Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tỷ lệ sa sút trí tuệ và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi tại thành phố Quy Nhơn tỉnh Bình Định năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.77 KB, 7 trang )

2017

JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE

TỶ LỆ SA SÚT TRÍ TUỆ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở
NGƯỜI CAO TUỔI TẠI THÀNH PHỐ QUY NHƠN TỈNH
BÌNH ĐỊNH NĂM 2015
Trần Kỳ Hậu1, Đoàn Vương Diễm Khánh2

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sa sút trí tuệ (SSTT) là một trong những
nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật và tình trạng lệ thuộc ở
người cao tuổi. Ở Việt Nam có rất ít nghiên cứu về tỷ lệ hiện
mắc và các yếu tố liên quan SSTT.
Mục tiêu nghiên cứu: (1) Xác định tỷ lệ hiện mắc SSTT
ở người từ 65 tuổi trở lên tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh
Bình Định. (2) Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến SSTT ở
đối tượng nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu
được tiến hành trên 2.359 người từ 65 tuổi trở lên có hộ khẩu
thường trú tại thành phố Quy Nhơn. Chẩn đoán SSTT được
thực hiện qua hai giai đoạn: giai đoạn sàng lọc bằng cách sử
dụng MMSE test ( MMSE (+) khi số điểm <24), giai đoạn
chẩn đoán sử dụng tiêu chuẩn chẩn đoán SSTT của ICD 10.
Phân tích hồi qui đa biến logistics được sử dụng để kiểm định
các yếu tố liên quan đến SSTT. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ
MMSE (+) là 21,4%. Tỷ lệ SSTT chung là 7,1% . Tỷ lệ hiện
mắc SSTT dao động từ 2,3% ở nhóm 65-69 tuổi đến 28,4% ở
nhóm 90 tuổi trở lên. Các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống
kê đến SSTT: tuổi, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, trình
độ học vấn, tiền sử tai biến mạch máu não, thói quen hoạt
động thể lực.


Kết luận: Trong số đối tượng nghiên cứu, SSTT là phổ
biến. Chương trình chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi
nhằm phát hiện sớm, điều trị thích hợp bệnh SSTT là rất cần
thiết hiện nay.
Từ khóa: SSTT, tỷ lệ hiện mắc, yếu tố liên quan, người
cao tuổi.
ABSTRACT:
PREVALENCE OF DEMENTIA AND ASSOCIATED
FACTORS AMONG THE ELDERLY IN QUI NHON
CITY, BINH DINH PROVINCE, VIETNAM

Background: Dementia is one of the major causes of
disability and dependency among older people. There are
very few research on the prevalence of dementia and its
related factors in Vietnam. The objectives of this study were
to examine the prevalence of dementia among people aged
65 years and over in Qui Nhon city, Binh Dinh province
of Vietnam and to examine associated factors of dementia
among participants.
Methods: A randomly selected sample of 2359 people
aged 65 years and over living in Qui Nhon city, Binh
Dinh province of Vietnam were interviewed and examined.
MMSE test (Mini Mental Status Examination) was used
as a screening instrument for dementia. Individuals with a
MMSE positive (score <24) were examined for diagnosis
of dementia using ICD-10 criteria. Multilogistic regression
was undertaken for exploring associated factors of dementia
Results: Prevalence of MMSE (+) was 21.4%. The
overall prevalence estimates for dementia was 7.1% (n=85).
This prevalence ranged from 2.3% among people aged 65-69

years to 28.4% among those aged ≥ 90 years. Age, marital
status, occupation, education level, medical history of stroke
and physical activity were significantly associated with
dementia.
Conclusion: In this population, dementia is common.
Mental health care delivery for people living with dementia
is urgently needed for the elderly in Vietnam.
Key words: Dementia, prevalence, related factors, the
elderly
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
SSTT là hội chứng suy giảm chức năng nhận thức mắc
phải kèm theo những thay đổi về hành vi và mất chức năng
xã hội. Giảm trí nhớ là biểu hiện quan trọng nhất, ngoài ra

1. Trung tâm Y tế thành phố Quy Nhơn
2. Khoa YTCC, Trường Đại học Y Dược Huế
Ngày nhận bài: 01/02/2017

Ngày phản biện: 14/02/2017

Ngày duyệt đăng: 20/02/2017
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn

