Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Ứng dụng mô hình Reggio Emilia vào tổ chức các hoạt động với vật liệu thiên nhiên cho trẻ mẫu giáo tại trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.81 KB, 11 trang )

Năm học 2015 - 2016

ỨNG DỤNG MÔ HÌNH REGGIO EMILIA
VÀO TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG VỚI VẬT LIỆU THIÊN NHIÊN
CHO TRẺ MẪU GIÁO TẠI TRƯỜNG MẦM NON
Cao Thị Hiền Hòa,
Phạm Thị Mỹ Dung,
Lê Tú Quỳnh
(SV năm 3, Khoa Giáo dục Mầm non)
GVHD: TS Phan Thị Thu Hiền
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục mầm non hiện nay đang đổi mới theo phương pháp dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, cho trẻ học qua trải nghiệm của chính mình,
chú trọng đổi mới môi trường giáo dục nhằm kích thích và tạo cơ hội cho trẻ khám phá
[1].
Muốn cho trẻ được trải nghiệm thực tế, tích cực hoạt động, sáng tạo người giáo
viên cần có phương pháp thích hợp để tổ chức các hoạt động kích thích, khơi gợi trẻ.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay tại các trường mầm non, giáo viên chưa thực sự chú
trọng tới việc tạo ra môi trường vật chất, sử dụng các vật liệu thiên nhiên (VLTN) hấp
dẫn, làm phong phú, khai thác chưa hết tiềm năng khám phá và học hỏi từ nguồn tài
nguyên này. Mặc dù, VLTN luôn có sẵn, dễ tìm kiếm, giá thành rẻ, gần gũi với trẻ như
là lá cành cây, hoa khô, sỏi đá, bột mì... Nếu có, các VLTN ở các góc bày trí chưa thu
hút, khơi gợi trẻ, thiếu thẩm mỹ, ý nghĩa trọng tâm hoạt động chưa được sử dụng để
làm cho trẻ chú ý hay hứng thú tham gia, khám phá; còn mang nặng tính trưng bày, đối
phó, trẻ khó cơ hội tiếp cận. Vậy nên trẻ thờ ơ đi qua hay dừng lại chỉ nghịch với
những VLTN đó không phát triển được ý tưởng hoạt động, nếu có được cơ hội sử dụng
là do sự sắp đặt, gượng ép của cô lên trẻ nhưng vẫn chưa đủ để trẻ trải nghiệm, khám
phá, chỉ dừng lại ở mức làm quen, ý tưởng nghèo nàn và chưa thể vận dụng. Cách tổ
chức các hoạt động chưa kích thích trẻ hứng thú, chủ động khám phá, tìm hiểu, sáng
tạo còn mang nặng tính áp đặt lên trẻ, ít quan tâm đến tính sáng tạo, tò mò của trẻ.


Tìm hiểu kinh nghiệm từ các mô hình giáo dục mầm non nổi tiếng trên thế giới,
chúng tôi thấy mô hình Reggio Emilia (xuất phát từ Ý) là một mô hình giáo dục lí
tưởng, rất hiệu quả, trẻ học qua trải nghiệm, tương tác của chính mình với thế giới xung
quanh. Đặc biệt, mô hình này chú trọng tới xây dựng môi trường học tập vật chất mời
gọi, bày trí vật liệu có khả năng kích thích trẻ hứng thú. Trẻ tự khởi xướng hoạt động,
tham gia tìm hiểu, tương tác, khám phá, trải nghiệm, phát triển nhiều ý tưởng một cách
phong phú, sáng tạo. Giáo viên là người cộng sự cùng trẻ, hướng dẫn trẻ trong quá
trình diễn ra hoạt động [2]. Qua đó, trẻ học được rất nhiều điều, học tích hợp bao gồm
cả khám môi trường xung quanh, tạo hình, phát triển ngôn ngữ, trí tưởng tượng, làm

