Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Đổi mới cơ cấu tổ chức hoạt động của viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.61 MB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐÀO THỊ LAN PHƢƠNG

ĐỔI MỚI CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI – 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/…..

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA


ĐÀO THỊ LAN PHƢƠNG

ĐỔI MỚI CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN MINH TUẤN

HÀ NỘI – 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa
vụ tài chính theo quy định của Học viện Hành chính Quốc gia.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Hành chính Quốc gia
xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Đào Thị Lan Phƣơng



LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian học tập tại trường, nhờ sự chỉ bảo tận tình của các thầy,
các cô giáo đến nay tôi đã hoàn thành Luận văn Luật Hiến pháp và Luật hành
chính với đề tài: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong giai đoạn hiện nay”
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS Nguyễn Minh Tuấn là
giáo viên hướng dẫn trực tiếp và cảm ơn các thầy cô giáo đã giúp đỡ tôi trong
thời gian thực hiện Luận văn này.
Tác giả luận văn

Đào Thị Lan Phƣơng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

KSV

Kiểm sát viên

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

THQCT


Thực hành quyền công tố

TTHS

Tố tụng hình sự

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN ..................................................................................................... 7
1.1. Viện kiểm sát trong Bộ máy nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ....................................................................................................... 7
1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam....................................................... 7
1.1.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ........... 9
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát .................. 11
1.2. Các mô hình tổ chức và hoạt động của các cơ quan công tố và Viện
kiểm sát một số nƣớc trên thế giới ........................................................... 19
1.2.1. Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố theo truyền
thống pháp luật Common law ................................................................. 19

1.2.2. Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố theo truyền
thống pháp luật Civil law ......................................................................... 24
1.2.3. Mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố theo truyền
thống pháp luật xã hội chủ nghĩa ........................................................... 32
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ................... 36
2.1. Lịch sử tổ chức và hoạt động của Cơ quan công tố (1945-1960) và
Viện kiểm sát nhân dân (1960-2013) ........................................................ 36


2.1.1. Lịch sử tổ chức và hoạt động của Viện công tố từ 1945 đến 1960 ... 36
2.1.2. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 1959 và Luật tổ chức
Viện kiểm sát năm 1960 ........................................................................... 40
2.1.3. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 .......................................................... 43
2.1.4. Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 .......................................................... 44
2.2. Hệ thống tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân ................................. 48
2.3. Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ............................................ 57
2.3.1. Những quy định về hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ....... 57
2.3.1.1. Hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp trong lĩnh vực hình sự ................................................................... 57
2.3.1.2. Hoạt động kiểm sát việc thi hành tạm giữ tạm giam và thi hành
án hình sự............................................................................................... 60
2.3.1.3.Hoạt động của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc giải quyết vụ
án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động và những việc khác............................................. 62
2.3.1.4.Hoạt động giải quyết khiếu nại tố cáo và kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp củaViện kiểm sát nhân dân . 65
2.3.2. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân

dân............................................................................................................. 66
2.4. Những điểm tích cực, hạn chế và những vấn đề đặt ra ................... 75
2.4.1. Những điểm tích cực trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
sát .............................................................................................................. 75
2.4.2. Những hạn chế tồn tại và nguyên nhân ....................................... 81


Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ............ 84
3.1. Phƣơng hƣớng đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của VKSND
trong giai đoạn hiện nay ............................................................................ 84
3.2. Các giải pháp nhằm đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của
VKSND trong giai đoạn hiện nay ............................................................. 84
3.2.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật ...................................................... 84
3.2.2 Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, tổng kết kinh nghiệm
của ngành kiểm sát .................................................................................. 95
3.2.3 Đổi mới công tác giáo dục, nâng cao chất lượng của đội ngũ cán
bộ Viện kiểm sát theo hướng chuyên sâu, chuyên môn hóa ................. 98
3.2.4. Đổi mới cơ chế giám sát của Đảng và cơ quan dân cử, tổ chức,
báo chí và nhân dân đối với hoạt động của Viện kiểm sát .................. 104
3.2.5. Đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt
động của Viện kiểm sát .......................................................................... 106
KẾT LUẬN .................................................................................................. 112
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 115