141


VIỆN

S


EC
KHỎ ỘNG
G
ỒN
Đ

ỨC

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
các lĩnh vực khác cũng bị rối loạn như mất ngôn ngữ, mất
sử dụng động tác, mất nhận biết đồ vật, chức năng nhiệm
vụ... SSTT gây ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày, hoạt
động nghề nghiệp và sự hòa nhập xã hội. Bệnh không những
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cuộc sống của
người bệnh mà còn là gánh nặng cho gia đình, cộng đồng và
xã hội [5].
Theo Tổ chức Y tế thế giới, đến năm 2050 ước tính dân
số trên 60 tuổi là 2 tỷ người. Tác động tiêu cực rõ rệt của già
hóa dân số là gia tăng số người SSTT. Dù SSTT ảnh hưởng
chủ yếu đến người già, nhưng nó không phải là điều bình
thường của sự lão hóa. Theo các ước tính khác nhau, khoảng
2-10% số người bị SSTT khởi phát trước tuổi 65. Tỷ lệ mắc
tăng gấp đôi mỗi 5 năm sau tuổi 65. Trên toàn cầu, số người
SSTT là khoảng 35,6 triệu, nghiên cứu dịch tễ học cho thấy
con số này tăng lên rất đáng báo động. [9].
Ở Việt Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu về
SSTT. Nghiên cứu này được thực hiệnvới mục tiêu: (1) Xác
định tỷ lệ hiện mắc và những đặc điểm SSTT ở người từ 65
tuổi trở lên tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. (2) Tìm

hiểu một số yếu tố liên quan đến SSTT ở đối tượng nghiên
cứu.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu: Người từ 65
tuổi trở lên có hộ khẩu thường trú tại thành phố Quy Nhơn,
tỉnh Bình Định. Thời gian: Từ tháng 01/2015 đến tháng 6/
2015.
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang
Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu: Chọn mẫu chùm nhiều

giai đoạn. Giai đoạn 1: Chọn ngẫu nhiên 3 phường thuộc
nội thành và 1 phường/ xã ngoại thành và 1 xã đảo-bán đảo
trong số 21 phường/ xã của thành phố Quy Nhơn. Giai đoạn
2: 5 phường, xã được chọn có tổng cộng 58 cụm, chọn ngẫu
nhiên 30 cụm sau đó lập danh sách người cao tuổi từ 65 tuổi
trở lên với số lượng là 4.244. Chọn ngẫu nhiên 2.359 đối
tượng vào mẫu nghiên cứu .
Phương pháp thu thập số liệu: Phỏng vấn mặt đối mặt
với đối tượng và người thân tại hộ gia đình qua 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1: Phỏng vấn, thu thập thông tin và sàng lọc đối
tượng với trắc nghiệm tâm lý thu gọn MMSE (Mini Mental
Status Examination). MMSE là được áp dụng rộng rãi ở Việt
nam và trên thế giới, có điểm từ 0 đến 30 điểm. Những đối
tượng thực hiện được trắc nghiệm MMSE có điểm dưới 24
sẽ được làm chẩn đoán SSTT trong giai đoạn 2. Giai đoạn 2:
Chẩn đoán xác định. Đối tượng có điểm MMSE dưới 24 và
các đối tượng không làm test MMSE được hoặc làm không
đầy đủ (bị khiếm khuyết các chức năng thị giác, thính giác,
mù chữ) cũng được làm bệnh án, chẩn đoán SSTT theo Tiêu
chuẩn chẩn đoán dành cho nghiên cứu ICD-10 của Tổ chức

Y tế thế giới[8].
Phương pháp phân tích và xử lý số liệu: Xử lý số liệu
bằng phần mềm SPSS 16.0. Sử dụng mô hình hồi qui đa biến
logistic để kiểm định các yếu tố liên quan đến SSTT.
III. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu: Tuổi trung bình:
74,9. Tuổi nhỏ nhất: 65; tuổi lớn nhất: 104. Bảng 3.1mô tả
một số đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu.