205


Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

quen toán, thể chất... Những điều này rất thích hợp với các quan điểm đổi mới cho trẻ
học qua trải nghiệm chính mình, dạy học tích hợp của chương trình giáo dục mầm non
nước ta hiện nay.
Chính vì thế, chúng tôi thực hiện đề tài: “Ứng dụng mô hình Reggio Emilia vào
tổ chức các hoạt động với VLTN cho trẻ mẫu giáo tại trường mầm non.”
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Xây dựng một phương án ứng dụng mô hình Reggio Emilia vào tổ chức các hoạt
động với VLTN (bột mì, lá cây, cành cây khô, hoa quả khô…) cho trẻ mẫu giáo 3-4
tuổi ở trường mầm non.
1.3. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi xác định phải thực hiện các nhiệm vụ và
phương pháp nghiên cứu sau:
1.3.1. Nghiên cứu lí luận
Hệ thống hoá một số vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài: cách tiếp cận dạy học
của mô hình giáo dục Reggio Emilia, tầm quan trọng của môi trường vật chất đối với

sự phát triển tư duy, khả năng sáng tạo, tính tò mò ham hiểu biết của trẻ và nguyên tắc
học, khám phá, trải nghiệm của trẻ lứa tuổi mẫu giáo. Chúng tôi sử dụng phương pháp
nghiên cứu tài liệu để hệ thống hóa một số vấn đề lí luận này.
1.3.2. Nghiên cứu thực trạng
Khảo sát thực trạng về việc thiết kế, sử dụng môi trường vật chất và VLTN để
kích thích trẻ hoạt động, khám phá trong lớp học độ tuổi 3-4 tại các trường mầm non ở
Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM).
Chúng tôi sử dụng các phương pháp tìm hiểu thực trạng để thu thập, xử lí thông
tin, số liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu từ đó đưa ra thực trạng một cách khách quan
nhất.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Sử dụng phiếu hỏi cho các giáo viên đang
dạy tại lớp mẫu giáo độ tuổi 3-4 tại trường mầm non tại TPHCM để thu thập thông tin,
thực trạng về việc thiết kế môi trường vật chất nhằm tổ chức các hoạt động cho trẻ lứa
tuổi mẫu giáo tại trường mầm non.
Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn thành viên ban giám hiệu, giáo viên nhằm
thu thập ý kiến, thông tin cần thiết cho vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp quan sát trẻ: Quan sát trẻ trong quá trình hoạt động với môi trường
vật chất, sử dụng các nguyên vật liệu; cách thiết kế môi trường vật chất trong lớp học
và quá trình tổ chức hoạt động của giáo viên.
Phương pháp toán thống kê trong nghiên cứu khoa học giáo dục: Sử dụng toán
thống kê để xử lí số liệu thu thập được.

206


Năm học 2015 - 2016

1.4. Xây dựng và thử nghiệm phương án “Ứng dụng mô hình Reggio Emilia vào
tổ chức các hoạt động vớiVLTN (bột mì, lá cây, cành cây khô, hoa quả khô…) cho
trẻ 3-4 tuổi tại trường mầm non.”

Dựa trên cơ sở lí luận và thực trạng chúng tôi tiến hành thử ngiệm phương án
“Ứng dụng cách tiếp cận của mô hình Reggio Emilia vào tổ chức các hoạt động với
VLTN (bột mì, lá cây, cành cây khô, hoa quả khô…) cho trẻ lứa tuổi mẫu giáo tại
trường mầm non”. Chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu thử nghiệm sư phạm
nhằm kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của phương án này.
Nhằm đánh giá kết quả thử nghiệm một cách khách quan, sinh động chúng tôi sử
dụng phương pháp đánh giá portfolio kết hợp lấy ý kiến của giáo viên chủ nhiệm, Ban
giám hiệu nhà trường và phương pháp đánh giá định tính.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
Môi trường vật chất có tầm quan trọng đối với sự học tập và phát triển của trẻ.
Nhà tâm lí học nổi tiếng Piaget cho rằng trẻ em không thụ động mà tích cực trong việc
khám phá thế giới. Trẻ em kiến tạo tri thức cho mình bằng cách xử lí những thông tin
có được từ những trải nghiệm với thế giới xung quanh. Vì vậy, Piaget kêu gọi dạy học
lấy trẻ làm trung tâm và cho trẻ được tự do khám phá thế giới xung quanh [3]. Theo
Montessori1, môi trường vật chất là người thầy giáo thứ hai trong lớp học. Mô hình
Reggio Emilia nhận định môi trường vật chất là người giáo viên thứ ba trong lớp học
của trẻ, sau giáo viên và bạn bè của trẻ. Hiệu quả của hoạt động học tập phụ thuộc rất
nhiều vào chất lượng của môi trường vật chất trong lớp học. Trẻ cần một môi trường
vật chất thật hấp dẫn để lôi kéo trẻ khám phá và thật phong phú để trẻ có thể học hỏi
thật nhiều điều.
Tuy nhiên, trẻ khó có thể tìm hiểu môi trường xung quanh một mình mà thông
qua giao tiếp với bạn bè nhiều kinh nghiệm hơn và đặc biệt là với người lớn, những
người đang lưu giữ kho tàng tri thức và văn hóa. Vì vậy, giáo viên có tầm quan trọng
rất lớn đối với sự học tập và phát triển của trẻ. Đặc biệt là vai trò “dạy học hướng tới
vùng phát triển gần nhất của trẻ”. Vùng phát triển gần nhất chính là những kiến thức
không quá dễ và quá khó đối với trẻ nhưng trẻ phải có một sự nỗ lực nhất định để giải
quyết được vấn đề trong sự hỗ trợ, hướng dẫn của giáo viên. Dạy học phải đi trước sự
phát triển của trẻ một bước đê kích thích, dẫn dắt và định hướng sự phát triển [3].
Tìm hiểu kinh nghiệm từ các mô hình giáo dục mầm non nổi tiếng trên thế giới

