Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.74 KB, 30 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN
TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. KHÁI NIỆM TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN
1.1.1. Trọng yếu
Theo từ điển Tiếng Việt, “Trọng yếu là một tính từ để chỉ sự quan trọng
thiết yếu. Một sự vật hay một địa danh đi kèm với trọng yếu đều mang ý
nghĩa quan trọng”.
Trọng yếu là một thuật ngữ quan trọng trong kế toán, kiểm toán.
Nguyên tắc trọng yếu cần chú trọng đến những vấn đề mang tính cốt yếu,
quyết định bản chất và nội dung của sự vật, sự kiện kinh tế phát sinh. Chính
vì vậy khái niệm trọng yếu được đề cập ở rất nhiều tài liệu trong nước cũng
như quốc tế. Có thể trích dẫn một số tài liệu sau:
Theo Bản công bố về chuẩn mực kiểm toán số 47 (SAS 47): “kiểm toán
viên nên xem xét rủi ro kiểm toán và vấn đề trọng yếu trong khi lập kế hoạch
kiểm toán và thiết kế các thủ tục kiểm toán cũng như khi đưa ra kết luận kiểm
toán” (Lý thuyết kiểm toán -NXB Tài chính 2005).
Theo sách Lý thuyết kiểm toán (NXB Tài chính 2005): “Trọng yếu, xét
trong mối quan hệ với nội dung kiểm toán, là khái niệm chung chỉ rõ tầm cỡ
và tính hệ trọng của phần nội dung cơ bản của kiểm toán có ảnh hưởng tới
tính đúng đắn của việc nhận thức, đánh giá đối tượng kiểm toán và việc sử
dụng thông tin đã đánh giá đó để ra quyết định quản lý. Trên góc độ của
người sử dụng thông tin, nói một cách đơn giản, một thông tin quan trọng và
cần phải được trình bày nếu nó có khả năng ảnh hưởng tới các quyết định của
người sử dụng”.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 (VSA 200) - Mục tiêu và
nguyên tắc cơ bản chi phối kiểm toán báo cáo tài chính: “Trọng yếu: là thuật
ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin (một số liệu kế toán)
trong Báo cáo tài chính.
Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hay
thiếu chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng tới các quyết định của người sử
dụng Báo cáo tài chính. Mức độ trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của


thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng
yếu của thông tin phải được xem xét trên cả tiêu chuẩn định lượng và định
tính.”
Theo Chuẩn mực kiểm toán quốc tế (ISA 320) - Tính trọng yếu trong
kiểm toán: “Thông tin là trọng yếu nếu việc bỏ sót hoặc sai sót của thông tin
đó có thể ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng Báo cáo tài
chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào mức độ quan trọng của các khoản mục
hay sai sót được đánh giá theo bối cảnh cụ thể tạo ra việc bỏ sót hoặc sai sót
đó. Vì thế, tính trọng yếu là một ngưỡng hoặc một điểm định tính cơ bản mà
một thông tin hữu ích cần phải có”.
Theo Các văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) - Trọng
yếu và rủi ro trong kiểm toán: “Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ, bản chất của
sai phạm (kể cả bỏ sót) thông tin tài chính hoặc đơn lẻ hoặc từng nhóm, mà
trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì sẽ không
chính xác hoặc rút ra kết luận sai lầm”.
Từ rất nhiều các định nghĩa ở trên ta thấy rằng dù ở trên thế giới hay
Việt Nam “trọng yếu” đều được quan niệm như một thuật ngữ dùng để thể
hiện tầm quan trọng của một thông tin hay một số liệu kế toán trong Báo cáo
tài chính mà nếu thiếu nó hoặc thiếu chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng
đến nhận thức của người sử dụng Báo cáo tài chính, từ đó dẫn đến sai lầm
trong việc đánh giá thông tin và ra các quyết định quản lý. Sự tương đồng
giữa kiểm toán và quản lý này đã dẫn đến tính tất yếu phải lựa chọn nội dung
kiểm toán tối ưu, vừa đánh giá đúng bản chất của đối tượng kiểm toán, vừa
đáp ứng kịp thời nhu cầu của người quan tâm với giá phí kiểm toán thấp trên
cơ sở thực hiện tốt chức năng kiểm toán.
Bởi vậy, để giải quyết yêu cầu trên trong khái niệm “trọng yếu” đã bao
hàm hai mặt liên quan tới nhận thức đối tượng: Quy mô hay tầm cỡ (mặt
lượng) và vị trí hay tính hệ trọng (mặt chất) của phần nội dung cơ bản.
 Về quy mô
Nhiều kế toán viên và kiểm toán viên mong muốn có được một con số

