Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Một số biện pháp hình thành và giáo dục tính tự lập cho trẻ 3 – 4 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.67 MB, 27 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP HÌNH THÀNH VÀ GIÁO DỤC 
TÍNH TỰ LẬP CHO TRẺ 3 – 4 TUỒI
                             PHẦN I :  ĐẶT VẤN ĐỀ 
I.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 

            Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục  
và chịu trách nhiệm chăm sóc và giáo dục trẻ từ 0 – 6 tuổi. Đây cũng là 
giai đoạn đầu tiên đặt nền móng cho sự  hình thành và phát triển toàn 
diện về  mọi mặt cả  thể  chất lẫn tinh thần và là yếu tố  đầu tiên hình  
thành nhân cách của một đứa trẻ. Nếu không làm tốt việc chăm sóc ­ 
giáo dục trẻ trong những năm đầu đời này, sẽ trở nên hết sức khó khăn,  
phức tạp.
        Chăm sóc giáo dục trẻ để trẻ phát triển một cách toàn diện về mọi  
mặt không có nghĩa là người lớn làm hết tất cả mọi việc cho trẻ từ việc 
nhỏ nhất như bố mẹ chăm bẵm con từng ly, từng tý từ vệ sinh cá nhân, 
mặc quần áo, thậm chí là bón cho con từng miếng một. Mà tất cả Giáo 
viên và trước hết là các bậc phụ  huynh nên hưỡng dẫn và cho trẻ  làm  
những việc đơn giản nhất. 
          Tính tự lập được hình thành rất sớm và là một biểu hiện tâm lí có  
ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành các phẩm chất nhân cách 
của trẻ. Một số dấu hiệu đáng tin cậy của bắt đầu sự hình thành tính tự 
lập, đó là nhu cầu tự khẳng định mình xuất hiện. Trẻ muốn tự làm một 
số  công việc trong sinh hoạt hằng ngày. Giáo dục tính tự  lập cho trẻ 
ngay từ  khi còn bé không những tạo ra cho trẻ  khả  năng tự  lập trong  
sinh hoạt hằng ngày mà còn là một trong những điều kiện quan trọng để 
hình thành sự  tự  tin, năng động, sáng tạo, làm cơ  sở  hình thành các kĩ  
năng sống sau này cho trẻ. 
1




          Kỹ  năng tự  phục vụ   ở  trẻ  trong độ  tuổi mẫu giáo nói chung và  
mẫu giáo bé nói riêng đều rất hạn chế, vì mỗi ngày trẻ đều được ba mẹ 
chăm sóc từng chút một từ  vệ  sinh cá nhân đến việc ăn uống . Vì các 
bậc phụ  huynh thường có suy nghĩ trẻ  còn nhỏ  và không cần trẻ  phải  
làm bất cứ  việc gì ngoài việc học và chơi. Nhưng Bác Hồ  chúng ta đã 
nói “ tuổi nhỏ thì làm việc nhỏ, tùy theo sức của mình mà làm ”
         Nhưng trên Thực tế hiện nay cho thấy, đối với gia đình, chủ yếu là 
cha mẹ còn có nhiều sai lầm về giáo dục nói chung và giáo dục  tính tự 
lập, tự phục vụ cho trẻ nói riêng. Thứ nhất là nuông chiều con quá mức  
chỉ biết hưởng thụ sau này trở thành người có tính ích kỉ, vụng về, thiếu 
tự  tin trong cuộc sống. Thứ  hai là không tin vào khả  năng của trẻ, trẻ 
muốn làm nhưng thấy trẻ  làm lóng ngóng, chậm chạp thì lại tỏ  ra khó 
chịu, nên người lớn thường “Sốt ruột” và làm thay trẻ  cho nhanh để 
không mất thời gian, dẫn đến trẻ có thái độ bướng bỉnh dần dần tạo ra  
sự ỉ lại, lười biếng mất tự tin ở trẻ. Chính những việc làm đó của người 
lớn đã vô tình làm mất dần đi những kỹ năng sống cơ bản của một đứa 
trẻ.
Xuất phát từ những vấn đề đó, tôi luôn học hỏi và tìm hiểu về các  
biện pháp làm sao để trẻ có thói quen tự lập, tự phục vụ. Đặc biệt ở lứa 
tuổi mẫu giáo bé 3 ­ 4 tuổi mà tôi đang trực tiếp giảng dạy, nhằm giúp  
trẻ  có kỹ  năng tự  lập, tự  phục vụ  trong mọi công việc hàng ngày, phù  
hợp với lứa tuổi và sự phát triển của trẻ. Để trẻ  bước đầu có được kỹ 
năng tự  lập, tự  phục vụ  không chỉ   ở  trường mà còn cả   ở  gia đình và  
ngoài xã hội, vì vậy tôi đã lựa chọn đề  tài “Một số  biện pháp giáo dục  
tính tự lập, kỹ năng phục vụ cho trẻ mẫu giáo bé 3 ­ 4 tuổi trong trường 
Mầm non”.         

II. Mục đích nghiên cứu đề tài:

      Tìm ra những biện pháp giáo dục tính tự lập và kỹ năng tự phục vụ 
cho trẻ mẫu giáo bé 3 ­ 4 tuổi trong trường mầm non để phù hợp với sự 
phát triển toàn diện của trẻ và đáp ứng nhu cầu hiện nay.
2


III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 
1. Đối tượng nghiên cứu: Các cháu lớp 3 ­ 4 tuổi Trường Mầm 
Non Ngô Thời Nhiệm 
2. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu: 
Địa điểm: Lớp mầm 3 : số lượng : 25 trẻ.