hiện nay, chúng tôi nhận thấy mô hình giáo dục Reggio Emilia đã thực hiện, triển khai
có hiệu quả, phù hợp với sự phát triển của trẻ cũng như xu hướng giáo dục lấy trẻ làm
trung tâm, dạy học theo hướng tích hợp. Theo tập chí Newsweek, mô hình Reggio
Emilia được đánh giá là mô hình giáo dục mầm non tốt nhất trên thế giới [4].

1

Nhà giáo dục học người Ý.

207


Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

Cách tiếp cận Reggio Emilia nhấn mạnh tầm quan trọng của môi trường, được
xem như là “giáo viên thứ ba” của trẻ. Theo Reggio Emilia, môi trường học tập phải
cung cấp nguồn cảm hứng và kích thích, mời gọi, lôi kéo trẻ. Không gian học được lấp
đầy với ánh sáng tự nhiên, có trật tự và thẩm mỹ [5]. Một không gian học tập chào đón
khơi gợi tính tò mò, khám phá và giao tiếp sẵn có trong mỗi đứa trẻ. Môi trường được
thiết kế chu đáo tập trung vào cấu trúc, đồ vật và cách bày trí khiến đứa trẻ có những sự
lựa chọn cho riêng mình, chúng giải quyết vấn đề, tìm hiểu tỉ mỉ và khám phá với sự
lựa chọn đó. Bầu không khí mời gọi làm tăng hứng thú tích cực trải nghiệm và học tập
trong trẻ [6]. Trong môi trường đó, trẻ là nhân vật chính khởi xướng, xây dựng quá
trình hoạt động học tập của chính mình. Chương trình giảng dạy được bắt nguồn, dẫn
dắt từ chính nhu cầu, kinh nghiệm, khả năng, hứng thú của trẻ. Trẻ được phép làm việc
theo suy nghĩ, hứng thú, kinh nghiệm, nhu cầu riêng của mình để kết quả có được là lợi
ích thực sự của quá trình tư duy từ trẻ [7]. Và người giáo viên phải thấy mình như là
cộng sự trong việc hợp tác xây dựng hệ thống kiến thức với các trẻ, giáo viên cùng với
trẻ khám phá, phát hiện, và học tập với nhau, đánh thức tiềm năng, nuôi dưỡng và phát
triển chúng. Điều này khuyến khích trẻ tích cực tham gia tìm hiểu, khám phá, đóng