Bảng 3. 1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
Nhóm tuổi
Từ 65-69
Từ 70-74
Từ 75-79
Từ 80-84
Từ 85-89
90 +
Giới tính
Nam
Nữ
Dân tộc
Kinh
Dân tộc khác
Tôn giáo

142

Số lượng


%

703
509
483
377
206
81

29,8
21,6
20,5
16,0
8,7
3,4

918
1.441

38,9
61,1

2.352
7

SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn

99,7
0,3


Đặc điểm
Trình độ học vấn
Mù chữ
Biết đọc biết viết
Tiểu học
THCS
THPT
Trên THPT
Nghề nghiệp
Nông
Buôn bán

Số lượng

%

190
750
497
397
240
285

8,1
31,8
21,1
16,8
10,2
12,1


392
587

16,6
24,9

Công nhân

219

9,3

Cán bộ, viên chức
Ngư nghiệp
Nội trợ

585
140
337

24,8
5,9
14,3


2017

JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE


Đặc điểm
Lương
Phật giáo
Thiên chúa giáo

Số lượng
1.320
899
62

%
56,0
38,1
2,6

Tôn giáo khác

78

3,3

Tình trạng hôn nhân
Chưa kết hôn
20
Kết hôn
1.390
Ly dị, ly thân
11
Góa
938

Khác

99

0,8
58,9
0,5
39,8
4,2

Đặc điểm
Hoàn cảnh sống
Sống một mình
Sống cùng vợ/chồng
Sống với gia đình
người thân
Kinh tế gia đình
Nghèo, cận nghèo
Trung bình
Khá
Giàu

3.2. Tỷ lệ hiện mắc SSTT:
Tỷ lệ suy giảm nhận thức theo thang điểm MMSE
(MMSE< 24 điểm): 21,4%.
Đối tượng có điểm MMSE < 24 hoặc không làm trắc
nghiệm MMSE được được làm bệnh án chẩn đoán theo tiêu
chuẩn chẩn đoán dành cho nghiên cứu của Tổ chức Y tế thế
giới ICD-10.
Bảng 3.2. Tỷ lệ hiện mắc SSTT theo tiêu chuẩn chẩn

đoán của ICD-10
Hiện mắc sa sút trí tuệ

Không
Tổng

Số lượng
168
2.191
2.359

%
7,1
92,9
100,0

Số lượng

%

154
817

6,5
34,6

1.388

58,9


216
1.742
380
21

9,2
73,8
16,1
0,9

Số đối tượng được chẩn đoán SSTT là 168 chiếm tỷ lệ
7,1% trong tổng số 2.359 đối tượng nghiên cứu. Tuổi mắc
bệnh trung bình: 76,4 (độ lệch chuẩn 9,9). Triệu chứng đầu
tiên là suy giảm trí nhớ chiếm đa số (96,4%). Trong số 168
đối tượng bị SSTT, chỉ có 20 trường hợp đã từng được chẩn
đoán SSTT, chiếm tỷ lệ 11,9%. Trong đó, có đến 12 đối
tượng không được điều trị (60%).
3.3. Các yếu tố liên quan đến SSTT
Phân tích đơn biến cho thấy các yếu tố liên quan có ý
nghĩa thống kê (p<0,05) với SSTT bao gồm: giới tính, tuổi,
tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, nghề nghiệp chính
trước đây, tình trạng sống, loại nhà ở, kinh tế gia đình, tiền sử
rối loạn lipid máu, tiền sử tai biến mạch máu não, thói quen
tập thể dục, thói quen giải trí, BMI (Bảng 3.3 và 3.4) .

Bảng 3.3. Liên quan giữa đặc điểm chung của đối tượng và SSTT
Hiện mắc SSTT
Tần số
%


Yếu tố liên quan
Giới tính***
Nam
Nữ
Nhóm tuổi***
65-69
70-74
75-79
80-84
86-89

Hiện mắc SSTT
Tần số
%

Yếu tố liên quan

45
123

4,9
8,5

16
25
33
39
32

2,3

4,9
6,8
10,3
15,5

Loại nhà ở***
Nhà hộp
Nhà có chỗ trồng cây cảnh
Nhà có vườn cây
Loại nhà khác
Nghề nghiệp chính trước đây***
Nông
Buôn bán
Công nhân