PHẦN THỨ HAI: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
      Mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non hiện nay đóng vai trò 
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Việc 
tổ chức các hoạt động giáo dục với quan điểm “Lấy trẻ làm trung tâm” 
nhằm phát huy tính tích cực, tính sáng tạo, khả  năng, năng lực vốn có 
của trẻ  về mặt tinh thần, nhờ khả năng đó trẻ  có thể  tự  mình làm một  
số công việc mà không phải dựa dẫm, nhờ vả vào người khác.
Tính tự  lập, tự  phục vụ  là yếu tố  để  tạo nên điều đó  ở  mỗi cá 
nhân, là khả năng tin tưởng vào những đánh giá của bản thân, cũng như 
là tìm ra con đường đi cho mình mà không cần lúc nào cũng nhờ đến sự 
chỉ bảo hay tìm kiếm sự giúp đỡ  từ người khác. Có được khả  năng này  
là một điều tuyệt vời, bởi nó sẽ  giúp cho mỗi người tự tin hơn, thu hút 
được sự  chú ý của mọi người xung quanh, từ đó tạo tiền đề, để  có cơ 
hội phát triển toàn diện.
          Tính tự lập là gì? Là một đức tính rất cần thiết cho trẻ, vì nhờ có  
tính tự lập mà trẻ có thể phát huy được những tiềm năng ẩn dấu, trẻ sẽ 
trưởng thành hơn và đặc biệt bố mẹ sẽ giảm bớt lo lắng hơn. Tuy nhiên  
tính tự  lập không phải tự  nhiên mà có được. Mà nó còn phụ  thuộc vào 

cả quá trình rèn luyện trong một thời gian nhất định. 
         Tự phục vụ là gì? Là phương tiện không thể thiếu để giúp trẻ tăng 
năng lực hội nhập, tích cực, chủ động, sáng tạo, tự tin vững vàng trước 
3


mọi khó khăn thử  thách. Tự  phục vụ  chính là chiếc chìa khóa của sự 
sống còn, sự phát triển và sự thành công của mỗi con người.
Khi nhắc đến giáo dục tính tự lập và kỹ  năng tự  phục vụ đối với 
trẻ  mầm non nhiều người cho rằng  đó là một cái gì đó rất cao siêu, 
nhưng thực tế  dạy trẻ  biết tự  lập, tự  phục vụ là dạy những thói quen 
sinh hoạt rất thường ngày trong giao tiếp và ứng xử của trẻ đối với bản 
thân và những người xung quanh.
 Chính vì vậy đối với bậc học mầm non, việc giáo dục tính tự lập 
và kỹ năng tự phục vụ cho trẻ cần được áp dụng càng sớm càng tốt, là  
phương pháp rất quan trọng và cần thiết. Tạo tính tự lập cho trẻ không 
phải chỉ  có hướng dẫn cho trẻ  tự  lo cho bản thân mà còn giúp trẻ  tự 
quyết định một số vấn đề của chính bản thân trẻ. Đó cũng là cách giúp 
trẻ vận động suy nghĩ, sáng tạo và tự  tin thực hiện một số các kỹ  năng 
tự lập.
I.

THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ  TRƯỚC KHI THỰC 
HIỆN:

       Thông qua đề  tài tôi đã tiến hành khảo sát tình hình của trẻ   ở   lớp 
đầu năm học và tôi thấy đa số các bé đều chưa có kỹ năng tự lập và tự 
phục vụ cho bản than trẻ. Vì mỗi ngày đến trường các bé đều được ba 
mẹ ẵm vào lớp và tự cất đồ dung cá nhân của trẻ mà không để trẻ làm. 
Kết quả mà tôi khảo sát đầu năm như sau : 

1. Khảo sát thực tế:
NỘI   DUNG  ĐẠT
CHƯA ĐẠT
KHẢO SÁT
Biết tự  lấy đồ  dùng cá nhân khi đến lớp và ra 
về
Biết tự đi giày, dép
Biết tự đi vệ sinh khi có nhu cầu
Biết bỏ rác đúng nơi quy định
Biết tự cầm thìa xúc ăn
4

8

32 % 17

68%

5
9
13
7

20%
36%
52%
28%

80%
64%

48%
72%

20
16
12
18


Biết tự đi lấy ca uống nước và cất ca đúng nơi 
quy định
Biết tự lau mặt khi bẩn
Biết tự lấy, cất đồ dùng đồ chơi đúng nơi quy 
định
Biết tự rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh 
và khi tay bẩn bằng xà phòng
Biết tự đánh răng sau khi ăn
Biết cởi, mặc quần áo
Biết tự gấp – xếp quần áo 
Biết phụ giúp cô những công việc đơn giản
Trẻ tự tin làm một số công việc

10

40% 15

60%

3
6


12% 22
24% 19

88%
76%

6

24% 19

76%

3

8
6
3

12%
28%
32%
24%
12%

88%
72%
68%
76%
88%


22
18
17
19
22

2 . Những biện pháp
        Nhằm đạt được những hiệu quả như mong muốn trong việc thực  
hiện đề tài của mình tôi đã đưa ra một số nội dung cần giải biện pháp 
như sau:
­ Đặt mục tiêu rèn luyện những kỹ năng cần thiết cho trẻ.
          ­ . Xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng tự lập, tự phục vụ cho  
trẻ.
          ­ Giáo dục trẻ có tính tự lập ngay từ những ngày đầu đến lớp.
          ­ Rèn luyện tính tự lập cho trẻ thông qua một số hoạt động trong ngày 
ở lớp.
          ­ Công tác phối hợp với phụ huynh.
3. Giải quyết các biện pháp 
a. Đặt mục tiêu rèn luyện những kỹ năng cần thiết cho trẻ. 
        Rèn luyện kỹ  năng sống cho trẻ  là điều rất cần thiết. Việc hình  
thành các kỹ  năng cơ  bản trong học tập và sinh hoạt là yếu tố  quyết 
định đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của trẻ. 
Khi xảy ra vấn đề nào đó, nếu không được trang bị những kỹ năng cần  
thiết, trẻ  sẽ  không đủ  kiến thức để  xử  lý các tình huống bất ngờ. Vì  
thế, rèn luyện những kỹ  năng cần thiết, đặc biệt là kỹ  năng tự  lập, tự 
5


