Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Triển vọng và một số giải pháp thúc đẩy quan hệ Thương mại Việt – Nga

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.2 KB, 19 trang )

Triển vọng và một số giải pháp thúc đẩy quan hệ Th-
ơng mại Việt Nga
3.1. Triển vọng hợp tác Việt Nga
3.1.1. Những căn cứ
Để có thể đánh giá một cách chính xác triển vọng hợp tác kinh tế thơng mại
giữa hai nớc Việt Nam và Liên bang Nga, chúng ta phải nhìn nhận một cách khách
quan những cơ sở có thể ảnh hởng đến tình hình phát triển quan hệ hai nớc nh: quan
hệ chính trị giữa hai nớc, khả năng phát triển kinh tế và thị trờng của từng nớc.
- Từ phía Liên bang Nga, tình hình sẽ thuận lợi hơn cho phát triển quan hệ
kinh tế thơng mại giữa hai nớc. Hiện nay, nền kinh tế Nga đang nhanh chóng có
những tin tức tốt lành: tăng trởng GDP cao, dự trữ ngoại hối cao và thặng d thơng
mại cao. Theo đánh giá gần đây, mức lạm phát là vừa phải, tiền tệ ổn định, cải cách
thuế có những tiến triển tốt và bớc đầu có những kết quả lạc quan, khung pháp luật
đang đợc hoàn thiện. Những hậu quả của cuộc khủng hoảng năm 1998 đã không còn,
và phát triển nhanh chóng trong từng lĩnh vực.
Năm 2006, kim ngạch trao đổi hàng hoá giữa hai nớc giảm xuống đến mức
652,9 triệu USD. Nguyên nhân là giảm 45% xuống đến mức 447 triệu USD về mức
xuất khẩu hàng thép cán, máy móc và thiết bị, các xe ôtô và phụ tùng đồng bộ từ
Nga. Cùng thời gian này mức nhập khẩu hàng hoá từ Việt Nam đã tăng70%, lên đến
402 triệu USD, ở hàng loạt mặt hàng, mức nhập khẩu từ Việt Nam vào Nga đã tăng
nhiều lần: ví nh mức nhập khẩu giầy dép đã tăng 2,4 lần, cà phê tăng 10 lần. Nhờ đó
lần đầu tiên trong lịch sử kim ngạch thơng mại giữa hai nớc đã có tính chất gần nh là
cân bằng. Trong 5 tháng đầu năm 2007, kim ngạch trao đổi hàng hoá đã đạt 362,4
triệu USD tức là nhiều hơn 1/4 so với cùng kỳ năm ngoái. Đồng thời mức xuất khẩu
từ Việt Nam sang Nga đã tăng 60%.
Hơn thế nữa Liên bang Nga còn có những thế mạnh về sản xuất các mặt hàng
cung cấp cho Việt Nam để phát triển đất nớc nh máy móc, thiết bị, vũ khí nguyên vật
1
1
liệu, các công nghệ cao, các phát minh sáng chế, các chuyên gia kỹ thuật. Hàng hoá
của Nga luôn là loại hàng có chất lợng tốt, bền với giá cả cạnh tranh.