28,4
4,2
11,2

90+
23
Tình trạng hôn nhân***
Kết hôn
59
Khác
109

124
14
28

2

6,2
8,8
15,0
7,1

49
40
11

12,5
6,8
5,0

Cán bộ, viên chức

11

1,9

Ngư nghiệp
Nội trợ
Khác

8
38
11

5,7

11,3
11,1

SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn

143


VIỆN

S

EC
KHỎ ỘNG
G
ỒN
Đ

ỨC

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Hiện mắc SSTT
Tần số
%

Yếu tố liên quan
Trình độ học vấn***

Yếu tố liên quan


Hiện mắc SSTT
Tần số
%

Hoàn cảnh sống***

Mù chữ

45

23,7

Sống một mình

17

11,0

Biết đọc, biết viết

77

10,3

Sống cùng vợ/chồng

34

4,2


Tiểu học

22

4,4

Sống với gia đình người thân

117

8,4

Từ THCS trở lên

24

2,6

Chỉ số khối cơ thể***
Gầy

55

13,3

Kinh tế gia đình***
Nghèo, cận nghèo

25


11,6

Bình thường

89

6,5

Trung bình

129

7,4

Thừa cân, béo phì

24

4,1

Khá, giàu

14

3,5

***p<0,001
Bảng 3.4. Liên quan giữa tiền sử bệnh, thói quen hút thuốc lá, uống rượu bia, thói quen luyện tập thể lực,
thói quen giải trí và SSTT

Yếu tố liên quan

Hiện mắc SSTT
Tần số
%

Tiền sử tăng huyết áp

83
Không
85
Tiền sử đái tháo đường

14
Không
154
Tiền sử bệnh tim

32
Không
136
Tiền sử rối loạn lipid máu*

8
Không
160
Tiền sử tai biến mạch máu não***

33
Không

135
Tiền sử gia đình SSTT

7
Không
161
Thói quen hút thuốc lá

18
Không
150

7,4
6,9
6,3
7,2
6,5
7,3
3,4
7,5
25,6
6,1
9,2
7,1

Yếu tố liên quan
Thói quen uống rượu bia

Không
Thói quen tập thể lực***


Không
Mức độ tập thể lực***
Có tập thường xuyên
Không tập thường xuyên
Thói quen xem tivi***

Không
Thói quen nghe đài

Không
Thói quen chơi cờ, bài**

Không

Hiện mắc SSTT
Tần số
%
7
161

4,3
7,3

58
110

3,8
13,5


32
26

2,7
7,1

80
88

4,8
12,8

11
157

5,6
7,3

0
168

0,0
7,4

5,5
7,4

*p< 0,05, **p<0,01, ***p<0,001
Các biến số có ý nghĩa thống kê trong mô hình đơn biến
được đưa vào mô hình hồi qui đa biến logistic. Những biến


144

SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn

số có liên quan có ý nghĩa thống kê (p<0,05) trong mô hình
hồi qui đa biến logistic được trình bày trong Bảng 3.5.


2017

JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE

Bảng 3.5. Mô hình hồi quy đa biến logistic các yếu tố
liên quan đến SSTT
Yếu tố liên quan