phục vụ  sẽ  giúp trẻ  sớm có ý thức làm chủ  bản thân, sống tích cực và  

hướng đến những điều lành mạnh cho chính mình cũng như xã hội.
        Người lớn thường không muốn trẻ  phải làm những công việc mà 
vừa sức với trẻ khi mà trẻ chưa thực sự sẵn sàng, thế là lại tiếp tục làm 
mọi việc giúp trẻ như thường lệ mà ít nhận ra rằng con trẻ đã đủ  khéo 
léo, có các kỹ  năng phù hợp và đủ  tự  tin bắt tay vào một công việc nào 
đó. Để hình thành tính tự lập, người lớn cần tin tưởng trẻ, động viên và  
khuyến khích trẻ làm những công việc trong khả năng. Nếu mọi người 
kiểm soát trẻ quá chặt để  trẻ  phụ  thuộc quá lâu thì trẻ  sẽ  bám riết lấy 
cha mẹ, cô giáo, chúng có thể  trở  thành những đứa trẻ  lười biếng và  
mọi việc đối với trẻ đều trở nên khó khăn. 
       Xuất phát từ tư duy này cô giáo và cha mẹ nên dạy con tính tự lập,  
làm việc bằng đôi tay của mình ngay từ nhỏ. Với mỗi độ tuổi khác nhau 
hãy đặt ra mục tiêu và cách thực hiện các bước khác nhau để dạy trẻ về 
tính tự  lập theo lời Bác Hồ  dạy “Tuổi nhỏ  làm việc nhỏ, tùy theo sức  
của mình”.  Và với mong muốn sau này mỗi đứa trẻ  lớn lên và trưởng  
thành đều có nhân cách tốt, đạo đức tốt và có khả  năng về  tự  lập, tự 
phục vụ cho chính bản thân mình, để sau này dù có ở môi trường nào thì  
trẻ đều có thể dễ dàng thích nghi và hòa nhập . Vì vậy ngay từ đầu năm  
học tôi đã đặt ra các mục tiêu để rèn luyện các kỹ năng cho trẻ lớp mình  
như sau:
    ­ Kỹ năng tự phục vụ bản thân: Tự nhặt đồ chơi; tự cởi và mặc quần  
áo; tự rửa mặt, rửa tay; tự đi dép, tự cất dép, lấy và cất đồ dùng cá nhân  
của mình khi đến lớp và khi ra về; tự ăn; tự  đi lên xuống cầu thang; tự 
lấy và cất gối.
      ­ Kỹ  năng giữ  gìn vệ  sinh: Tự  thay quần áo khi thấy bẩn; tự  đánh  
răng sau khi ăn; lau nước trên sàn, lau bụi trên bàn; xả  nước sau khi đi 
vệ sinh, đi vệ sinh đúng nơi qui định; rửa tay bằng xa phòng khi tay bẩn, 
nhặt rác, bỏ  rác vào đúng nơi qui định; tự  rửa tay, chân khi thấy bẩn, 
biết tự đi vệ sinh khi thấy có nhu cầu.
6



       ­ Kỹ  năng hỗ  trợ  người khác: Lấy, cất đồ  dùng học tập, chuẩn bị 
bàn ăn, giường ngủ cùng cô, lấy ly nước uống khi được nhờ, xách phụ 
đồ, tưới cây….
      Việc xác định được  những kỹ năng như trên đã giúp tôi định hướng  
được nhiệm vụ của mình trong công tác chăm sóc trẻ nói chung và việc  
thực hiện đề  tài nghiên cứu nói riêng. Và nhờ  xác định được những kỹ 
năng đó mà tôi đã rèn trẻ  thông qua các hoạt động trong ngày. Tôi đã  
giúp trẻ  hiểu được ý nghĩa của hành động, của công việc đó như  thế 
nào, biết được việc nào nên làm và việc nào không nên làm, việc đó có 
ích lợi gì để từ đó giúp trẻ dần dần trở thành ý thức cần có trong cuộc 
sống hàng ngày.
  b . Xây dựng kế  hoạch giáo dục kỹ  năng tự  lập, tự  phục vụ  
cho trẻ.
Để  việc giáo dục kỹ  năng tự  lập cho trẻ  đạt được kết quả  cao,  
ngay từ  đầu năm học tôi đã lên kế  hoạch cụ  thể, rõ ràng từng tháng 
xuyên xuốt từ những kĩ năng dễ tới những kỹ năng khó như sau:
Kế  hoạch giáo dục kĩ năng tự  lập, tự  phục vụ  cho trẻ  lớp mẫu  
giáo bé:
Tháng

Kĩ năng

Tháng 9

­ Biết lấy và cất đồ dùng cá nhân khi đến lớp và ra 
về.
­ Biết đi và tháo giầy, dép.


Tháng 10

­ Biết tự đi vệ sinh khi có nhu cầu
­  Biết bỏ rác đúng nơi quy định

Tháng 11

­ Biết tự cầm thìa xúc ăn mà không cần cô nhắc.
­ Biết tự  đi lấy nước uống và cất cốc đúng nơi  
quy định.
7


Tháng 12

­ Biết tự  lau mặt khi bẩn 
­ Biết cất, xếp  đồ  dùng,  đồ  chơi  đúng nơi quy 
định.

Tháng 1

­ Biết tự rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và  
khi tay bẩn bằng xà phòng 
­ Biết tự đánh răng sau khi ăn

Tháng 2

­ Biết cởi, mặc quần áo
­ Biết tự gấp quần áo 


Tháng 3

­ Biết giúp đỡ người khác khi được yêu cầu
­ Trẻ tự tin làm một số công việc

  
     Và theo tôi, để trẻ có được kỹ năng tự lập, tự phục vụ thì cô cần 
có quy trình nhất định để  thực hiện kế  hoạch một cách dễ  dàng mà 
mang lại hiệu quả không nhỏ.
        1.Cung cấp kỹ năng.
2. Tạo nhiều cơ hội cho trẻ được luyện tập. 
3. Hình thành thói quen.
4. Vận dụng linh hoạt vào các hoạt động. Đảm bảo quy tắc từ dễ 
đến khó cho trẻ thực hiên. 
c: Giáo dục trẻ có tính tự lập ngay từ những ngày đầu đến lớp:
          Để thực hiện có hiệu quả việc rèn tính tự lập cho trẻ đầu tiên tôi  
tự thiết kế  cho mình một số kỹ năng  rèn luyện trẻ bao gồm:
. Lựa chọn lựa một số kỹ năng cần thiết cho trẻ.
          Ngay từ  những ngày đầu năm học, khi trẻ bắt đầu quen dần với 
cô, với bạn, làm quen với môi trường lớp học tôi tiến hành  rèn luyện 
cho trẻ một số kỹ năng đơn giản:
8