góp.
Nhận thức được sự phù hợp, cấp thiết của việc ứng ứng dụng mô hình giáo dục
Reggio Emilia vào việc tổ chức hoạt động cho trẻ mầm non nói chung trẻ mẫu giáo 3 4 tuổi nói riêng. Chúng tôi quyết định sẽ áp dụng về cách tạo dựng môi trường vật chất
mời gọi trẻ, cách bày trí các vật liệu và cách thức tổ chức để trẻ được tự do đề xuất ý
tưởng, khám phá, trải nghiệm trong môi trường đó cùng với sự khuyến khích, hỗ trợ
của giáo viên. Việc ứng dụng này có thể giúp khắc phục được những thiếu sót, yếu kém
hiện nay, giáo viên biết cách xây dựng môi trường mời gọi trẻ khám phá, trải nghiệm,
kích thích khả năng hứng thú, tò mò, tích cực của trẻ, dần dần tiếp cận quan điểm lấy
trẻ làm trung tâm.
2.2. Tìm hiểu thực trạng sử dụng vật liệu thiên nhiên trong lớp học mầm non độ
tuổi 3 - 4 tại TPHCM
Để đảm bảo tính trung thực, khách quan và chứng cứ thực tiễn trong nghiên cứu
khoa học, chúng tôi tiến hành điều tra tại 12 trường mầm non thuộc các quận: 1, 3, Tân
Bình, Gò Vấp, Bình Thạnh, Phú Nhuận trong nội thành TPHCM. Nhóm nghiên cứu
tiến hành khảo sát 50 giáo viên đang trực tiếp giảng dạy tại các lớp mẫu giáo 3 - 4 tuổi
bằng phiếu hỏi, phỏng vấn trực tiếp 12 người trong ban giám hiệu, 6 giáo viên đang
trực tiếp giảng dạy và quan sát 12 lớp học độ tuổi 3 - 4 thuộc các trường mầm non, mẫu
giáo trên.
Sau khi tìm hiểu thực trạng chúng tôi nhận thấy, giáo viên chưa thực sự chú
trọng, thực hiện tốt công việc đưa VLTN vào tổ chức các hoạt động cho trẻ. Nguyên
nhân chủ quan chủ yếu là do giáo viên chưa biết cách tổ chức các hoạt động nhằm khơi
gợi, kích thích tính hứng thú của trẻ với VLTN, chưa biết cách bày trí để thu hút, mời
gọi trẻ tìm tòi, khám phá, trải nghiệm với VLTN. Mặt khác, một số giáo viên đánh giá

208


Năm học 2015 - 2016

chưa cao khả năng khám phá, học tập vui chơi của trẻ, theo giáo viên trẻ 3 - 4 tuổi chưa

có đủ kinh nghiệm, kĩ năng để tham gia hoạt động với VLTN. Các tổ chức mang tính
áp đặt của giáo viên lên trẻ, trẻ thiếu sự tự do, khám phá, trải nghiệm và sáng tạo. Giáo
viên quá chú trọng tới kết quả tìm hiểu, sản phẩm, tức là “học cái gì? hơn là học như
thế nào?”. Chương trình giáo dục mầm non mới đang nỗ lực chú ý đến quá trình học
hỏi, khám phá của trẻ.
Vì vậy, chúng tôi nhận thấy tầm quan trọng của việc xây dựng phương án thử
nghiệm về việc tổ chức các hoạt động với VLTN tại trường mầm non cho trẻ 3 – 4 tuổi.
Điều cốt yếu không phải là cố gắng đưa vào bộ óc non nớt của trẻ càng nhiều kiến thức
càng tốt, đốt cháy giai đoạn trong sự phát triển của trẻ mà là thông qua những hoạt
động cụ thể chúng ta giúp trẻ có những hiểu biết sinh động, thú vị và đúng đắn tuy còn
hết sức đơn giản.
2.3. Xây dựng và thực nghiệm phương án “Ứng dụng mô hình giáo dục Reggio
Emilia vào tổ chức các hoạt động với VLTN (bột mì, lá cây, cành cây khô, hoa quả
khô…) cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi”
2.3.1. Phương án thử nghiệm
 Cách bày trí:

 Bố trí ở nơi an toàn, thoáng mát, sạch sẽ, đảm bảo đủ không gian cho một
nhóm trẻ hoạt động cùng nhau.
 Lựa chọn VLTN, đồ dùng , đồ chơi an toàn cho trẻ khi hoạt động.
 Bày trí đơn giản, màu sắc hài hòa, không lòe loẹt, đối tượng chính cần nổi bật.
 Trưng bày một số hình ảnh trẻ đang chơi cùng với các VLTN.
 Thiết kế góc trưng bày sản phẩm của trẻ, sáng tạo nhiều hình thức trưng bày
như đặt trên kệ, treo, dán trên tường hay treo rủ xuống trong không gian.
 Đề xuất cách chơi với bột và các VLTN
Các vật liệu:
 Bột mì
 Muỗng gỗ (hoặc nhựa), dao nhựa, tô, chén, hũ nhựa, đồ rây, hay, bìa cứng
chống dính, màu nước, màu thực phẩm.
 Các VLTN khác: hạt, sỏi đá, cành cây, lá cây, quả, hoa, vỏ sò, ốc...