Nga là nớc xuất khẩu các mặt hàng có sẵn nguyên liệu trong nớc trong đó
thiên về sản xuất công nghiệp nặng. Thế mạnh của Nga là khai thác và xuất khẩu dầu
mỏ đây là ngành mũi nhọn của nền kinh tế Nga. Thị trờng Nga là thị trờng tơng đối
dễ tính, nhu cầu của thị trờng rất đa dạng trong đó nhu cầu về hàng bình dân là khá
lớn vì vậy hàng Việt Nam khá phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của ngời dân Nga.
Gần đây Liên bang Nga có chủ trơng nhập một số lợng lớn hàng công nghiệp
nhẹ và thực phẩm nên đây cũng chính là một lợi thế lớn để cho Việt Nam có thể xuất
sang Nga những mặt hành này.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Nga sang Việt Nam là phân bón, sắt
thép, xăng dầu các loại
- Từ phía Việt Nam. Kinh tế Việt Nam, kết thúc năm 2007, đạt mức tăng tr-
ởng là 8,48% với mức tăng trởng kinh tế này thì Việt Nam đợc đánh giá là nớc có
môi trờng đầu t an toàn nhất. Điều này có đợc nhờ những thay đổi cơ bản trong cách
thức quản lý nền kinh tế, sự thông thoáng trong cơ chế, thị trờng.
Xuất khẩu tăng cao, vợt kế hoạch, tăng 21,5% đạt 48,4 tỷ USD, tuy nhiên nhập
khẩu cũng lớn. Nhập khẩu tăng rất mạnh, tăng tới 36,8% lên 61,5 tỷ USD.
Nhập siêu tăng mạnh, lập mức cao kỷ lục mới, lên tới 13,1 tỷ USD, gấp 2,6 lần năm
2006 và chiếm 27% tổng kim ngạch xuất khẩu. Mặc dù nhập siêu lớn nhng lần đầu
tiên trong vòng nhiều năm qua tỷ giá USD/VND lại giảm 0,32%.
Việt Nam là một nớc có tiềm năng để đầu t và trao đổi thơng mại: Kinh tế liên
tục tăng trởng cao, đất nớc có nguồn nhân lực trẻ và khá dồi dào, an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội ổn định. Với hơn 70% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp, nên vấn đề tiêu thụ sản phẩm là một yêu cầu cấp bách trong khi đó thị trờng
Nga lại đòi hỏi những mặt hàng thực phẩm này nên thị trờng Nga có vai trò quan
trọng trong việc giải quyết vấn đề đầu ra cho nông nghiệp Việt Nam.
2
2
Nga không chỉ là thị trờng tiêu thụ khổng lồ các mặt hàng xuất khẩu của Việt
Nam mà còn là nhà cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho công cuộc hiện đại hoá và
xây dựng đất nớc gồm các ngành luyện kim đen, luyện kim màu, công nghiệp hoá

chất, phân bón vi lợng, vật liệu xây dựng, thiết bị và phơng tiện vận tải Những mặt
hàng này nếu nhập từ Nga thì có giá thành không quá cao so với hàng hoá nhập khẩu
từ các thị trờng khác.
Các mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất sang Nga là gạo, hàng may mặc,
giày dép, cao su, hải sản, chè, rau quả
Nhìn chung, Việt Nam và Liên bang Nga là hai thị trờng có thể hoàn toàn bổ
sung cho nhau. Nga có khả năng cung cấp nhiều loại sản phẩm phục vụ cho các ngành
kinh tế quan trọng của Việt Nam nh: máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, đặc biệt là
máy móc thiết bị trong các ngành công nghiệp khai thác mỏ, điện lực, luyện kim, máy
canh tác nông nghiệp, các loại phân bón, hoá chất Theo đánh giá của các doanh
nghiệp Việt Nam, máy móc, thiết bị của Nga chắc chắn, bền, phù hợp với điều kiện
một ngành công nghiệp của ta, giá cả lại phải chăng. Hơn nữa, máy móc và thiết bị mà
ta đã nhập từ Nga trớc đây nay đang cần phụ tùng thay thế để sửa chữa, nâng cấp. Ng-
ợc lại, đối với các mặt hàng nông sản thực phẩm thị trờng Nga cũng có nhu cầu rất
lớn. Trong khi Việt Nam lại vốn có u thế trong sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng này
nh: gạo, chè, hoa quả nhiệt đới, thịt gia súc, gia cầm Hơn nữa, Nga là một thị trờng
khá dễ tính, đòi hòi về chất lợng hàng hóa không đến nỗi khắt khe nh thị trờng các nớc
Mỹ, Nhật, EU Đây là thuận lợi lớn cho hàng hóa Việt Nam khi thâm nhập thị trờng
truyền thống này.
3.1.2. Triển vọng
Tình hình hợp tác thơng mại giữa Việt Nam và Liên bang Nga đang diễn ra hết
sức thuận lợi. Hai nớc đang tăng cờng và áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao quy
mô buôn bán thơng mại song phơng và tăng kim ngạch thơng mại cho phù hợp với
tiềm năng hợp tác. ở tầm vĩ mô, Chính phủ của hai nớc đều coi việc phát triển kinh
3
3
tế - thơng mại là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong việc thúc đẩy quan hệ
giữa hai quốc gia.
Trớc những năm 90 quan hệ thơng mại của Việt Nam vào Nga chiếm 80%, sau
những năm 90 thu hẹp lại còn 2%.Trong mấy năm gần đây, Việt Nam chiếm 3% kim