­ Kỹ năng tự phục vụ bản thân: tự đi dép, tự cất dép, lấy và cất đồ dùng 
cá nhân của mình khi đến lớp và khi ra về. Tự  cởi và mặc quần áo; tự 
xúc ăn; tự đi lên xuống cầu thang; tự lấy và cất gối.
+   Ngay từ đầu năm học, trẻ Mẫu Giáo Bé vừa ở lớp nhà trẻ chuyển lên 
và trẻ  còn bỡ  ngỡ  với những việc làm tự  phục vụ  bản thân mình, vì  ở 
nhà trẻ các bé đều được ba mẹ, cô giáo làm và chăm sóc các bé từ những 

việc làm nhỏ  nhất . Do đó ngay từ  khi các bé quen cô, quen bạn thì tôi 
bắt đầu với công việc là dạy và tập cho bé tự phục vụ bản thân mình từ 
những việc làm nhỏ nhất .
­      Kỹ năng tự phục vụ bản thân: tự  đi dép, tự  cất dép, lấy và cất đồ 
dùng cá nhân của mình khi đến lớp và khi ra về. Tự cởi và mặc quần áo; 
tự xúc ăn; tự đi lên xuống cầu thang; tự lấy và cất gối…
Ví dụ: 
Từ   đầu   năm   học   một   số   trẻ   như   bạn   Khang,   Yến   Nhi,   Thiện 
Nhân,…..đến lớp thì để dép ngay cửa ra vào, cặp thì để ba mẹ cất dùm 
không biết tự làm, tôi phải hướng dẫn trẻ tự làm bằng cách trò chuyện 
và dạy trẻ: tôi hỏi trẻ  khi đến lớp con thấy các bạn để  dép và cặp  ở 
đâu? Con thấy bạn làm có giỏi không? Sao con không tự làm giống bạn?  
Và tôi bắt đầu hướng dẫn trẻ tự để dép lên kệ, sau đó mang cặp cất vào 
tủ  đồ  dùng cá nhân của mình . Khi trẻ  tự  làm tôi khen trẻ  và nhắc trẻ 
lần sau nhớ  làm đúng như  vậy. Và những ngày tiếp theo tôi để  ý theo 
dõi xem trẻ  có làm đúng không, nếu trẻ  quên tôi nhắc trẻ  và trong thời  
gian 1­ 2 tuần trẻ bắt đầu quen và có ý thức cất đồ đúng nơi và trẻ cũng  
nhắc nhở khi có bạn làm sai. 

9


     ( Hình ảnh bé tự cất giày dép và đồ dùng cá nhân của mình )

Ví dụ  : Trong giờ thay đồ  sau khi ăn xong, cũng như vậy trước khi cho  
trẻ làm thì tôi luôn hưỡng dẫn và dạy cho trẻ thực hành .  Ban đầu tôi sẽ 
cho trẻ  tự mặc quần cho mình trước vì các bé vừa được chuyển lên từ 
nhà trẻ nên tôi hưỡng dẫn từ những điều dễ nhất . Sau khi tất cả các bé  
trong lớp đều thực hiện được việc tự mặc quần thì lại bắt đầu chuyển 
qua hưỡng dẫn cho trẻ cách tự mặc áo và gấp quần áo cho gọn gàng. 


( Hình ảnh bé tự mặc quần áo )

10


                  ( Hình ảnh hướng dẫn trẻ tự gấp quần áo)
          Ví dụ :  Trong giờ ăn ở lớp, điều đầu tiên tôi làm đó là hưỡng dẫn  
cho các bé cách cầm muỗng để  làm sao xúc được cơm, canh ……  Sau 
khi hưỡng dẫn xong tôi cho bé thực hiện, luôn động viên, nhắc bé ăn 
uống hết khẩu phần ăn của mình và đặc biệt là khuyến khích các bé tự 
xúc ăn bằng cách bạn nào hôm nay tự xúc ăn thì cô sẽ có thưởng.  Cũng  
nhờ có động lực được thưởng nên các bé không những trở nên thích thú 
với việc tự xúc ăn mà còn ăn hết khẩu phần ăn của mình. 

11


                               ( Hình Ảnh bé tự xúc ăn)
 
­  Kỹ năng giữ gìn vệ sinh: 
    +  Ở lứa tuổi mầm non  thì trẻ  3 tuổi dù là nhỏ  tuổi nhưng trẻ 
cũng đã dần biết được giữ  vệ  sinh cho bản thân mình luôn được 
sạch sẽ. Vì vậy Trước giờ  ăn tôi hướng dẫn trẻ  rửa tay bằng xà 
phòng, khi ăn tôi nhắc các cháu tự  múc ăn, khi ăn xong tôi hướng  
dẫn   trẻ   rửa   tay,   rửa   mặt   và   đánh   răng,   tự   rót   nước   uống.   Tôi 
hướng dẫn cháu rửa tay khi tay bị  bẩn, đi vệ  sinh đúng nơi quy 
định, gạt nước sau khi đi vệ sinh, bỏ rác đúng nơi quy định.
   Ví dụ :  Ở lớp khi ra ngoài trời chơi hay trong lúc đi vệ sinh….. 
mà bị ướt quần một chút, hay mồ hôi ra bẩn hết quần áo thì các bé 

đều biết gọi và nhờ sự trợ  giúp của cô. “ Cô ơi , quần áo con ướt 
rồi, con thay đồ  nha cô ”. Điều này cũng đã thể  hiện rõ và có ý  
thức của trẻ về giữ gìn vệ sinh sạch sẽ cho bản chính bản thân . 
    Ở trẻ nhỏ luôn tìm tòi và khám phá những điều mới lạ. Hàng  
ngày trẻ được học tập và chơi rất nhiều loại đồ  dùng, đồ  chơi 
hay sau khi đi vệ sinh thì thường có rất nhiều vi khuẩn bám vào  
đôi tay và chân của trẻ rất nhiều. Điều đó làm cho trẻ rất dễ bị 
nhiễm  bệnh và lây  lan bệnh  rất nhanh. Chính  vì vậy mà  tôi 
thường xuyên dạy và cho trẻ rửa tay, chân trước khi ăn,  sau khi 
12


chơi và sau khi đi vệ  sinh xong bằng xà phòng để  đề  phòng vi 
khuẩn lây bệnh và giữ cho đôi tay của bé luôn được sạch sẽ. 