OR

95% CI

p

Tuổi
65-69

1

70-74


1,5

0,8-3,0

>0,05

75-79

1,7

0,9-3,2

>0,05

80-84

2,4

1,3-4,4

<0,01

85-89

4,4

2,3-8,7

<0,001


90 trở lên

7,7

3,6-16,6

<0,001

1,1-3,0

<0,05

Tình trạng hôn nhân
Kết hôn

1

Khác

1,8

Nghề nghiệp chính trước đây
Cán bộ, viên chức

1

Buôn bán

2,2


0,9-5,2

>0,05

Công nhân

2,2

0,8-5,8

>0,05

Nghề nông

2,2

0,9-5,3

>0,05

Ngư nghiệp

2,3

0,7-7,0

>0,05

Nội trợ


3,2

1,3-8,0

<0,05

Khác

5,5

2,0-15,3

<0,01

Trình độ học vấn
THCS trở lên

1

Mù chữ

3,0

1,5-6,2

<0,01

Biết đọc biết viết


1,7

0,9-3,2

>0,05

Tiểu học

0,8

0,4-1,7

>0,05

3,8-10,6

<0,001

1,1-2,6

<0,05

Tiền sử tai biến mạch máu não
Không

1



6,3


Thói quen hoạt động thể lực


1

Không

1,7

Kết quả phân tích đa biến cho thấy các yếu tố có liên quan
có ý nghĩa thống kê (p<0,05) đến SSTT bao gồm: tuổi, tình
trạng hôn nhân, trình độ học vấn, nghề nghiệp chính trước đây,
tiền sử tai biến mạch máu não, thói quen hoạt động thể lực.
Nguy cơ mắc SSTT gia tăng rõ rệt theo sự gia tăng của tuổi,
tình trạng hôn nhân li dị, li thân, góa, độc thân, nghề nghiệp
nội trợ, trình độ học vấn thấp (mù chữ), người có tiền sử tai
biến mạch máu não, không có thói quen hoạt động thể lực.

IV. BÀN LUẬN
Tỷ lệ hiện mắc SSTT. Nghiên cứu này thực hiện trên tổng
số 2.359 đối tượng từ 65 tuổi trở lên. Tỷ lệ hiện mắc SSTT
là 7,1%. Theo các báo cáo của các nghiên cứu khác thì tỷ lệ
SSTT ở người 65 tuổi trở lên dao động từ 5-10% [3], [4]. Tuy
vậy việc so sánh tỷ lệ này với các nghiên cứu khác là rất khó
thực hiện. Sự khác biệt về tỷ lệ này có thể do nhiều yếu tố
như phương pháp nghiên cứu, phương pháp chọn mẫu, tiêu
chuẩn chẩn đoán và đặc biệt là cấu trúc tuổi của mẫu nghiên
cứu. Đa số các nghiên cứu không trình bày cấu trúc tuổi của
mẫu nghiên cứu, trong khi tỷ lệ SSTT tăng rõ rệt khi tuổi gia

tăng. Điều này khiến cho việc so sánh tỷ lệ mắc SSTT chung
cho các nghiên cứu là rất khó chính xác.
Theo kết quả nghiên cứu, trong số 168 đối tượng bị
SSTT, chỉ có 20 trường hợp đã từng được chẩn đoán SSTT,
chiếm tỷ lệ 11,9 %; trong đó chỉ có 40% trường hợp được
điều trị. Tỷ lệ này rất thấp so với nhu cầu được chẩn đoán và
điều trị sớm của bệnh nhân SSTT.
Các yếu tố liên quan đến SSTT.
Phân tích đơn biến cho thấy: Tuổi và SSTT: Tỷ lệ hiện
mắc SSTT tăng dần theo nhóm tuổi, nhóm 65-69 tuổi tỷ lệ
này là 2,3%; nhóm 70-74 tuổi là 4,9%; cao nhất ở nhóm từ 90
tuổi trở lên (28,4%). Điều này phù hợp với nhiều nghiên cứu
trên thế giới và Việt Nam [1], [3], [4]. Giới và SSTT: tỷ lệ
hiện mắc SSTT ở nữ là 8,5%, cao hơn ở nam (4,9%). Kết quả
này tương tự như kết quả của các nghiên cứu trước đây [1],
[4]. Trình độ học vấn và SSTT: Tỷ lệ hiện mắc SSTT theo
trình độ học vấn: nhóm mù chữ cao nhất (23,7%); tiếp đến là
nhóm biết đọc, viết (10,3%); tiểu học (4,4%); nhóm có trình
độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên là thấp nhất (2,6%).
Nghề nghiệp và SSTT: nhóm nghề nông và nội trợ có tỷ lệ
SSTT cao nhất (12,5% và 11,3%). Một nghiên cứu tại Huế
cho thấy nhóm buôn bán, nghề nông, nội trợ hoặc thất nghiệp
có tỷ lệ SSTT cao nhất[1] – đây là những nghề nghiệp lao
động giản đơn. Nhóm cán bộ, viên chức có tỷ lệ SSTT thấp
nhất (1,9%). Tình trạng hôn nhân và SSTT: Kết quả nghiên
cứu của chúng tôi, tỷ lệ hiện mắc SSTT trong nhóm kết hôn
(4,2%) thấp hơn nhóm còn lại (chưa kết hôn; ly dị, ly thân;
góa) (11,2%). Hoàn cảnh sống và SSTT: Nhóm đối tượng
sống cùng vợ/chồng có tỷ lệ SSTT thấp nhất (4,2%), nhóm
đối tượng sống một mình có tỷ lệ SSTT cao nhất (11,0%).