ngạch nhập khẩu của Nga và khoảng 1,5 - 2% kim ngạch xuất khẩu của Nga. Các
quan chức Bộ Kinh tế cho biết rằng theo thoả thuận về việc trả nợ của Việt Nam cho
Nga bằng hàng hoá và một số dự án trong ngành công nghiệp năng lợng, kim ngạch
ngoại thơng giữa hai nớc có thể tăng lên đến trên 3 tỷ USD mỗi năm vào những năm
sắp tới khi có hai chuyến thăm chính thức của hai nhà lãnh đạo hai nớc con số này
chắc chắn sẽ không chỉ dừng lại ở đó. Các con số này đợc công bố dựa trên cơ sở
đánh giá những nỗ lực của hai bên trong khuôn khổ hoạt động của Uỷ ban liên Chính
phủ, cũng nh căn cứ vào tình hình giao thơng giữa hai nớc thời gian qua. Với mức
tăng kim ngạch năm sau so với năm trớc là 1,5 2 lần trong hai năm vừa qua,
những dự báo này là hoàn toàn hợp lý. Vì vậy với mối quan hệ truyền thống Việt
Nga thì cần phải đẩy mạnh hơn nữa kim ngạch song phơng giữa hai nớc.
- Một số mặt hàng của Việt Nam có khả năng thâm nhập tốt vào thị trờng
Nga trong những năm tới:
+ Hải sản
Năm 2006 Nga nhập khẩu hải sản từ Việt Nam 128,7 triệu USD; trong năm
2007 các con số này tơng ứng là 128,7 triệu USD, ngoài ra còn nhập từ Aixơlen,
Nauy, Anh, Ailen. Nga hầu nh không nhập cá của các nớc nhiệt đới. Tôm đông lạnh
Nga nhập khẩu hàng năm khoảng 6.000 - 10.000 tấn, nguồn cung cấp chính là các n-
ớc Tây Âu, có một ít của Hàn Quốc và Thái Lan. Tôm đông lạnh loại nhỏ của Việt
Nam cũng xuất khẩu sang Nga nhng với khối lợng không đáng kể.
+ Rau quả tơi và chế biến
Nớc ta là nớc có khí hậu nhiệt đới cho nên có rất nhiều và đa dạng các sản
phẩm rau quả trồng trọt. Nếu phát huy đợc thế mạnh này thì rất có lợi cho Việt Nam
4
4
trong việc xuất khẩu, bởi chi phí sản xuất thấp trong khi doanh thu lại cao.Trong
những năm gần đây, về quả nhiệt đới, thị trờng Liên bang Nga tiêu thụ chủ yếu là
chuối với số lợng lớn khoảng 5.000 tấn/năm.
Năm 2006 Nga nhập khẩu mặt hàng rau quả tơi với trị giá là 22,1 triệu USD,
con số này năm 2007 là 22,4 triệu USD. Sản lợng mà Việt Nam khai thác và xuất