                                    ( hình ảnh bé rửa tay)
­     Có thể ở nhà, trẻ thường thấy khó chịu mỗi khi bố mẹ nhắc 

nhở  đi đánh răng súc miệng nhưng bố  mẹ  nhiều khi lại bận 
công việc và thường để trẻ thực hiện việc đánh răng một mình. 
Đó cũng chính là một trong những điều mà làm cho trẻ  không 
hứng thú với việc đánh răng. Nhưng khi  ở  lớp  được cô giáo 
hưỡng dẫn và học cách đánh răng để  giữ  cho răng miệng luôn 
được sạch, thơm và không bị sâu răng thì trẻ lại rất thích thú và 
hào hứng. Bởi vì  ở  trên lớp trẻ  được làm cùng cô và cùng các 
bạn nên càng làm cho trẻ thích thú hơn. 

                  ( hình ảnh bé đánh răng sau bữa ăn trưa)
d. Rèn luyện tính tự lập cho trẻ thông qua một số hoạt động trong ngày  
ở lớp.

13


Để  giúp trẻ  thực hiện được các thói quen tự  phục vụ  một cách 
phấn khởi và nhớ lâu tôi đã kết hợp lồng ghép những bài thơ, bài hát có 
ý nghĩa giáo dục giữ  gìn vệ  sinh để  trẻ  dễ  dàng thực hiện các kỹ  năng 
đó.
● VD: Trước giờ ăn tôi cho trẻ hát các bài hát hoặc đọc một số bài 
thơ: Rửa tay, rửa mặt, giờ ăn , giờ ngủ, giờ chơi…

                     Rửa tay

                 Rửa mặt

            Miếng xà phòng nho nhỏ

           Bàn tay nhỏ nhắn

            Em xát lên bàn tay

           Bé cầm chiếc khăn

            Nước máy đây trong vắt

           Rửa một bên mặt

            Em rửa đôi bàn tay

           Rồi đến bên kia


           Khăn mặt đây thơm phức

           Gấp chiếc khăn lại

            Em lau khô bàn tay

           Lau đến mũi miệng

            Đôi bàn tay be bé

           Khuôn mặt của bé

            Nay rửa sạch xinh xinh

           Xinh xinh lạ kì

            Tất cả lớp chúng mình

           Là nhờ bé đấy

            Cùng giơ tay vỗ vỗ.

           Chăm chỉ rửa mặt

14


Bài thơ “ Giờ ăn ”
Đến giờ ăn cơm
Vào bàn bạn nhé

Nào thìa bát dĩa
Xúc cho gọn gang
Chớ có vội vàng
Cơm rơi cơm vãi
      ­ Kỹ năng hỗ trợ người khác: Lấy, cất đồ dùng học tập, dọn dẹp đồ 
chơi phụ  cô, chuẩn bị  muỗng và khan bàn ăn, giường ngủ  cùng cô, lấy 
ly nước uống khi được nhờ, xách phụ đồ, tưới cây….
 

                  ( Hình ảnh bé phơi khăn giúp cô )

15


            
( Hình ảnh trẻ nhặt lá vàng rơi trong sân trường giúp các cô lao công )
       Khi trẻ có nguyện vọng tự  lập, mong muốn được làm việc có khi 
còn tỏ  ra bướng bỉnh. Những lúc đó tôi rất thông cảm và hiểu được 
“bướng bỉnh”  ở  lứa tuổi này và không kìm hãm ý muốn tự  lập của trẻ.  
Khi trẻ  thực hiện công việc đó mất rất nhiều thời gian, không theo  
mong muốn của tôi, đôi khi còn bừa bãi thậm chí còn hỏng việc. Song tôi 
vẫn luôn tạo điều kiện để trẻ tự làm, tự trải nghiệm công việc.
       VD: Như lớp tôi có một số trẻ rất thích giúp cô chia thìa vào khay và 
đặt vào các bàn, nhưng loay hoay mãi không biết chia như  thế  nào, có 
khi còn chia thiếu, rồi làm rơi hết thìa xuống sàn. Mỗi lần như  vậy tôi 
không tỏ ra khó chịu mà nhẹ nhàng đến bên trẻ dẫn trẻ vào từng bàn làm 
mẫu cách đếm bạn trong bàn và chia thìa tương  ứng với số  bạn trong 
bàn đó, sau đó tôi cho trẻ chia tiếp các bàn tiếp theo. Sau mỗi lần được 
tôi hướng dẫn động viên trẻ  của tôi giờ  làm rất thành thạo và trẻ  nào 
cũng muốn được giúp cô.

 
( Hình ảnh bé xếp muỗng, bỏ khan vào bàn ăn giúp cô )
       Được tự tay làm những công việc mình thích tôi thấy trẻ rất phấn  
khởi, có thể lần đầu trẻ làm rất lâu mới song, nhưng các lần sau đó tôi 
thấy các thao tác của trẻ thành thạo rất nhiều, trẻ mạnh dạn tự tin hơn. 
Qua đó những kiến thức tự  trải nghiệm của trẻ  sẽ  được mở  rộng và 
khắc sâu hơn rất nhiều.  
Tính tự  lập của trẻ  được trải nghiệm trong các hoạt động, trong 
sinh hoạt hàng ngày ở gia đình và nhà trường. Đối với trẻ lên ba đã bắt  
đầu có khả năng làm một số việc đơn giản, trẻ đã có ý thức về điều đó  
và luôn chứng tỏ  khả  năng của mình trong sinh hoạt hàng ngày. Trong  
giờ học đối với các hoạt động cần đến đồ dùng của trẻ, tôi chỉ chuẩn bị 
đồ dùng đặt sẵn trên bàn sau đó cho trẻ tự lên lấy đồ dùng học tập về vị 
16