 Trứng gà, gia vị, lò nướng.
 Các VL mở: hạt, nút, ống hút, kẽm lông…
Chú ý: Không khuyến khích trẻ sử dụng các bộ đồ chơi đi kèm với một bộ chơi
bột thường có ở tiệm. Bởi vì: các bộ đồ chơi sẵn thường hạn chế khả năng tìm hiểu của

209


Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

trẻ, trẻ dễ dàng làm ra sản phẩm theo mẫu và đồ chơi mua tại các cửa tiệm thường có
hướng dẫn sử dụng, hình sản phẩm mẫu và điều này chắc chắn sẽ kiềm chế sự khám
phá, thử nghiệm, sáng tạo của trẻ.
 Mục đích:
 Xác định hứng thú, nhu cầu của trẻ và định hướng trẻ
 Khuyến khích trẻ tương tác, trao đổi với bạn bè về những gì trẻ đang làm.
 Tạo cơ hội để trẻ sáng tạo trong cách chơi – biết cách sử dụng và phối hợp các
VLTN khác nhau.
 Hướng dẫn cách hoạt động cùng trẻ
 Các bước thực hiện
Bước 1: Chuẩn bị
1) Cô chuẩn bị môi trường (có thể cùng trẻ): đồ dùng, vật liệu, thời gian và địa
điểm tổ chức cho trẻ.
2) Sắp xếp, bày trí các nguyên vật liệu trên bàn, trên kệ mời gọi, kích thích trẻ
khám phá, vui chơi với mỗi hoạt động.
Bước 2: Xác định hứng thú, nhu cầu của trẻ và định hướng trẻ [8].
1) Cô và trẻ cùng khám phá bằng cách của mình, cô không hướng dẫn cặn kẽ các
bước kĩ năng mà chỉ âm thầm thao tác một cách chậm rãi bên cạnh trẻ để trẻ có cơ hội
quan sát nếu cần. Ưu tiên hoạt động tự khám phá và đề xuất trước tiên: cho phép trẻ
làm hoặc đề xuất điều gì đó. Chờ đợi và không vội nhận xét. Tránh thể hiện rằng trẻ

nên làm gì.
2) Khuyến khích trẻ nêu cảm nhận của mình khi tiếp xúc với bột.
Cô quan sát, lắng nghe và đánh giá hứng thú, hiểu biết đã có và mong muốn
khám phá của trẻ (có thể có sự tham gia của giáo viên trong các hoạt động này).
 Quan sát: trẻ và hành động của trẻ. Quan sát, xem xét cách trẻ khám phá bột
mì, các VLTN khác nhau. Chấp nhận các cách trẻ hoạt động. Cần cho trẻ có thời gian
để đến với những ý tưởng của riêng mình, giáo viên chỉ quan sát chính xác những gì
mà trẻ quan tâm mà không vội ngắt lời, gợi ý hoặc hướng dẫn.
 Lắng nghe: những gì trẻ nói giáo viên không ngắt lời, không gián đoạn khi trẻ
nói. Nếu trẻ nói về một điều gì đó, hãy trả lời và thể hiện sự quan tâm, nhưng tránh nói
với trẻ phải làm gì hoặc đặt câu hỏi kiểm tra trẻ, chẳng hạn như "Đó là gì?" hay "Con
đang làm gì vậy?" vì nhiều lúc trẻ chưa biết, chưa định hướng sẽ làm gì, trẻ đang cố
gắng thực nghiệm.
Bước 3: Tham gia vào trò chơi
1) Cô nhìn nhận những gì trẻ đang làm và thể hiện sự quan tâm của mình đối với
những có gắng của trẻ.

