương lai. Vì vậy mà nó không phù hợp với một tầm
nhìn chiến lược về doanh nghiệp. Một trong những mục tiêu của định giá là

×