tuyệt đối chỉ dẫn cho họ về trọng yếu. Nhưng điều này là rất khó vì trọng yếu
là một khái niệm tương đối hơn là tuyệt đối và trong thực tế rất khó để ấn
định một con số cụ thể về tầm cỡ cho những điểm cốt yếu của nội dung kiểm
toán, đặc biệt là khi có các yếu tố tiềm ẩn. Một con số có thể là trọng yếu với
công ty này nhưng không trọng yếu với công ty khác. Bởi vậy, kiểm toán viên
thường quan tâm tới quy mô tương đối hơn quy mô tuyệt đối.
Quy mô tương đối là mối quan hệ tương quan giữa đối tượng cần đánh
giá với một số gốc. Số gốc thường khác nhau trong những tình huống cụ thể.
Chẳng hạn, với báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, số gốc có thể là doanh
thu thuần; với bảng cân đối kế toán, số gốc có thể là tổng tài sản hoặc tài sản
lưu động… Phần đông các kiểm toán viên đều cho rằng “tổng hợp các sai
phạm mà có tỷ lệ nhỏ hơn 5% so với giá trị thu nhập ròng thì được xem là
không trọng yếu nhưng nếu lớn hơn 10% thì chắc chắn trọng yếu”. Nhưng có
khi kiểm toán viên sử dụng con số tuyệt đối để đánh giá tính trọng yếu. Một
con số tuyệt đối là số thể hiện mức quan trọng mà không cần nhắc thêm một
yếu tố nào khác. Ví dụ như, một vài kiểm toán viên cho rằng “một triệu USD
hoặc một con số lớn hơn thì luôn là con số trọng yếu, không cần quan tâm đến
vấn đề nào khác”.
Ngoài ra, khi xem xét quy mô trọng yếu, kiểm toán viên nên cân nhắc
cả sự ảnh hưởng luỹ kế của đối tượng xem xét. Trên thực tế thì có rất nhiều
sai phạm khi xem xét chúng một cách cô lập thì không phát hiện ra trọng yếu,
nhưng nếu cộng dồn tất cả các sai phạm sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính
hệ thống của sai phạm và khi đó phát hiện tính trọng yếu của chúng. Theo
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 320 - Tính trọng yếu trong kiểm toán:
“Kiểm toán viên cần xem xét tới khả năng có nhiều sai sót là tương đối nhỏ
nhưng khi tổng hợp lại có ảnh hưởng trọng yếu tới Báo cáo tài chính, như:
một sai sót trong thủ tục hạch toán cuối tháng có thể trở thành một sai sót
trọng yếu, tiềm tàng nếu như sai sót đó cứ tiếp tục tái diễn vào mỗi tháng”.
Việc xác định tính trọng yếu qua quy mô không phải là dễ dàng chính
vì vậy để xác định đúng nội dung kiểm toán trên phương diện này chúng ta