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh công bố Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) đánh dấu sự ra đời của một hệ thống

cơ quan Nhà nước với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đảm bảo
cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Sự ra đời của ngành kiểm sát nhân dân nhằm góp
phần bảo đảm pháp chế XHCN, đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm
pháp luật và tội phạm. Trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, hoạt động của
VKSND đã góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, tổ chức và công dân. Hiện nay, trong cơ cấu tổ chức bộ máy của Nhà
nước ta, VKSND là một trong bốn hệ thống cơ quan được quy định trong Hiến
pháp. Chức năng của VKSND được thể hiện như là một trong những hình thức
thực hiện quyền lực Nhà nước. Vì vậy, tổ chức và hoạt động của VKSND cần
phải được quan tâm nghiên cứu đầy đủ, nhằm đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi của
công cuộc cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta, nhất là trong quá trình
nghiên cứu để hoàn thiện tổ chức bộ máy Nhà nước, phục vụ cho việc đổi mới
tổ chức và hoạt động của VKSND.
Trong văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản
Việt Nam cũng nêu rõ: “Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững
mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người. Đẩy mạnh
thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010. Cải cách tư pháp khẩn
trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm, thực hiện cơ
chế công tố gắn với hoạt động điều tra” [11]. Bên cạnh đó, Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 xác định nhiều nội dung về đổi mới tổ chức và hoạt

1


động của các cơ quan tư pháp, trong đó có các quy định về hoàn thiện về tổ
chức và hoạt động của VKSND. Tại Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010
của Bộ Chính trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, VKS và
Cơ quan điều tra theo Nghị quyết 49-NQ/TW thì chức năng của VKS trong

thời gian tới vẫn được tiếp tục xác định chắc chắn đó là: “VKSND có chức
năng thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát hoạt động tư pháp như
hiện nay” [4]. Theo đó, vấn đề cải cách tư pháp đã được quán triệt và trở
thành nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của toàn Đảng, toàn dân, nhằm tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức cũng như hành động, đồng thời phù hợp
với quá trình đổi mới công tác lập pháp và chương trình cải cách hành chính.
Trong hơn 60 năm qua, tổ chức và hoạt động của VKSND ở nước ta đã
đạt được nhiều kết quả, góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, bảo vệ pháp chế XHCN, đồng thời tạo môi trường ổn định cho sự
phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bên cạnh
những kết quả đạt được như đã nêu thì tổ chức và hoạt động VKSND đã bộc
lộ nhiều tồn tại, hạn chế, bất cập như: chất lượng và hiệu quả trong công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm chưa cao, tình trạng bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội vẫn còn xảy ra nhiều, tình trạng oan, sai trong điều tra, truy tố, xét
xử vẫn còn xảy ra… đòi hỏi phải nhanh chóng cải cách mạnh mẽ, toàn diện
về tổ chức và hoạt động của VKSND nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình
hình mới. Mặt khác, tuy Hiến pháp 2013 ban hành, có nhiều quy định cụ thể
về chế định VKSND tuy nhiên việc xác định rõ mô hình tổ chức của Viện
kiểm sát và các nhiệm vụ của VKS các cấp là vấn đề cần thiết phải tiếp tục
nghiên cứu để thực hiện đầy đủ và kịp thời chủ trương của Đảng về cải cách
các cơ quan tư pháp nói chung và VKSND nói riêng.