Tuy vậy, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê trong
mô hình hồi qui đa biến với p > 0,05. Loại nhà ở: Theo loại
nhà đối tượng đang ở, nhóm ở nhà vườn có tỷ lệ SSTT cao
nhất (15,0%); ở nhà hộp có tỷ lệ SSTT thấp nhất (6,2%).
Tuy vậy, sự khác biệt này cũng không có ý nghĩa thống kê
trong mô hình hồi qui đa biến với p > 0,05. Hai yếu tố trên,
sống với với vợ chồng, người thân, sống trong nhà hộp, đối
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn

145


VIỆN

S

EC
KHỎ ỘNG
G
ỒN
Đ

ỨC

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
tượng có điều kiện giao tiếp với người khác nhiều hơn, nên
cũng có thể đây là yếu tố tích cực làm giảm nguy cơ mắc
SSTT. Kinh tế gia đình: Trong nghiên cứu, theo tự đánh giá
hoàn cảnh kinh tế gia đình, nhóm có kinh tế nghèo, cận

nghèo có tỷ lệ SSTT cao nhất (11,6%); thấp nhất là nhóm có
kinh tế khá, giàu (3,5%). Tuy vậy, sự khác biệt này không
có ý nghĩa thống kê trong mô hình hồi qui đa biến với p >
0,05. Nghiên cứu của Pembe Keskikoglu ở Izmir Thổ Nhĩ
Kỳ (2003) thì nhóm có thu nhập thấp hơn (27,0%) mắc SSTT
cao hơn nhóm có thu nhập cao hơn (12,7%)[4]. Tiền sử bệnh
và SSTT: Tiền sử tăng huyết áp, bệnh tim, đái tháo đường:
Nghiên cứu của chúng tôi không tìm thấy có mối liên quan
có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ SSTT giữa nhóm có tiền sử
tăng huyết áp (7,4%) và nhóm không có tiền sử tăng huyết
áp (6,9%) (p > 0,05); nhóm có tiền sử bệnh tim (6,5%) và
nhóm không có tiền sử bệnh tim (7,3%) (p > 0,05); nhóm
có tiền sử đái tháo đường (6,3%) và nhóm không có tiền
sử đái tháo đường (7,2%) (p > 0,05). Kết quả cũng phù hợp
với nghiên cứu của Lê Văn Tuấn tại Hà nội: tỷ lệ mắc SSTT
ở nhóm có tiền sử tăng huyết áp và nhóm không có tiền sử
tăng huyết áp chênh lệch không đáng kể[2]. Tiền sử rối loạn
lipid máu: Nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ SSTT giữa nhóm
có tiền sử rối loạn lipid máu (3,4%) thấp hơn nhóm không
có tiền sử rối loạn lipid máu (7,5%). Tuy vậy, sự khác biệt
này không có ý nghĩa thống kê trong mô hình hồi qui đa
biến với p > 0,05. Tiền sử gia đình có người SSTT: Nghiên
cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ SSTT giữa nhóm ngươi có
tiền sử gia đình có người SSTT cao hơn nhóm không có tiền
sử gia đình về SSTT (9,2% so với 7,1%). Tuy vậy sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Kết quả này
có thể lý giải phần nào do hiện nay số người được khám và
chẩn đoán SSTT còn rất ít nên có thể yếu tố tiền sử gia đình
không khai thác được chính xác đầy đủ thông tin và làm cho
sự khác biệt giữa 2 nhóm là không đáng kể, không có ý