trí ngồi của mình, kết thúc tiết học cũng vậy tôi cho trẻ tự cất đồ dùng 
học tập đúng nơi qui định.
● VD: Trong giờ học toán tôi đã chuẩn bị rổ đồ dùng và bảng trắng cho 
mỗi trẻ nhưng tôi đặt chung vào một bàn, tôi cho mỗi trẻ lên lấy một rổ 
và một bảng về chỗ của mình để học. Sau khi học xong tôi cũng cho trẻ 
cất đồ dùng về đúng vị trí. Hay trong giờ học tạo hình cần đến hộp màu  
tôi thường nhờ trẻ chuẩn bị bàn học và hộp màu cho các bạn.
          Được tự  lấy đồ  dùng học tập như  vậy tôi thấy trẻ  rất tích cực, 
hứng thú học và luôn muốn khám phá xem mình được học gì  ở  các đồ 
dùng đó, giờ học nào của lớp tôi đều thấy trẻ hứng thú từ  đầu giờ  học 
đến cuối giờ  học. Qua đó tôi còn rèn luyện cho trẻ  thói quen gọn gàng  
ngăn nắp, lấy đâu cất đấy.
Là một giáo viên mầm non chắc hẳn ai cũng biết mỗi khi đến giờ 
hoạt động  góc và hoạt động ngoài trời trẻ đều tỏ ra rất thích thú, phấn 

khởi, mong chờ  nhất. Không những vậy hoạt  động vui chơi là hoạt 
động quan trọng nhất nó giữ  vai trò chủ  đạo  ở  lứa tuổi này, qua hoạt 
động này làm biến đổi về chất trong toàn bộ đời sống tâm lý của trẻ. Vì 
vậy đối với trẻ   ở  lứa tuổi này, đồ  vật không phải là thứ  để  trẻ  nghịch  
như  trước đây mà bây giờ  qua chơi với đồ  vật, đồ  chơi giúp trẻ  khám 
phá chức năng và phương thức sử dụng tương ứng (như cái thìa dùng để 
xúc cơm ăn và có cách cầm thìa nhất định…) Chính vì vậy tôi rất chú  
trọng việc tạo điều kiện cho trẻ được chơi với đồ vật, đồ  chơi và chơi 
với bạn bè. 
Ngoài ra trong quá trình chơi với đồ  vật trẻ còn bắt chước thao tác của  
người lớn. Trò chơi phân vai chính là một hoạt động phản ánh thực 
cuộc sống xã hội thu nhỏ. Khi tham gia chơi thì trẻ  được đứng  ở  vị  trí 
chủ  thể  của hành động chơi, trẻ  có thể  được tự  mình quyết định làm 
lấy những gì mà mình thích chứ  không phải là những gì người khác ép 
buộc. Vì vậy, trong khi chơi xuất hiện  ở  trẻ  sự  tích cực tự  nguyện. 
Hoạt động vui chơi đối với trẻ là hoạt động để rèn luyện các chức năng  
tâm lý, sinh lý. Chơi là để phát triển các mặt thể chất và tinh thấn. Chơi 
17


là để học hỏi làm người là để  phát triển nhân cách một cách toàn diện. 
Với   những   ý   nghĩ   to   lớn   đó,   có   thể   khẳng   định   rằng:   Chơi   cũng   lá  
cách để  rèn luyện và phát huy khả  năng tự  lập. Hơn bất cứ  hoạt động  
nào, trong trò chơi, trẻ  được thể  hiện khả  năng tự  lập của mình. Trẻ 
luôn luôn mong muốn mình được tự  giải quyết lấy mọi tình huống, 
chúng có xu hướng tự  hoạt động mà không cần sự  giúp đỡ  của ai. Trẻ 
có thể tự tiến hành trò chơi và chơi một cách vui vẻ, hăng say, thích thú.
VD:    Trong hoạt động góc có rất nhiều góc chơi, trong mỗi góc lại có 
nhiều nhóm chơi nhỏ. Khi cô giới thiệu các góc chơi, nhiệm vụ  của 
từng vai chơi, trẻ bắt đầu tự chọn hoạt động của mình. Có trẻ chọn góc  

phân vai, có trẻ chọn góc xây dựng…Lần đầu tiên cháu được đóng làm 
chú công nhân, được đóng vai bố, mẹ, vai y tá, bác sĩ,…Làm chú công 
nhân phải xây nhà, xây hàng rào và xây nhiều công trình khác. Khi đó trẻ 
sẽ nghĩ ra cách làm cho đẹp, cho nhanh. Được đóng vai bố, mẹ trẻ sẽ tự 
làm công việc của bố là đi làm hoặc là làm công nhân hoặc là một nông  
dân chăm sóc cây trong vườn hoặc đưa trẻ  đi học, đi chơi công viên…  
làm mẹ là biết bế em, cho bé ăn, quét dọn nhà cửa,nấu cơm… Làm y tá, 
bác sĩ trẻ sẽ   khám bệnh, kê đơn thuốc, tiêm thuốc… Khi trẻ hoạt động 
cô giáo tạo tình huống để  trẻ  giải quyết. Đồng thời gợi ý, hướng dẫn 
thêm để mở rộng vốn hiểu biết cho trẻ trong lúc chơi.
     Từ những giai đoạn sau khi tổ chức cho trẻ chơi tôi không can thiệp 
quá sâu vào trò chơi của trẻ  để  trẻ  bộc lộ  khả  năng tự  lập của mình.  
Khi trẻ tự chơi với các đồ chơi thì trẻ cũng lĩnh hội được những qui tắc  
hành vi ứng xử trong xã hội ẩn chứa trong quá trình hành động đó. Từ đó 
trẻ học được cách tự  lập trong các thao tác hành động với đồ  vật, giúp 
trẻ tự tin, tự lập hơn trong sống. 

18


 e) Giáo dục, rèn luyện tính tự lập cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi
      Phần lớn trẻ 3 tuổi tính tự lập đã phát triển. Trẻ thường thích tự làm 
mọi việc, Tuy nhiên các thao tác còn vụng về, lúng túng dễ  làm hỏng 
việc, cần phải có sự  hướng dẫn trẻ  trong công việc để  trẻ  làm đúng 
theo yêu cầu của người lớn. Bản thân người lớn cần tạo điều kiện trẻ 
hoạt động một cách tự  lập tức là tạo cho trẻ  tự  tin thực hiện. Trẻ làm 
sai người lớn chỉ dẫn trẻ làm lại thì sẽ được, có như vậy trẻ mới được  
trải nghiệm công việc mình làm nó khó và dễ như thế nào. Người lớn ở 
đây là cô giáo, là cha mẹ và những người thân trong gia đình gần gũi với 
trẻ. Cô giáo có thể giúp đỡ bằng các câu hỏi gợi ý, khuyến khích trẻ tích 