2


Từ những sự phân tích trên học viên quyết định chọn vấn đề “Đổi mới
tổ chức và hoạt động của VKSND trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn
thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong những năm gần đây đã có một số công trình khoa học, các bài
viết trên các tạp chí liên quan đến nội dung về tổ chức và hoạt động của
VKSND như: Đề tài khoa học cấp Bộ "Nghiên cứu những cơ sở lý luận và
thực tiễn cho việc xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của Viện Công tố ở
Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp" năm 2006, "Cải cách các cơ quan tư
pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực
xét xử của tòa án trong nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân"
năm 2006; Luận văn Thạc sĩ luật học: "VKSND trong điều kiện cải cách tư
pháp", của Phạm Thị Đào, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2011,
Luận án Phó tiến sỹ Luật học: “Vị trí, vai trò của VKSND trong bộ máy nhà
nước CHXHCN Việt Nam” của Khuất Văn Nga, năm 1993; sách chuyên khảo:
"Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam",
của Đào Trí Úc, Nxb Tư pháp, 2006; "Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy
nhà nước", của Nguyễn Đăng Dung, Nxb Giao thông vận tải, 2002; "Hệ thống
tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay",của tập thể các tác giả do
Đào Trí Úc chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2002; “Cơ quan công tố một số
nước: Pháp, Đức, Anh, Mỹ, Úc, Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,
Indonesia, Thái Lan” của Lê Hữu Thể... Ngoài ra còn có các bài viết liên
quan đến chế định VKSND cũng như những nội dung đổi mới tổ chức và hoạt
động của VKSND được đăng trên các tạp chí như: "Cải cách tư pháp ở Việt
Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền", của Lê Cảm, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 4, 2002; "Yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền đối với đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp", của

3


Nguyễn Mạnh Cường, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10, 2002; "Đổi mới tổ
chức và hoạt động của cơ quan thực hiện chức năng THQCT đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp", của Phạm Hồng Hải, Tạp chí Kiểm sát, số 14, 2007; Tạp

chí kiểm sát số 13 (tháng 7/2012) số chuyên đề: tổng kết thi hành và nghiên
cứu và đề xuất sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đây đa số nghiên cứu về tổ
chức và hoạt động của VKSND trước khi ban hành Hiếp pháp 2013, Luật tổ
chức VKSND năm 2014 cũng như trước khi ban hành các văn bản luật quan
trọng về tư pháp như: Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS), Bộ
luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015...Do đó, việc học viên quyết
định chọn nghiên cứu đề tài nêu trên có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan
trọng trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Qua việc nghiên cứu, đánh giá những ưu điểm, hạn chế còn tồn tại về tổ
chức và hoạt động của VKSND từ năm 2013 đến nay, tác giả đưa ra một số
phương hướng và giải pháp nhằm đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của
VKSND.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Từ mục đích nghiên cứu trên đề tài có các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu lý luận về tổ chức và hoạt động của VKSND, mô hình cơ
quan công tố, VKS ở một số quốc gia trên thế giới;
- Nghiên cứu thực tiễn tổ chức và hoạt động của VKSND trong giai
đoạn từ năm 2013 đến hiện nay;
- Đưa ra một số phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới
tổ chức và hoạt động của VKSND trong giai đoạn hiện nay.

4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về đổi mới tổ

chức và hoạt động của VKSND trong giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn có phạm vi nghiên cứu là những vấn đề lý luận chung về
Viện kiểm sát, hệ thống cơ quan công tố và Viện kiểm sát một số nước trên
thế giới theo các mô hình truyền thống pháp luật, cơ cấu tổ chức và hoạt động
của VKSND theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Tập trung
nghiên cứu và đánh giá thực trạng về cơ cấu tổ chức và hoạt động của
VKSND từ 2013 (sau khi ban hành Hiến pháp 2013) cho đến nay.
Về thực tiễn luận văn khảo sát từ ví dụ điển hình qua thực tiễn tổ chức
và hoạt động của VKSND trên địa bàn cả nước.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận Mác – Lê nin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng về từng
bước hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của VKSND theo yêu cầu xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Luận
văn cũng được trình bày trên cơ sở nghiên cứu Hiến pháp, Luật tổ chức VKS
và các văn bản pháp luật khác quy định về tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp kết
hợp lý luận với thực tiễn; phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp
hệ thống; phương pháp luật học so sánh để làm sáng tỏ những nội dung cần
nghiên cứu của luận văn.
6. Những điểm mới của luận văn
Đóng góp của đề tài về mặt khoa học pháp lý (lý luận chung về Nhà
nước và pháp luật) là góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về chức năng, nhiệm