khẩu rau quả tơi có tăng nhng không đáng kể.
Các loại cam quýt Nga cũng nhập với khối lợng tơng đối lớn nhng chủ yếu từ
các nớc Địa Trung Hải, bởi giống và chất lợng quả có múi của các nớc này đồng đều
và tốt hơn so với hàng của ta, chi phí vận tải lại thấp nên cam quýt của ta không thể
cạnh tranh đợc nổi trên thị trờng Châu Âu của Nga.
Các loại quả nhiệt đới khác nh dứa, xoài Liên bang Nga nhập với khối lợng
không đáng kể chủ yếu để đáp ứng nhu cầu của giới trung và thợng lu ở một số
thành phố lớn. Vì vậy, trong tơng lai ta cha thể xuất khẩu các loại quả tơi nh xoài,
dứa, vải, chôm chôm, măng cụt, khế, đu đủ sang vùng châu Âu của Liên bang Nga
đợc.
Về rau quả chế biến, nếu tổ chức sản xuất tốt thì có thể thu đợc một khối l-
ợng tơng đối lớn các mặt hàng: dứa miếng và dứa khoanh, chuối sấy, nớc dứa nói
riêng và nớc quả nói chung, da chuột muối, khoai tây chế biến, tơng ớt. Nhng để có
thể xuất khẩu có hiệu quả và cạnh tranh đợc trên thị trờng Nga thì các doanh nghiệp
Việt Nam phải không ngừng cải tiến bao bì, đóng gói sản phẩm. Để tránh thuế nhập
khẩu thành phẩm, tăng cơ hội thâm nhập, các doanh nghiệp Việt Nam nên nghiên
cứu khả năng liên doanh với Nga sử dụng nguyên liệu đa từ Việt Nam sang.
+ Cây công nghiệp
Hạt điều và lạc nhân là hai mặt hàng mà Nga có nhu cầu nhập khẩu để làm
bánh kẹo. Tuy nhiên, dung lợng thị trờng không lớn nh trớc đây. Lạc của các nớc bán
sang Nga đều có giá bán thấp hơn của ta, đặc biệt là lạc Trung Quốc. Năm 2007 Việt
Nam xuất sang Nga 5,1 nghìn tấn hạt điều có trị giá là 21,6 triệu USD. Ngoài ra Nga
5
5
còn nhập khẩu của Việt Nam 17,8 nghìn tấn càphê; hạt tiêu là 3,9 nghìn tấn; cao su
là 17,9 nghìn tấn (2007).
Nga có nhu cầu nhập khẩu hàng năm là 20 - 30 nghìn tấn dầu dừa dùng cho
công nghiệp sản xuất chất tẩy rửa, mỹ phẩm, Nga hiện tại đang rất cần nguồn cung
cấp ổn định trong thời gian tới, do nhà cung cấp chính của Nga trớc kia là Indônexia
cung cấp dầu dừa cho Nga. Vì vậy Việt Nam cũng nên tận dụng những lợi thế sẵn có