210


Năm học 2015 - 2016

2) Cô chơi theo cách mà trẻ đang chơi. Bắt chước trẻ và thể hiện sự vui thích.
3) Cô mô tả những gì trẻ đang làm. Ví dụ: "Oh! Con đang chọc những lỗ trên bột
nặn với cây gậy của con. Hãy để cô thử làm nhé ". Nhận xét ngắn gọn và sau đó chờ
đợi (không nói) để trẻ nói hoặc làm điều gì đó một lần nữa.
4) Thỉnh thoảng cô có thể thêm một câu bình luận thú vị. Ví dụ: "Cô cắt được
một mẩu khổng lồ. Nhìn xem nó to như thế nào!". Các bình luận của giáo viên phải liên
quan đến những gì mà trẻ quan tâm. Điều quan trọng là không thay đổi hoạt động của
trẻ hoặc nói với trẻ về những gì phải làm.

5) Trẻ thể hiện sự sáng tạo bằng việc thêm những hạt, lá, cành… hoặc sử dụng
các dụng cụ hỗ trợ khác như cây cán, dao, để tạo nên một đối tượng hình có nghĩa với
trẻ.
6) Khuyến khích trẻ tích cực trao đổi với bạn bè, cô giáo thường xuyên về cách
thao tác, sản phẩm, ý nghĩa của nó.
Bước 4: Kết thúc
1) Cô quan sát xem xét và đánh giá trong suốt quá trình trẻ hoạt động với bột mì
và các VLTN khác.
2) Đánh giá bằng cách cho phép trẻ chia sẻ kinh nghiệm cùng các bạn khác, kể
lại, hướng dẫn trẻ yếu hoặc các bạn chưa được tham gia hoạt động này.
Cô và trẻ cùng lên kế hoạch cho việc trưng bày, và dự kiến mở rộng và hoạt động
cho lần tiếp theo.
 Đề xuất một số hoạt động với bột mì và các VLTN khác:
 Hoạt động khám phá, vui chơi cùng bột mì nguyên chất.
 Hoạt động làm bột nặn
 Vui chơi, tìm hiểu về bột nặn
 Hoạt động làm bánh nướng từ bột mì
 Dự định những trường hợp ngoài ý muốn:
Vì những lí do khác nhau trong lúc trẻ vui chơi với bột mì hoặc khi trẻ làm bột
nặn như trẻ đổ quá nhiều nước vào bột làm bột quá lỏng hay trẻ đổ một ít nước vào bột
và quyết định sẽ khám phá, vui chơi với những thứ đó. Giáo viên linh động trò chuyện,
kích thích trẻ suy nghĩ, liên tưởng, sáng tạo như “Tại sao bột lại ra được như thế này?”
hay “Ta sẽ chơi, làm gì với chúng đây?”, “Nhìn xem, sờ vào chúng trông giống với thứ
gì vậy nhỉ?”
Trẻ nhào bột nặn quá lỏng: vẽ tranh sáng tạo bằng màu bột nước trên nền xi
măng, giấy, trên bề mặt bột nặn. Sau đó đem phơi khô.
Bột nặn quá khô: chơi giả bộ bột mì đó là tuyết, bề mặt trên mặt trăng.

211



Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

2.4. Tổ chức thử nghiệm:
 Mẫu thử nghiệm: 6 trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi ở Trường Mẫu giáo Thiên Thần,
quận Bình Thạnh, TPHCM.
 Thời gian thử nghiệm: Thời gian: Từ ngày 5/4/2016- 15/4/2016.
2.5. Đánh giá thử nghiệm:
2.5.1.

Đánh giá kết quả bằng Portfolio

Chúng tôi sử dụng phương pháp đánh giá kết quả bằng Porfolio để mô tả và đánh
giá thử nghiệm. Chúng tôi thử nghiệm với nhiều trẻ nhưng do điều kiện khách quan
cũng như chủ quan, chúng tôi chỉ trình bày đánh giá Portfolio của 1 trẻ.
Portfolio của bé Nguyễn Ngọc Uyên
Hình ảnh

Giải thích tình huống

12/04/2016

Cô không giới thiệu ngay
đây là bột mì mà cô chỉ
gợi ý: Con nghĩ đây là cái
gì?
Uyên: Con thấy giống
chơi cát quá à.
Long: Hình như nó giống
bột mì á!