5


vụ, vai trò, công tác của VKSND. Kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số

quy định của pháp luật có liên quan đến cơ cấu tổ chức và hoạt động của
VKSND.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho sinh viên, học viên cao học và những người quan tâm trong việc
nghiên cứu các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cấu thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về VKSND
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của VKSND trong giai
đoạn hiện nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động
của VKSND

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Viện kiểm sát trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam
1.1.1. Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước kiểu mới, nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân. Với bản chất nhà nước XHCN,
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là quyền lực nhà nước là thống
nhất và tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Từ bản chất của nhà nước ta, tổ
chức theo nguyên tắc tập quyền, khác với nguyên tắc phân quyền trong nhà
nước tư bản. Do vậy, nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua cơ

quan đại diện cao nhất của nhân dân, do nhân dân bầu ra, do vậy Quốc hội là
cơ quan quyền lực cao nhất. Song, Quốc hội không thể nắm giữ và làm tất cả
các quyền lực đó mà có sự phân công, phân nhiệm rạch rồi giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tất
cả những vấn đề nêu trên đều được ghi nhận trong tất cả Hiến pháp, mà cụ thể
tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định:
1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp[37].

7


Xuất phát từ bản chất và đặc điểm cơ bản nhất của nhà nước ta, phải
đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực, kết hợp với nguyên tắc
tập trung dân chủ để phân công, phân nhiệm cho từng cơ quan trong bộ máy
nhà nước nhằm đảm bảo tính tập trung nhưng cũng phát huy tính tự chủ để để
thực hiện tốt quyền lực của nhân dân. Như vậy, lập pháp, hành pháp và tư
pháp là ba phạm vi quyền lực thống nhất trong nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam. VKSND là một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước ta, tổ
chức và hoạt động cũng chi phối bởi các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. VKSND là một trong bốn hệ
thống cơ quan nhà nước do Quốc hội bầu ra, thuộc hệ thống các cơ quan tư
pháp và là một thiết chế đặc thù trong tổ chức bộ máy nhà nước XHCN.
Kể từ khi thành lập đến nay, VKSND luôn khẳng định được vị trí của

mình trong bộ máy nhà nước ta. Ngay từ những ngày đầu thành lập nước đến
Hiến pháp năm 1959, mặc dù tổ chức của VKS vẫn tồn tại trong hệ thống tòa
án nên chưa hình thành một hệ thống VKSND độc lập như ngày nay, song về
hoạt động luôn thể hiện tính độc lập. Sau khi hệ thống Viện công tố chuyển
thành hệ thống VKSND trong Hiến pháp năm 1959 đến nay, vị trí của
VKSND không hề thay đổi và luôn khẳng định vị trí độc lập trong bộ máy
nhà nước, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Tổ chức của VKSND có
hai thuộc tính là tính thống nhất và tính độc lập:
Tính thống nhất của nó được thể hiện ở chỗ: Viện trưởng VKSND cấp
dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên; Viện trưởng các
VKS cấp dưới chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao.
ính độc lập của nó thể hiện ở chỗ Viện trưởng VKSND tối cao người
đứng đầu hệ thống thống nhất đó chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội;
trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước y ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Chế độ báo cáo công tác

8


của các Viện trưởng các Viện kiểm sát (VKS) khác do luật định. Theo quy
định của Luật tổ chức VKSND hiện hành thì ở các địa phương, Viện trưởng
VKSND chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân và trả
lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Như vậy, theo quy định của Hiến pháp 2013 và Luật tổ chức VKSND
năm 2014 thì địa vị pháp lý của VKSND là thiết chế Hiến định trong bộ máy
nhà nước, có chức năng THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp, có nhiệm vụ
bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND đã làm rõ vị trí, vai trò của
VKSND trong mối quan hệ phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà
nước theo tư tưởng Hiến pháp năm 2013. Với chức năng THQCT, kiểm sát