của mình để xuất mặt hàng này sang Nga.
Nga hàng năm nhập một khối lợng lớn chè nguyên liệu từ các nớc ấn Độ,
Trung Quốc và Sri - Lanka. Nguyên liệu này đợc đa vào các nhà máy chế biến chè
của Nga để đóng gói thành chè mang nhãn hiệu Nga. Năm 2007 Nga nhập từ Việt
Nam một khối lợng lớn chè có trị giá 11,8 triệu USD.
+ Hàng công nghiệp nhẹ
Năm 2006 kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Nga từ Việt Nam là 62,4
triệu USD, con số này năm 2007 là 78,3 triệu USD. Trong những năm qua, hàng may
mặc của ta nhập khẩu vào Nga chủ yếu là hàng rẻ tiền, bình dân, kiểu dáng đơn giản,
chất lợng thấp, chủ yếu là để tiêu thụ tại các vùng nông thôn. Những năm gần đây,
hàng Trung Quốc, hàng Thổ Nhĩ Kỳ cạnh tranh với hàng của ta rất mạnh. Mẫu mã
của họ phong phú, bắt kịp nhu cầu thị trờng, họ lại sẵn sàng chấp nhận rủi ro trong
kinh doanh (cho các khách hàng Nga thanh toán chậm) nên hàng của ta ngày càng
mất chỗ đứng. Trong một vài năm gần đây, chúng ta đã phối hợp với một số doanh
nghiệp Việt Nam tại Nga tìm bạn hàng tiêu thụ hàng may mặc có chất lợng cao hơn
hàng bình dân (nhng cha phải là hàng cao cấp), chấp nhận cho khách hàng trả chậm
80% từ 3 đến 6 tháng kể từ ngày giao hàng. Để xuất khẩu hàng may mặc sang thị tr-
ờng Nga với khối lợng lớn, ngoài việc cải thiện mẫu mã theo kịp thời trang, nâng cao
chất lợng hàng hoá cũng nh bao bì, nhãn hiệu, ngành may mặc Việt Nam cần mạnh
dạn bỏ chi phí để khảo sát thị trờng một cách sâu sát từ đó xác định đúng hớng đi. Vì
vậy, cần tổ chức cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc của Việt
6
6
Nam tham gia các hội chợ lớn về hàng tiêu dùng và hàng may mặc đợc tổ chức tại
Nga để họ có thể xác định đợc mặt hàng nào là mặt hàng có thể xuất khẩu sang Nga.
Về giầy da, Nga nhập khẩu chủ yếu từ Italia, Đức và Thổ Nhĩ Kỳ. Giầy da của
Việt Nam về quy cách và tiêu chuẩn nhìn chung không phù hợp với khí hậu và thời tiết
của Nga nên không đợc a chuộng. Năm 2006 Nga nhập từ Việt Nam trị giá hàng giầy
dép là 18,7 triệu USD, năm 2007 là 28,3 triệu USD. Nếu ta tổ chức sản xuất đợc theo
dây truyền hiện đại, giầy model mới, hớng vào đối tợng tiêu dùng là thanh niên thì có

thể có triển vọng thâm nhập thị trờng tốt hơn kiểu giầy cổ điển. Mặt hàng ta cần hớng
vào thị trờng này là giầy thể thao các loại. Trong thời gian tới, ta cần chú trọng đa loại
giầy thể thao chất lợng tơng đối cao, tốt nhất là giầy hợp tác hoặc liên doanh sản xuất
với các hãng đồ thể thao nổi tiếng nh Nike, Reebock, Adidas
+ Thủ công mỹ nghệ
Đồ gốm mỹ nghệ: Năm 2006 Nga nhập 1,4 triệu USD đồ gốm mỹ nghệ, năm
2007 là 4,2 triệu USD, hiện nay mặt hàng này của ta thua hẳn hàng Trung Quốc về
kiểu dáng, chất lợng và giá cả. Cho nên, trong tơng lai chúng ta cần phải tích cực đổi
mới về mẫu mã, kiểu dáng và chất lợng.
+ Hàng thêu ren: trong những năm qua hàng thêu ren của ta nh vỏ chăn, áo
gối, ga trải giờng, bộ khăn trải bàn đợc xuất sang Nga chủ yếu qua đờng trả nợ. Gần
đây, hàng thêu ren rất khó tiêu thụ do giá thành cao hơn nhiều so với hàng nội địa,
đồng thời lại bị hàng Trung Quốc, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ cạnh tranh mạnh.
+ Hàng mây tre đan: sau khi khủng hoảng tài chính, thị trờng các mặt hàng
này bị thu hẹp đáng kể. Hàng mây tre đan của ta chủ yếu đợc bày bán tại các chợ với
khối lợng nhỏ. Xét về kiểu dáng, chất lợng, hàng hoá của Việt Nam kém phong phú
và đa dạng so với hàng của Indonesia và Tây Ban Nha nên cha đợc bày bán tại các
cửa hàng cao cấp. Do đó, cần phải có sự đầu t thích ứng để nâng cao, đa dạng hoá
mẫu mã và chủng loại. Năm 2006 Việt Nam xuất sang Nga hàng mây tre đan có trị
giá 2,6 triệu USD, năm 2007 con số này là 3,8 triệu USD.
7
7

×