cực hoạt động và sử  dụng những kinh nghiệm sẵn có của mình vào 
trong quá trình hoạt động. Việc làm này được lặp đi, lặp lại trong ngày, 
dần dần khả năng tự lập của trẻ càng phát triển. 
        Chính vì vậy tôi đặc biệt chú trọng đến rèn trẻ kỹ năng lao động tự 
phục vụ, kỹ  năng vệ  sinh môi trường thông qua hai buổi tổ  chức hoạt  
động trong tháng. Hàng ngày tôi thường chú trọng dạy trẻ những hành vi 
văn hóa trong ăn uống qua đó rèn kỹ  năng lao động tự  phục vụ  và kỹ 
năng giúp đỡ người khác như: Biết rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ  ăn 
uống tại bàn, biết cách sử dụng những đồ dùng vật dụng trong ăn uống 
một cách đúng đắn, biết mời trước khi ăn, ăn uống gọn gàng, không rơi  
vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, ăn 
hết suất …hoặc biết giúp cô giáo dọn dẹp, xếp đồ  dùng đồ  chơi đúng 
chỗ, ngồi ngay ngắn không làm ảnh hưởng đến người khác.... Khi ra sân 
trong giờ  lao động phải biết nhặt rác bỏ  vào thùng, tưới cây, nhặt cỏ,  
lau lá cây,.... Khi thực hiện các hoạt động này tôi cùng làm với trẻ và tôi  
thường giải thích cho trẻ hiểu ý nghĩa tác dụng của từng hoạt động. Từ 
đó trẻ  sẽ  hiểu và học tập theo cô, dần dần hoạt động có ý thức đó sẽ 
trở thành kỹ năng giúp trẻ thực hiện hoạt động một cách tự nguyện mà 
không có cảm giác ép buộc sai khiến. Trẻ  còn cảm thấy vui vì đã làm  
được một việc nên làm giống như lời cô dạy. 
19


       Trong quá trình trẻ thực hiện cô cùng làm với trẻ nhưng vẫn phải  
theo dõi, giám sát và cho trẻ tự giải quyết một số tình huống xảy ra như: 
có vài bạn không tự  giác lao động, vứt rác không đúng nơi, thao tác vệ 
sinh không gọn gàng…Cô gợi ý cho trẻ giải quyết bằng cách nhắc nhở 
lẫn nhau nhưng tuyệt đối tránh tình trạng “Thủ  lĩnh”. Nếu được bạn  
góp ý mà trẻ không xoay chuyển thì cô mới giải quyết. Từ đó hình thành 
cho trẻ bản lĩnh, sự linh hoạt giải quyết các tình huống xảy ra.

g.Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ  huynh cùng giáo dục tính tự  
lập cho trẻ.
          Như chúng ta đã biết thời gian trẻ đến trường nhiều hơn rất nhiều  
so với thời gian  ở  nhà. Những bài học trẻ  được học  ở  trường giúp trẻ 
phát triển đúng yêu cầu ở độ tuổi, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện 
cả  về  thể  chất lẫn tinh thần và nhận thức, giúp trẻ  tự  tin, mạnh dạn,  
tích cực và chủ động khi tham gia các hoạt động cùng cô và bạn.
     Tuy nhiên để công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở trường đạt kết quả tốt 
nhất thì cần phải có sự  phối hợp giữa nhà trường và gia đình. tránh  
trường hợp cô giáo ở lớp thì giáo dục trẻ tính tự lập, còn về nhà cha mẹ 
lại luôn làm giúp trẻ  mọi việc. Chính vì không muốn tình trạng đó xảy  
ra nên tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh trong những giờ đón trả 
trẻ, trong các buổi họp phụ huynh về mọi vấn đề có liên quan đến trẻ ở 
trường và đặc biệt là giáo dục tính tự  lập cho trẻ. Bởi không phải phụ 
huynh nào cũng có nhận thức đúng đắn về vấn đề đó. 
    Tôi luôn tuyên truyền với phụ huynh hiểu thế nào là cho trẻ tự lập, tự 
phục vụ và làm những việc trong khả năng của trẻ, bố mẹ chỉ là người 
làm mẫu và hướng dẫn trẻ  làm không nên làm giúp trẻ, hay khi trẻ  đã 
biết làm rồi thì người lớn nên khuyên khích động viên trẻ, cho trẻ  rèn  
luyện tính tự lập đó nhiều lần để  trở  thành các kỹ  năng cần thiết trong  
cuộc sống của trẻ.
●  VD: Tôi thấy một số trẻ lớp tôi rất được bố  mẹ  nuông chiều không  
bao giờ  tự  làm một việc gì, đến lớp thì đợi cô và bạn làm giúp. Tôi đã 
trò chuyện với phụ huynh để  họ nắm bắt được tình hình của con mình  
20


và tôi tuyên truyền cho họ các phương pháp về giáo dục tính tự lập cho 
trẻ  ngay từ  nhỏ  để  phụ  huynh có thể  áp dụng tại gia đình. Tôi có thể 
gợi ý cho họ  về  cách giáo dục trẻ  tự  lập “Anh chị  cứ  để  trẻ  tự  đi lên  

cầu thang mỗi khi tới lớp vì mỗi ngày  ở  trường trẻ  phải tự  lên xuống 
cầu thang mấy lần mà, hay các bé tự  đi dép được đấy chị   ạ, chị  cứ  để 
bé tự lấy và tự đi thử xem….”
   Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát ý thức của trẻ trong các  
điều kiện và tình huống hàng ngày như  quan sát xem trẻ  có biết tự  đi 
rửa tay bằng xà phòng khi thấy tay bẩn chưa, hay sau khi đi vệ  sinh đã  
biết xả nước chưa, sau khi chơi xong có biết tự đi cất đồ chơi gọn gàng  
hay cần bố  mẹ  nhắc nhở, giúp đỡ, khi người lớn nhờ  trẻ  lấy giúp ly 
nước, bật ti vi, hay tắt quạt thì biểu hiện của trẻ ra sao. Trẻ có thích tự 
xúc cơm, tự  mặc chuẩn bị  quần áo khoác, khẩu trang khi đi ra đường  
hay không….để  từ  đó có những biện pháp rèn luyện và giáo dục trẻ 
thêm.