hoạt động tư pháp, VKSND được xác định là thiết chế kiểm sát hoạt động tư
pháp, có trách nhiệm phối hợp, đồng thời, kiểm sát chặt chẽ, thường xuyên
đối với cơ quan điều tra, toà án, cơ quan thi hành án và các cơ quan khác
trong việc thực hiện hoạt động tư pháp. Mặt khác, Luật cũng quy định rõ các
cơ chế giám sát hoạt động của VKSND thông qua các thiết chế dân chủ đại diện
(như Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân), thông qua dân chủ
trực tiếp và các tổ chức chính trị - xã hội; đồng thời, quy định cơ chế kiểm soát
trở lại của cơ quan điều tra, toà án, cơ quan thi hành án và các cơ quan khác có
thẩm quyền trong hoạt động tư pháp đối với việc thực hiện chức năng THQCT,
kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND.
1.1.2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
Với tính chất, vị trí vai trò như trên, vậy cơ cấu tổ chức của VKSND
thực chất được quy định như thế nào? Trước hết cần hiểu cơ cấu tổ chức là gì:
“Cơ cấu tổ chức của một bộ máy là tổng hợp các bộ phận có mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hóa, có những nhiệm vụ, quyền hạn,

9


trách nhiệm nhất định, được bố trí theo từng cấp, hoặc những khâu công tác
khác nhau nhằm thực hiện các hoạt động của tổ chức và tiến tới những mục
tiêu đã định sẵn”. Như vậy, cơ cấu tổ chức của VKSND gồm nhiều bộ phận,
được phân cấp từ trung ương đến địa phương.
Với chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, VKSND hoạt
động theo nguyên tắc nào? Ngoài việc là một phần hợp thành hệ thống các cơ
quan nhà nước, VKSND là một tổ chức đặc biệt, có cơ cấu tổ chức và hoạt động
chặt chẽ. Theo quy định tại Điều 109 Hiến pháp 2013 quy định:
1. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân cấp trên. Viện trưởng các Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm
sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân[37].
Như vậy, theo quy định của Hiến pháp 2013, VKSND hoạt động theo
02 nguyên tắc:
Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành: Viện kiểm
sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp dưới sự lãnh đạo
thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp trên. VKSND các cấp từ trên xuống dưới tạo thành một hệ thống
thống nhất. Mọi hoạt động của VKSND, dù ở cấp nào, đều đặt dưới sự lãnh đạo
của Viện trưởng. Viện trưởng VKSND phải chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ
hoạt động của đơn vị do mình lãnh đạo trước Viện trưởng VKSND cấp trên và
Viện trưởng VKSNDTC. Viện trưởng VKSNDTC chịu trách nhiệm cá nhân về

10


hoạt động của toàn ngành trước Quốc hội,

y ban Thường vụ Quốc Hội, Chủ

Tịch nước.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung và thống nhất lãnh đạo trong ngành
Kiểm sát đảm bảo cho các cấp hoạt động đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện
nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát. Mặt khác, nhấn mạnh nguyên tắc này
nhằm đề cao trách nhiệm cá nhân của Viện trưởng VKSND.

Nguyên tắc chỉ tuân theo pháp luật và không phụ thuộc vào cơ quan
nhà nước nào ở địa phương: Các Viện kiểm sát nhân dân trực thuộc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc lập và không chịu sự chi
phối bởi các cơ quan nhà nước ở địa phương, chỉ chịu sự lãnh đạo thống nhất
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Khi hoạt động, các Viện
kiểm sát nhân dân chỉ phụ thuộc vào Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh và
các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội,

y ban thường vụ Quốc hội,

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao. Có nghĩa là các cơ quan nhà nước ở địa phương không có
quyền can thiệp vào hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Về mặt cơ cấu tổ
chức, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định bộ máy và biên
chế của Viện kiểm sát nhân dân các cấp, không chịu sự tác động của các cơ
quan khác.
1.1.3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
Viện kiểm sát nhân dân là một thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà
nước. Theo Điều 107 Hiến pháp năm 2013, VKSND thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Cụ thể hóa Điều 107 Hiến pháp năm 2013,
Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định: VKSND là cơ quan
THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
VKSND là cơ quan THQCT
Ở nước ta, thuật ngữ “quyền công tố” và “THQCT” lần đầu tiên chính
thức được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1980 và kế đến là Điều 23 Bộ Luật