cần quán triệt các nguyên tắc cơ bản sau:
Thứ nhất, quy mô trọng yếu phải được xác định. Đó là việc xác định
trọng yếu dựa trên các đối tượng nào (Báo cáo tài chính, toàn bộ tài liệu kế
toán hay thực trạng tài chính nói chung) và cũng tùy thuộc vào cả khách thể
kiểm toán thuộc loại hình doanh nghiệp nào (sản xuất, công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ, ngân hàng, bảo hiểm, xây lắp hay vận tải…). Vì mỗi ngành,
mỗi lĩnh vực lại có những đặc điểm riêng nên việc tìm hiểu khách hàng là một
công việc hết sức quan trọng trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán.
Thứ hai, quy mô của các khoản mục, nghiệp vụ không chỉ xét về quy
mô bằng con số tuyệt đối mà còn phải trong tương quan với các đối tượng
kiểm toán khác. Về định lượng đó là những tỷ lệ của các khoản mục, nghiệp
vụ so với một cơ sở tính toán như tổng tài sản, tổng doanh thu, lợi nhuận
trước thuế…Và cũng tùy vào bản chất mà khi tính toán ta nên cộng dồn hay
tách riêng các khoản mục, nghiệp vụ, sai sót có liên quan.
Thứ ba, quy mô trọng yếu còn phụ thuộc vào đối tượng và mục tiêu
của cuộc kiểm toán là kiểm toán tài chính, kiểm toán nghiệp vụ với các chức
năng xác minh hay xác minh, tư vấn….
 Về tính chất
Trong kiểm toán Báo cáo tài chính, kiểm toán viên đánh giá tính trọng
yếu cần tuỳ thuộc vào loại hình, quy mô doanh nghiệp. Đồng thời cần có sự
am hiểu tài chính kế toán, các quy định pháp luật với doanh nghiệp và dựa
vào kinh nghiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên.
Các khoản mục nghiệp vụ được coi là trọng yếu thường bao gồm: các
khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc chứa đựng khả năng gian lận và các
khoản mục, nghiệp vụ có sai sót hệ trọng.
Các khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc có chứa khả năng gian
lận: Gian lận và sai sót đều dùng để chỉ các sai phạm nói chung, tuy nhiên
giữa chúng lại có sự khác nhau cơ bản. Với cùng một quy mô tiền tệ, gian lận
thường được chú trọng hơn sai sót vì nó làm người ta nghĩ đến tính trung thực
và độ tin cậy của các nhà quản lý và các thành viên có liên quan. Do đó, một

hành vi gian lận luôn được coi trọng bất kể quy mô của nó là bao nhiêu. Các
khoản mục, nghiệp vụ có gian lận hoặc có chứa khả năng gian lận thường bao
gồm:
- Các nghiệp vụ đấu thầu, giao thầu và giao dịch không hợp pháp vì có thể có
sự móc nối giữa các bên nhằm thu lợi cho cá nhân;
- Các nghiệp vụ thanh lý tài sản: có khả năng có sự liên kết giữa người tiến
hành thanh lý và người mua tài sản trong khi tài sản đó vẫn đang trong quá
trình sử dụng;
- Các nghiệp vụ về tiền mặt: các nghiệp vụ này xảy ra thường xuyên, tiền mặt
lại có đặc điểm là gọn nhẹ, dễ biển thủ nên dễ xảy ra gian lận;
- Các nghiệp vụ về mua bán và thanh toán: doanh nghiệp và khách hàng hoặc
nhà cung cấp có thể móc ngoặc với nhau để báo cáo sai về thực trạng hoạt
động của mình;
- Các nghịêp vụ bất thường: các nghiệp vụ này ít xảy ra nhưng nó lại ảnh
hưởng trực tiếp tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp;
- Các nghiệp vụ phân chia quyền lợi: các nghiệp vụ liên quan đến quyền lợi bao
giờ cũng chứa đựng khả năng gian lận cao vì hầu như bất cứ ai cũng muốn
thu lợi cho bản thân mình;
- Các nghiệp vụ cố ý bỏ ngoài sổ sách: các nghiệp vụ phát sinh đều phải được
ghi sổ, nếu đơn vị cố ý bỏ ngoài sổ sách thì đây là biểu hiện của hành vi gian
lận;
- Các nghiệp vụ xảy ra vào cuối kỳ quyết toán hoặc thuộc loại nghiệp vụ mới
phát sinh. Thông thường, vào cuối kỳ quyết toán, để kết quả hoạt động kinh
doanh được như kế hoạch đã định hoặc để điều chỉnh một số chênh lệch thừa,
thiếu, kế toán thường đưa thêm một số bút toán hạch toán. Do đó các nghiệp
vụ xảy ra vào cuối kỳ thường trọng yếu. Đối với các nghiệp vụ mới phát sinh
thì kiểm toán viên cần tự đặt ra câu hỏi tại sao những nghiệp vụ đó từ trước
tới giờ mới phát sinh, liệu kế toán đã xử lý chưa và từ đó tìm bằng chứng để
chứng minh;
- Các khoản mục, chứng từ có sửa chữa vì có thể thông tin tài chính đã bị làm