nghĩa thống kê. Tiền sử tai biến mạch máu não: Trong nghiên
cứu, nhóm có tiền sử tai biến mạch máu não có tỷ lệ SSTT
rất cao (25,6%) so với nhóm không có tai biến mạch máu
não (6,1%) (p < 0,001). Nhiều nghiên cứu trước đây trên thế
giới và Việt Nam đã cho thấy tai biến mạch máu não là yếu
tố nguy cơ gây SSTT [1], [6], [7]. Thói quen hoạt động thể
lực: nhóm có tập luyện thể lực có tỷ lệ SSTT (3,8%) thấp hơn
hẳn nhóm không tập (13,5%) (p < 0,05 trong mô hình hồi qui
đa biến). Kết quả này cũng phù hợp với nhiều nghiên cứu
của các tác giả khác. Đối tượng có tập thường xuyên hàng
tuần có tỷ lệ hiện mắc SSTT 2,7% thấp hơn nhóm không
tập thường xuyên (7,1%) (p < 0,001). Thói quen uống rượu
bia, hút thuốc lá và SSTT: Nhóm có uống rượu bia có tỷ lệ
SSTT (4,3%) thấp hơn nhóm không uống rượu bia (7,3%).

146

SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn

Tuy nhiên, sự khác biêt này không có ý nghĩa thống kê (P
> 0,05). Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê được tìm
thấy về tỷ lệ SSTT của nhóm đối tượng hút thuốc lá (5,5%)
và nhóm không hút thuốc lá (7,4%) (P > 0,05). Thói quen
giải trí và SSTT: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
nhóm có các thói quen giải trí như xem tivi, chơi cờ, bài, có
tỷ lệ SSTT thấp hơn nhóm không có thói quen này. Tuy vậy,
sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê trong mô hình
hồi qui đa biến với p > 0,05. BMI và SSTT: Nghiên cứu này
cho thấy nhóm có BMI gầy có tỷ lệ SSTT cao nhất (13,3%),

thấp nhất là nhóm thừa cân, béo phì (4,1%). Tuy vậy, sự khác
biệt này cũng không có ý nghĩa thống kê trong mô hình hồi
qui đa biến với p > 0,05.
Mô hình hồi qui đa biến logistic cho thấy các yếu tố liên
quan có ý nghĩa thống kê đến SSTT: tuổi, tình trạng hôn
nhân, nghề nghiệp, trình độ học vấn,tiền sử tai biến mạch
máu não, thói quen hoạt động thể lực. Tuổi càng cao thì nguy
cơ SSTT càng lớn. Về tình trạng hôn nhân, người ở tình trạng
hôn nhân không thuận lợi (chưa kết hôn, ly dị/ly thân, góa)
có nguy cơ mắc SSTT cao gấp 1,8 lần so với người ở tình
trạng kết hôn. Về nghề nghiệp, đối tượng nghề nội trợ có
nguy cơ mắc SSTT cao gấp 3,2 lần, và nghề khác (ngoài
nghề buôn bán, công nhân, nghề nông, ngư nghiệp, nội trợ)
có nguy cơ mắc SSTT cao gấp 5,5 lần so với đối tượng nghề
cán bộ, viên chức. Về trình độ học vấn, đối tượng mù chữ
có nguy cơ SSTT cao gấp 3,0 lần so lới người có trình độ
trung học cơ sở trở lên. Về thói quen hoạt động thể lực, người
không có thói quen hoạt động thể lực có nguy cơ cao gấp 1,7
lần so với người có thói quen hoạt động thể lực. Người có
tiền sử tai biến mạch máu não có nguy cơ cao gấp 6,3 lần so
với người không có tiền sử tai biến mạch máu não.
V. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Tỷ lệ hiện mắc SSTT ở người từ 65 tuổi trở lên tại thành
phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định: Tỷ lệ hiện mắc SSTT chung
là 7,1%, tỷ lệ hiện mắc SSTT ở nam là 4,9%; ở nữ là 8,5%.
Tỷ lệ hiện mắc SSTT theo tuổi: 65-69: 2,3%;70-74: 4,9%;
75-79: 6,8%; 80-84:10,3%; 85-89: 15,5%; 90+: 28,4%. Tuổi
mắc bệnh trung bình: 76,5. Triệu chứng đầu tiên: Suy giảm
trí nhớ (96,4%). Chỉ có 11,9% bệnh nhân từng được chẩn
đoán SSTT; trong đó 60% bệnh nhân không được điều trị.