11


TTHS năm 1988. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn tồn tại rất nhiều quan điểm quan

điểm khác nhau về khái niệm, đối tượng, phạm vi của quyền công tố, THQCT.
Khái niệm quyền công tố không phải là vấn đề mới, nhưng hiện nay ở
nước ta có nhiều quan điểm khác nhau về quyền công tố. Nhìn chung các quan
điểm ít nhiều đều có những nội dung hợp lý, có những điểm tương đồng. Song
nếu xét một cách toàn diện, ở nhiều góc độ thì nước ta nổi lên một số quan
điểm sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, tất cả các hoạt động của kiểm sát việc
tuân theo pháp luật là THQCT [29]. Chúng tôi cho rằng quan điểm này đã
đánh đồng chức năng THQCT với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của Viện kiểm sát, đồng thời không xem chức năng công tố là một chức
năng độc lập của VKS mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật hoàn toàn không đúng. Bởi vì,
VKS có 02 chức năng (chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp).
Thật vậy, Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 1, Điều 3 Luật Tổ chức
VKSND năm 2014 thì VKS có hai chức năng là THQCT và kiểm sát hoạt
động tư pháp. Tuy nhiên, tùy theo từng đoạn nào thì chức năng công tố và
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là hoàn toàn độc lập và song song tồn
tại; hai chức năng này có mối quan hệ biện chứng với nhau. Do vậy, không
phải mọi hoạt động của KSV lúc nào cũng thực hiện hai chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật và THQCT. Mặt khác, xuất phát từ quan điểm xem
tất cả hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật là THQCT và THQCT
giống nhau. Theo chúng tôi, nếu hiểu quyền công tố như trên là quá rộng và
chưa chính xác. Bởi vì đối tượng và phạm vi của kiểm sát việc tuân theo pháp
luật hầu hết tất cả các lĩnh vực nên rất rộng, trong khi đó đối tượng, phạm vi
của quyền công tố chỉ thực hiện trong lĩnh vực hình sự.

12


Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nước

giao cho VKS truy tố kẻ phạm tội ra tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội tại
phiên tòa sơ thẩm [43, tr.75-76]. Quan điểm này cho rằng chỉ có VKS mới có
quyền này và chỉ diễn ra trong TTHS (cũng chỉ có ở một giai đoạn xét xử sơ
thẩm). Quan điểm này còn đồng nhất quyền công tố với quyền buộc tội của
VKS tại phiên tòa sơ thẩm. Theo chúng tôi, truy tố và buộc tội chỉ là một
trong số quyền năng của VKS khi THQCT chứ không nói lên được bản chất
của quyền này. Buộc tội và sự bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa chỉ là những
hoạt động cụ thể trong hệ thống các hoạt động của VKS khi THQCT. Mặt
khác, chúng ta biết rằng quyền công tố là quyền của nhà nước không chỉ giao
cho VKS trong giai đoạn truy tố mà ngay khi khởi tố vụ án. Do vậy, nếu hiểu
quyền công tố quan điểm này dẫn đến phạm vi của quyền công tố quá hẹp,
đồng thời tạo nên nhầm lẫn giữa quyền công tố và THQCT.
Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà
nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, bảo vệ lợi ích chung, bảo vệ lợi ích cá nhân [14, tr.62-67].
Quan điểm này cho rằng quyền công tố xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp
luật được thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực TTHS, song cùng với sự phát triển
của thời gian và xã hội cho nên quyền công tố mở rộng sang các lĩnh vực
khác như tố tụng dân sự, tố tụng lao động, tố tụng hành chính... Mặt khác,
không phải bất cứ vụ án hành chính, dân sự, lao động nào cũng bắt buộc VKS
tham gia phiên tòa với tư cách là chủ thể quyền lực công để sử dụng quyền
công tố. Theo chúng tôi, quyền công tố được xác định là quyền của nhà nước,
nhằm truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. Do vậy, đối tượng quyền công
tố là tội phạm và người phạm tội cho nên quyền công tố chỉ có trong TTHS
mà không có trong các lĩnh vực khác như: tố tụng dân sự, hành chính, lao
động…