cho sai lệch dẫn đến ảnh hưởng tới Báo cáo tài chính;
- Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói chung: có ảnh
hưởng đến sự trung thực và độ tin cậy của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và
các cá nhân có liên quan.
Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót (không cố ý) hệ trọng:
- Các nghiệp vụ này thường do trình độ, năng lực yếu kém và tính thiếu cẩn
trọng của kế toán viên;
- Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót ở quy mô lớn hoặc có chênh lệch lớn với
các kỳ trước hoặc giữa các nguồn thông tin có liên quan;
- Các nghiệp vụ vi phạm nguyên tắc kế toán và pháp lý nói chung có thể dẫn
đến sai lầm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến người sử dụng thông tin vì nó khiến
ta nghĩ đến tính trung thực và độ tin cậy của Ban quản trị hoặc của những cá
nhân có liên quan khác;
- Các khoản mục, nghiệp vụ có sai sót lặp lại nhiều lần: việc các sai sót lặp lại
nhiều lần cho dù quy mô của sai sót là không lớn thì vẫn gây một sự nghi ngờ
về năng lực của kế toán viên và vấn đề xem xét quản lý sổ sách không được
chặt chẽ. Hơn nữa, tổng hộ các sai sót nhỏ có thể là một sai sót lớn ảnh hưởng
đến Báo cáo tài chính;
- Các khoản mục, nghiệp vụ có ảnh hưởng nghiêm trọng đến kỳ sau;
- Các sai sót có ảnh hưởng tới lợi nhuận;
- Các khoản mục, nghiệp vụ là đầu mối hoặc gây hậu quả liên quan đến nhiều
khoản mục, nghiệp vụ khác.
Việc nhận định và đưa ra ý kiến kiểm toán phụ thuộc rất nhiều vào các
khoản mục, nghiệp vụ liên quan đến bản chất đối tượng kiểm toán. Vì vậy,
khái niệm trọng yếu đã đặt ra yêu cầu xác định nội dung kiểm toán với
nguyên tắc không bỏ qua các khoản mục, nghiệp vụ có quy mô lớn và có tính
hệ trọng, phản ánh bản chất đối tượng. Vi phạm nguyên tắc này có nghĩa là
không nắm vững nội dung của trọng yếu thì kiểm toán viên đã tạo ra rủi ro
cho cuộc kiểm toán. Do đó, khi đánh giá tính trọng yếu của một nội dung hay
một phát hiện kiểm toán cụ thể, kiểm toán viên phải xem xét trên cả hai mặt là

quy mô và bản chất của vấn đề, từ đó mới đưa ra quyết định hợp lý về tính
trọng yếu, đảm bảo mục tiêu và chất lượng cuộc kiểm toán.
1.1.2. Rủi ro kiểm toán
1.1.2.1. Khái niệm
Cùng với việc đánh giá trọng yếu thì đánh giá rủi ro cũng là một trong
những bước quan trọng nhất trong kiểm toán Báo cáo tài chính. Do những
nguyên nhân như trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên thường chỉ lấy
mẫu kiểm toán chứ không kiểm tra toàn bộ, hay việc thu thập các bằng chứng
kiểm toán thường mang tính thuyết phục hơn là chứng minh sự chính xác
tuyệt đối của các số liệu trên Báo cáo tài chính, hay là còn tùy thuộc nhiều
vào óc xét đoán nghề nghiệp của từng kiểm toán viên… nên trong bất kỳ cuộc
kiểm toán nào cũng tồn tại những hạn chế tiềm tàng. Chính vì vậy khả năng
kiểm toán viên đưa ra nhận xét không chính xác về Báo cáo tài chính là điều
luôn có thể xảy ra. Vấn đề là làm thế nào để có thể giảm rủi ro này xuống ở
mức chấp nhận được. Muốn như vậy, ngay từ giai đoạn chuẩn bị kiểm toán,
kiểm toán viên phải đánh giá rủi ro để điều chỉnh các thủ tục kiểm toán một
cách thích hợp nhằm có được một mức rủi ro có thể chấp nhận được.
Vậy rủi ro kiểm toán là gì? Theo Từ điển Tiếng Việt: “rủi ro là tính từ
dùng để chỉ việc không may xảy ra” hoặc “rủi ro là điều không lành, không
tốt bất ngờ xảy đến”. Nói chung rủi ro là những điều không mong muốn tuy
nhiên trong các lĩnh vực khác nhau thì đặc trưng của rủi ro lại khác nhau. Sau
đây là những khái niệm khác nhau về rủi ro trong kiểm toán mà đã được đề
cập ở rất nhiều tài liệu.
Rủi ro kiểm toán: “là khả năng mà kiểm toán viên và công ty kiểm
toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi Báo cáo tài chính đã được
kiểm toán vẫn còn có những sai sót trọng yếu”. (Chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam số 400 - Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ). Do đối tượng kiểm toán
là những thông tin được kiểm toán qua nhiều giai đoạn bằng những bộ máy
quản lý và các phương thức, thủ tục kiểm soát khác nhau nên rủi ro kiểm
toán cũng được xác định tương ứng đối với từng loại đối tượng kiểm toán.