Một số yếu tố liên quan đến SSTT ở đối tượng nghiên
cứu: Mô hình hồi qui đa biến logistic cho thấy các yếu tố
liên quan có ý nghĩa thống kê đến SSTT: tuổi, tình trạng hôn
nhân, nghề nghiệp, trình độ học vấn,tiền sử tai biến mạch
máu não, thói quen hoạt động thể lực. Nguy cơ mắc SSTT
gia tăng rõ rệt theo sự gia tăng của tuổi; tình trạng hôn nhân
li dị, li thân, góa, độc thân; nghề nghiệp nội trợ; trình độ học


2017

JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE

vấn thấp (mù chữ); người có tiền sử tai biến mạch máu não;
không có thói quen hoạt động thể lực.
Kiến nghị: Cần có sự quan tâm của cả người dân và cán
bộ y tế đến sa sút trí tuệ nhằm phát hiện sớm, điều trị phù
hợp cải thiện cuộc sống. Tăng cường công tác truyền thông,
giáo dục sức khỏe. Các nhà khoa học cần có nghiên cứu sâu,
rộng hơn để đánh giá toàn diện về đặc điểm dịch tễ học SSTT

ở người Việt Nam, làm cơ sở cho đầu tư thích đáng đối với
hoạt động phòng bệnh và chẩn đoán sớm, chăm sóc, điều trị
người bệnh. Nhà nước có chính sách phù hợp để đẩy mạnh
các nghiên cứu tầm quốc gia về SSTT ở Việt Nam, nghiên
cứu sâu hơn về bệnh học, phân nhóm bệnh học của người
Việt Nam, có định hướng, kinh phí phù hợp cải thiện cuộc
sống người cao tuổi nói chung và người bị SSTT nói riêng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Đoàn Vương Diễm Khánh (2014), Nghiên cứu tỷ lệ sa sút trí tuệ và nhu cầu chăm sóc sức khỏe ở người từ 65 tuổi trở
lên tại thành phố Huế, Việt Nam, Viện Nghiên cứu Sức khỏe Cộng đồng, Trường Đại học Y Dược Huế.
2. Lê Văn Tuấn (2014), Tóm tắt luận án tiến sĩ y học: Đặc điểm dịch tễ học sa sút trí tuệ người cao tuổi tại hai quận, huyện
Hà Nội, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.
3. Maëlenn Guerchet, Pascal M’belesso, Alain M. Mouanga và các cộng sự. (2010), "Prevalence of Dementia in Elderly
Living in Two Cities of Central Africa: The EDAC Survey", Dementia and Geriatric Cognitive Disorders. 30, pp. 261-268.
4. Pembe Keskinoglu, Hatice Giray, Metin Pıcakcıefe et al. (2006), "The prevalence and risk factors of dementia in the
elderly population in a low socio-economic region of Izmir, Turkey", Archives of Gerontology and Geriatrics. 43, pp.
93-100.
5. Martin Prince, Renata Bryce và Cleusa Ferri (2011), World Alzheimer Report 2011: The benefits of early diagnosis and
intervention, Alzheimer’s Disease International.
6. Zhihong Shi và Wei Yue Ying Zhang, Mengyuan Liu, Ya Ruth Huo, Shuling Liu, Shuai Liu, Lei Xiang, Ping Liu, Hui
Lu, Jinhuan Wang, Yong Ji (2013), "Prevalence and Clinical Predictors of Cognitive Impairment in Individuals Aged 80
Years and Older in Rural China", Dementia and Geriatric Cognitive Disorders. 36, pp. 171-178.
7. Chong-Juan Wei và Y. Zhang Y. Cheng, F. Sun, W. S. Zhang, M. Y. Zhang (2014), "Risk factors for dementia in highly
educated elderly people in Tianjin, China", Clinical Neurology and Neurosurgery. 122, pp. 4-8.
8. WHO (1993), "The ICD-10 classification of mental and behavioural disorders: diagnostic criteria for research".
9. WHO (2012), Dementia: a public health priority, World Health Organization, 6-10.

SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn

147



×