13



Qua xem xét các quan điểm trên, chúng ta nhận thấy nguyên nhân khác
nhau về quyền công tố của các quan điểm trên là do chưa xác định đúng đối
tượng, nội dung và phạm vi của quyền công tố. Cụ thể:
+ Xem quyền công tố là quyền năng, hình thức thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật hoặc đánh đồng quyền công tố với kiểm sát
việc tuân theo pháp luật, từ đó mở rộng phạm vi quyền công tố không chỉ trong
TTHS mà còn sang các lĩnh vực khác..
+ Chỉ xem quyền công tố là quyền truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án để xét xử
và bảo vệ buộc tội tại phiên tòa sơ thẩm. Điều đó cho thấy, quyền công tố chỉ có
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm mà không có trong giai đoạn điều tra cũng như
trong giai đoạn xét xử theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Xuất phát từ các căn của khoa học, các quy định pháp luật, thực tiễn
hoạt động và bản chất Nhà nước chúng tôi cho rằng: Quyền công tố ở Việt
Nam là quyền của Nhà nước mà VKS nhân danh công quyền nhằm thực hiện
việc truy cứu trách nhiệm hình sự (buộc tội) đối với người phạm tội và bảo vệ
việc buộc tội trước phiên tòa nhằm bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội
và đúng quy định pháp luật.
Việc quy định cơ quan THQCT ở mỗi nước khác nhau, tùy thuộc vào
bản chất nhà nước, điều kiện và hoàn cảnh của từng quốc gia. Ở nước ta,
THQCT được nhà nước giao cho VKS thực hiện chức năng này, cho nên chỉ
có VKS mới có chức năng THQCT mà không cơ quan nào có được. Thực tế
cho thấy, có rất nhiều người nhầm lẫn hoặc nhận thức sai lầm giữa quyền
công tố và THQCT, giữa thẩm quyền của VKS với các quyền năng pháp lý để
thực hiện thẩm quyền đó, hay hành vi nào là THQCT hay hành vi nào là thực
hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Như vậy, vấn đề đặt ra là các
Cơ quan điều tra và Tòa án cũng có quyền khởi tố vụ án hình sự hoặc bắt
người phạm tội để điều tra, thu thập chứng cứ, thì các cơ quan này có phải là

14



THQCT hay không? [24, tr.75-80]. Chúng tôi cho rằng, các Cơ quan điều tra,
Tòa án hay một số cơ quan khác có chức năng khởi tố vụ án, điều tra, thu thập
chứng cứ nhưng không nhân danh công quyền truy tố người phạm tội ra trước
Tòa án để xét xử và bảo vệ việc truy tố trước Tòa cho nên các cơ quan nay
không có chức năng THQCT. Mặt khác, phạm vi quyền công tố là từ khi tội
phạm xảy ra và kết thúc bản án có hiệu lực pháp luật. Để đảm bảo việc thực hiện
quyền đó, nhà nước quy định các quyền năng pháp lý mà cơ quan có thẩm quyền
đưa vụ án ra tòa để xét xử và bảo vệ buộc tội đó gọi là cơ quan THQCT.
Như vậy, từ lý luận cũng như thực tiễn có thể khẳng định rằng, chỉ có
VKS mới có chức năng THQCT. Chúng tôi cho rằng, THQCT là: Việc cơ
quan VKS sử dụng tổng hợp các biện pháp do luật định để truy cứu trách
nhiệm hình sự (buộc tội) đối với người phạm tội trong giai đoạn điều tra, truy
tố và xét xử.
Từ đó có thể thấy, chức năng THQCT của VKSND có nghĩ là VKSND
là cơ quan được giao thực hiện chức năng thực hành quyền đưa người phạm
tội ra truy tố trước pháp luật, thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với
người phạm tội. Hoạt động THQCT của VKSND được thực hiện ngay từ khi
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố để phát hiện người
phạm tội, thực hiện việc xem xét quyết định khởi tố và được diễn ra trong
suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Mục đích của
hoạt động THQCT là phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời,
nghiêm minh mọi tội phạm và người phạm tội không làm oan người vô tội,
không để lọt tội phạm và người phạm tội; không để người nào bị khởi tố, bị
bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
Để thực hiện quyền tư pháp, các nhà nước đều không ngừng xây dựng
và hoàn thiện cơ quan tư pháp để thực hiện quyền tư pháp. Ở nước ta, khi đề