Rủi ro bao gồm ba bộ phận: Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát
hiện.
Theo Các văn bản chỉ đạo kiểm toán quốc tế số 25 (IAG 25) - Trọng
yếu và rủi ro trong kiểm toán: “Rủi ro kiểm toán là những rủi ro mà kiểm
toán viên có thể mắc phải khi đưa ra những nhận xét không xác đáng về các
thông tin tài chính và đó là các sai sót nghiêm trọng. Ví dụ, kiểm toán viên
có thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ về một Báo cáo tài chính mà không
biết rằng báo cáo này có những sai sót nghiêm trọng”.
1.1.2.2. Các loại rủi ro kiểm toán
Rủi ro tiềm tàng: “là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp
vụ, từng khoản mục trong Báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu
khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không hệ thống kiểm soát
nội bộ”. (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400: Đánh giá rủi ro và kiểm
soát nội bộ). Chẳng hạn như doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có sự
thay đổi nhanh về kỹ thuật rất có thể dẫn đến khả năng có sai sót cao ở
khoản mục hàng tồn kho trên Báo cáo tài chính do không lập dự phòng
giảm giá đầy đủ đối với những hàng hóa bị lỗi thời; hay khoản mục tiền
trên Báo cáo tài chính thường có khả năng sai sót cao do tiền là loại tài sản
nhạy cảm với gian lận.
Mức độ rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm tình hình kinh
doanh của khách thể kiểm toán, loại hình kinh doanh và cả năng lực nhân
viên của khách thể kiểm toán. Kiểm toán viên không tạo ra và cũng không
kiểm soát rủi ro tiềm tàng mà họ chỉ đánh giá chúng. Việc đánh giá rủi ro
tiềm tàng có thể được thực hiện từ nhiều nguồn khác nhau như từ cuộc
kiểm toán năm trước hay từ những tìm hiểu về ngành nghề kinh doanh,
chính sách kế toán, tài chính của khách thể kiểm toán.
Đánh giá rủi ro tiềm tàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì trên cơ sở
đó kiểm toán viên dự kiến những công việc, thủ tục kiểm toán sẽ được thực
hiện đối với các khoản mục, nghiệp vụ trọng yếu trên Báo cáo tài chính.
Rủi ro kiểm soát: “là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng khoản

mục, nghiệp vụ trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà
hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc
không phát hiện và sửa chữa kịp thời”. (Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
400: Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ). Ví dụ như: một hệ thống kiểm
soát nội bộ tốt vẫn có thể gặp sai sót khi hệ thống xây dựng quá phức tạp,
luân chuyển nhân sự nhiều hoặc thiếu đào tạo nhân viên… Môi trường
kiểm soát thường thể hiện ý chí, quan điểm, nhận thức, hành động của nhà
quản lý đơn vị vì vậy cần được xem xét kỹ lưỡng. Đối với các doanh
nghiệp xử lý số liệu bằng phương pháp điện tử, rủi ro kiểm toán là cao nếu
doanh nghiệp không kiểm soat tốt được quy trình xử lý số liệu từ khâu
nhập số liệu, thiết kế chương trình phần mềm, bảo mật thông tin…
Như vậy, cũng như rủi ro tiềm tàng, đối với rủi ro kiểm soát, kiểm
toán viên cũng không tạo ra và kiểm soát chúng mà chỉ đánh giá chúng để
đưa ra mức rủi ro kiểm soát dự kiến.
Rủi ro phát hiện: “là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng khoản
mục, nghiệp vụ trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà
trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát
hiện ra được”.(Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400: Đánh giá rủi ro và
kiểm soát nội bộ). Rủi ro phát hiện có nguyên nhân bắt nguồn trực tiếp từ
nội dung, thời gian và phạm vi của các thử nghiệm cơ bản do kiểm toán
viên thực hiện. Ví dụ như: rủi ro phát hiện sẽ giảm xuống nếu kiểm toán
viên mở rộng phạm vi kiểm tra, tăng cường kích cỡ của các thử nghiệm hay
tăng các thủ tục kiểm tra chi tiết với các số dư hoặc nghiệp vụ.
Khác với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, kiểm toán viên phải có
trách nhiệm phát hiện các thủ tục thu thập các bằng chứng kiểm toán nhằm
quản lý và kiểm soát đối với rủi ro phát hiện.
1.1.3. Mối quan hệ giữa trọng yếu và rủi ro kiểm toán
Trọng yếu và rủi ro kiểm toán có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Đó
là mối quan hệ tỷ lệ nghịch. Mức trọng yếu càng cao thì rủi ro kiểm toán càng
thấp và ngược lại nếu mức trọng yếu có thể chấp nhận được giảm xuống thì