IV. Kết quả đạt được
       Giáo dục tính tự lập cho trẻ mầm non nhắm giúp trẻ phát huy khả 
năng tự lập, làm cơ sở cho sự hình thành nhân cách của trẻ sau này, trẻ 
biết được những điều nên làm và những điều không nên làm, giúp trẻ tự 
giác, tự tin thể hiện được khả năng, năng lực của mình.
Qua việc thực hiện những biện pháp trên, tôi đã đạt được một số  kết 
quả trong quá trình thực hiện giáo dục tính tự lập cho trẻ.

21


BẢNG TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ 
TRẺ
*Về phía trẻ: 
         Bằng các biện pháp khác nhau   trẻ  được thực hành, trải nghiệm,  
được tự  thỏa mãn nhu cầu tự  lập của trẻ  tôi thấy học sinh lớp tôi rất 
hứng thú tham gia các hoạt động của lớp.

­ Trẻ có thêm tự tin vào khả năng của bản thân.
­ Trẻ có ý thức, trách nhiệm hơn trước trong mọi hành vi, hành động của  
mình.
­ Trẻ  không còn  ỷ  lại vào người lớn, hiểu và biết rằng tự  làm những  
việc tự phục vụ bản thân, tự lập là một điều đáng khen.
­ Biết phối hợp với bạn, biết đoàn kết và giúp đỡ người khác.
 Sau khi thực hiện đề tài tôi đã có kết quả như sau:
Đạt

Chưa đạt

Nội 
dung

Đ ầ u 
năm

%

Cuối 
năm

%

Đ ầ u  %

Cuố %

năm



năm

Biết   tự   cất,   lấy  8
đồ   dùng   khi   đến 
lớp và ra về

32%

17

68%

Biết   tự   đi   giày,  5
dép 

20%

20

80%

22


Biết tự  đi vệ  sinh  9
khi có nhu cầu

36%


16

64%

Biết   bỏ   rác   đúng  13
nơi quy định

52%

12

48%

Biết   tự   cầm   thìa  7
xúc ăn

28%

18

72%

Biết   tự   đi   lấy   ca  10
uống nước và cất 
ca   đúng   nơi   quy 
định

40%

15


60%

Biết   tự   lau   mặt  3
khi bẩn

12%

33

88%

24%  

19

76%

24%

19

76%

12%

22

88%


Biết   tự   lấy,   cất 
đồ   dùng   đồ   chơi  6
đúng nơi quy định
Biết rửa tay trước 
khi   ăn,   sau   khi   đi  6
vệ  sinh và khi tay 
bẩn   bằng   xà 
phòng
Biết tự  đánh răng  3
sau khi ăn 

23


Biết   cởi   ,   mặc     7
quần áo

28%

18

72%

Biết tự  gấp – xếp  8
quần áo

32%

17


68%

24%

19

76%

12%

22

88%

Biết   phụ   giúp   cô 
những   công   việc  6
đơn giản
Trẻ tự tin làm một  3
số công việc

* Về phía giáo viên: 
      Sau khi thực hiện những biện pháp trên tôi thấy trẻ đã có tính tự lập, 
đã có những kỹ  năng cần thiết phù hợp với độ  tuổi. Trẻ  tự  tin, mạnh 
dạn khi tham gia các hoạt động giúp cho việc tổ  chức các hoạt động 
giáo dục của cô giáo đạt kết quả tốt.
*Về phía phụ huynh:
      Phụ huynh luôn hưởng ứng và thường xuyên trao đổi với cô giáo về 
những phương pháp để  cùng rèn tính tự  lập cho trẻ và rất tin tưởng cô 
giáo bởi họ nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của con mình.
       Một số  phụ  huynh trước đây thường chiều con, sẵn sàng làm hết  

mọi việc cho trẻ, không muốn con mình phải làm gì vì họ cho rằng con 
họ  còn nhỏ nay họ rất nhiệt tình phối hợp và yên tâm mỗi khi đưa con  
tới lớp. Có phụ  huynh còn đến nói với chúng tôi “Chị  ơi em không ngờ  
con em lại làm được nhiều việc thế, mới lên ba mà gấp quần áo khéo  
ghê mà còn biết cất đúng ngăn tủ  của từng người chị   ạ, còn các phụ  
24


huynh khác thì nói về  nhà con nhà em cứ  đòi mẹ  phải cho con tự  xúc  
cơm, cô giáo con bảo thế mới là bé ngoan”.

PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN BÀI HỌC KINH 
NGHIỆM
I. KẾT LUẬN:
Giáo dục kỹ  năng tự  lập, tự  phục vụ  cho trẻ  mầm non nói chung 
và lứa tuổi mẫu giáo bé nói riêng là vô cùng quan trọng trong việc hình  
thành nhân cách con người. Mỗi giáo viên chúng ta cần có kế  hạch rõ  
ràng, cụ  thể, chi tiết cho mọi hoạt động trong ngày. Từ  đó mỗi một 
hoạt động lại cung cấp cho trẻ  những trải nghiệm khác nhau nhưng  
mục đích cuối cùng vẫn là giáo dục kỹ năng tụ lập, tự phục vụ cho trẻ. 
        Tính tự lập, tự phục vụ là một đức tính rất cần thiết cho trẻ vì nhờ 
có tính tự  lập mà trẻ  có thể  phát huy những tiềm năng  ẩn giấu, trẻ  sẽ 
trưởng thành hơn và đặc biệt cha mẹ sẽ giảm bớt lo lắng hơn. Đơn cử 
như khi trẻ chơi trong góc phân vai, đó là một xã hội được thu nhỏ, mà 
hàng ngày trẻ  đã tái hiện lại và đây chính là một cơ  hội lớn cho tất cả 
chúng ta có cơ hội để giáo dục cho trẻ kỹ năng tự lập thông qua các vai 
chơi.
        Từ nhiều khía cạnh khác nhau tôi nghĩ rằng: Điều kiện cần và đủ 
cho việc giáo dục kỹ năng tự  lập, tự phục vụ đó là: Hiểu ­ rèn luyện ­ 
tin tưởng – động viên khen ngợi và giám sát. Có như vậy mới giúp trẻ có  

kỹ năng tốt, đúng đắn và tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện về nhân 
cách cho trẻ, để giúp trẻ chở thành người hữu ích cho gia đình và xã hội. 

25


×