15



cập đến cơ quan tư pháp cũng có nhiều quan điểm khác nhau: Có quan điểm
cho rằng cơ quan tư pháp chỉ là những cơ quan tài phán; có quan điểm cho
rằng cơ quan tư pháp bao gồm cơ quan tài phán và cơ quan công tố; quan
điểm khác cho rằng cơ quan tư pháp là bao gồm tất cả các cơ quan bảo vệ
pháp luật như: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Thanh tra, các cơ
quan bổ trợ tư pháp như: Luật sư, giám định, công chứng. Theo Hiến pháp
năm 2013 và quan điểm của Đảng thể hiện trong Nghị quyết 49/NQ-TW thì
hệ thống cơ quan tư pháp gồm có: Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra,
Cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức hỗ trợ cho hoạt động xét xử như:
Tổ chức luật sư, tổ chức giám định tư pháp, cơ quan công chứng; trong các cơ
quan tư pháp nói trên thì Tòa án là nơi biểu hiện tập trung của quyền tư pháp.
Mặt khác, kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng
đến nay, vấn đề cải cách bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp
(công tác tư pháp và cơ quan tư pháp) nói riêng rất được quan tâm. Đặc biệt,
các Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba và lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII; Chỉ thị 53 - CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị
“Về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong
năm 2000”; Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
“Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị
quyết 49 - NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020. Như vậy, qua thực tiễn hoạt động cũng như nghiên cứu
các văn bản pháp luật của Nhà nước và văn kiện, nghị quyết của Đảng nhận thấy
thuật ngữ cơ quan tư pháp ở nước ta đã xuất hiện từ lâu và cơ quan tư pháp được
hiểu theo nghĩa rộng gồm: Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi
hành án. Do vậy, cơ quan tư pháp có 04 dấu hiệu đặc trưng cơ bản: Thứ nhất, cơ
quan tư pháp là tổ chức quyền lực nhà nước trong bộ máy công quyền; Thứ hai,
cơ quan tư pháp tạo thành hệ thống các cơ quan độc lập có thẩm quyền riêng biệt


16


do luật định để giải quyết sự xung đột các mối quan hệ xã hội; Thứ ba, cơ quan
tư pháp chuyên thực hiện quyền xét xử bằng hoạt động tố tụng tư pháp (tài
phán); Thứ tư, hoạt động cơ quan tư pháp nhằm mục đích bảo vệ chế độ hiến
định, nhân thân, các quyền tự do của con người và công dân [5, tr.35-36].
Tuy nhiên, qua nhận thức về tư pháp của các cơ quan tư pháp, hoạt
động thực tiễn và các quy định của pháp luật thì hoạt động tư pháp như sau:
Hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia
vào việc giải quyết các tranh chấp pháp lý, các vi phạm pháp luật thuộc thẩm
quyền phán quyết của Tòa án và thi hành các phán quyết đó theo thủ tục tố
tụng mà pháp luật quy định.
Như vậy, các hoạt động tư pháp là đối tượng của hoạt động kiểm sát
của VKSND bao gồm hoạt động TTHS, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và
hoạt động thi hành án hình sự, dân sự, hành chính. Hoạt động kiểm sát hoạt
động tư pháp của VKSND là hoạt động kiểm sát tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra, Tòa án, cơ quan thi hành án, người có thẩm quyền
của các cơ quan trên trong việc giải quyết thông tin về tội phạm, khởi tố, điều
tra, xét xử, thi hành án và các hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác có liên quan đến các hoạt động giải quyết thông tin về tội phạm, khởi tố,
điều tra, xét xử, thi hành án.
Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND được thực hiện
ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự, thi
hành án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án dân sự,
thi hành án hành chính, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.


17


×