rủi ro kiểm toán sẽ tăng lên vì khi đó giá trị sai sót có thể bỏ qua giảm xuống.
Mối quan hệ này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định nội dung, lịch
trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán sẽ áp dụng.
Không những thế cả trọng yếu và rủi ro kiểm toán đều ảnh hưởng đến
tính đầy đủ của bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Đó là mối quan hệ tỷ lệ
thuận: nếu mức độ trọng yếu và mức độ rủi ro kiểm toán càng cao thì số
lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập càng nhiều.
Số lượng bằng chứng kiểm toán sẽ phải nhiều lên khi kiểm toán các
khoản mục có tính trọng yếu cao. Chẳng hạn, khi kiểm toán một đơn vị sản
xuất thì số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập để đạt được mục tiêu
kiểm toán đối với hàng tồn kho bao giờ cũng phải lớn hơn so với số lượng
bằng chứng cần thu thập cho khoản trả trước. Và cũng tương tự như với tính
trọng yếu, thông thường số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập sẽ tăng
lên trong những trường hợp có nhiều khả năng sai phạm.
Bảng 1.1: Các mối quan hệ giữa của rủi ro kiểm toán với bằng chứng
phải thu thập
Trườ
ng
hợp
Rủi ro
kiểm
toán
Rủi ro
tiềm
tàng
Rủi ro
kiểm
soát
Rủi ro
phát

hiện
Số lượng bằng
chứng cần thu
thập
1 Cao Thấp Thấp Cao Thấp
2 Thấp Thấp Thấp
Trung
bình
Trung bình
3 Thấp Cao Cao Thấp Cao
4
Trung
bình
Trung
bình
Trung
bình
Trung
bình
Trung bình
5 Cao Thấp
Trung
bình
Trung
bình
Trung bình
Nguồn: “Kiểm toán” - Alvin Arren, sách dịch, tr194.
1.2. ĐÁNH GIÁ TRỌNG YẾU VÀ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.2.1. Cơ sở đánh giá

1.2.1.1. Đối với tính trọng yếu
Như ta đã biết việc đánh giá tính trọng yếu có ý nghĩa như thế nào đối
với một cuộc kiểm toán. Muốn đánh giá được tính trọng yếu ta thường phải
dựa vào trước hết chính là nội dung hàm chứa bên trong khái niệm trọng yếu,
đó là quy mô và bản chất của đối tượng. Đây cũng là hai cơ sở quan trọng
nhất khi đánh giá trọng yếu.
Khi đánh giá tính trọng yếu ngoài việc phải xem xét quy mô tuyệt đối
của sai phạm mà còn phải chú ý đến quy mô tương đối của nó, tức là mối
quan hệ của nó với các đối tượng khác. Trong toàn bộ đối tượng kiểm toán
bao giờ cũng có những nội dung, nghiệp vụ, khoản mục quan trọng hơn, đòi
hỏi tập trung nhiều hơn. Đây chính là mặt bản chất của vấn đề cần xem xét.
Ngoài ra, khi đánh giá tính trọng yếu ta cũng cần chú ý đến những
tiêu chí khác nữa như mục tiêu kiểm toán cụ thể, tính không chắc chắn của

×