Uyên: Bột mì hả? Hihi.
Bé Uyên thích thú khi bột
mì dính trên tay. Bé vừa
vỗ tay vừa nói: Bột gì sao
mà ôi dính cả vào tay
mình!
Một lát sau Uyên có suy
nghĩ khác: Giống xi măng
quá! Xi măng nó bụi. Xi
măng nó xây nhà được á!

Uyên vỗ tay cho bột rơi
xuống

212

Nhận xét –
Đánh giá
1. Hoạt động khám phá
với bột mì là một hoạt động
mới mẻ với Uyên. Qua hoạt
động này, Uyên đã học và
phát triển được về các mặt
như sau:
Về nhận thức: Trẻ đã sử
dụng các giác quan để tìm
hiểu bột mì: nhìn, sờ. Từ đó
nhận ra các đặc điểm nổi bật
của bột mì: màu trắng, mềm,
mịn.

Phát triển khả năng quan sát,
kĩ năng khám phá hiện
tượng, sự vật xung quanh
trẻ.
Về thể chất: rèn luyện các kĩ
năng vận động tinh như nắm
bột, rây bột…
Về ngôn ngữ: Trẻ gọi tên
được một số đồ vật như: bột
mì, cái rây, cái phễu. Trẻ trò


Năm học 2015 - 2016

Uyên rây bột với hạt sen
13/04/2016

Cô: Cô rây bột với các
hạt chỉ có bột xuống sao
kì quá nhỉ?
Uyên: Ai kêu nó bự quá!
Cô: Còn bột sao lại xuống
vậy ta?
Uyên: Tại nó nhỏ.

chuyện với cô và bạn khác
về bột mì, trẻ đặt câu hỏi
cùng cô, trả lời các câu hỏi.
Về tình cảm: Lúc đầu Uyên
còn ngại ngùng e dè không

dám chơi, dần dần cởi mở và
thích thú hoạt động khám
phá, vui chơi với bột mì và
các VLTN khác.

Uyên hứng thú dùng tay
để nhào bột nặn, vẻ mặt
đầy hào hứng: "Bạn nắm
giống mình nè".

2. Hoạt động với bột nặn,
đây là hoạt động hoàn toàn
mới mẻ đối với trẻ:
Về nhận thức: Uyên biết
được bột nặn mềm, rất giống
với đất sét, muốn làm ra bột
nặn cần có những VL nào.
Có thể dùng đất sét để tạo ra
nhiều sản phẩm khác nhau.
Kích thích phát triển trí
tưởng tượng. Uyên đã dùng
bột nặn kết hợp với các VL
khác tạo ra được rất nhiều
sản phẩm như là bánh kem,
làm đất để trồng hoa, vo tròn
cắm vào ống hút tạo thành
cây kẹo mút, làm dẹp bột
nặn rồi cuốn lại tạo bánh
cuốn, lăn dài tạo con rắn…
Trẻ có cơ hội rèn luyện kĩ

năng đếm, đong đo các vật
liệu bằng thìa.
Rèn luyện vận động của bàn
tay, ngón tay như nhào nặn
bột, sử dụng cái cán để cán

Uyên nhào bột nặn
Uyên lấy một cành hoa
Uyên dồn bột vào cành
hoa, bao quanh cành hoa:
Mình trồng hoa nè bạn!
Uyên khoe cô: Cô ơi, hoa
con trồng nè cô!

Uyên trồng hoa

213


Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

Uyên thấy cô làm bánh
kem. Uyên cũng làm
theo. Lúc đầu, Uyên cán
bột quá mỏng, cắm ống
hút cứ đổ hoài.
Uyên: "Cô ơi, ống hút
của con không đứng yên
gì cả".
Cô gợi ý: "Cô thử cắm

trên bột nặn dày hơn xem
sao."
Uyên: "Nó đứng rồi cô
ơi."

bột nặn.
Uyên rất tích cực tham gia,
thể hiện sự hứng thú trong
suốt quá trình hoạt động
khám phá, vui chơi với bột
nặn.

Làm bánh kem
2.5.2. Đánh giá bằng ý kiến của giáo viên và ban giám hiệu nhà trường
Sau khi quan sát thử nghiệm phương án này trên nhóm trẻ lớp mình, giáo viên
P.T.N.S đã có những nhận xét, đánh giá rằng “Tôi thấy trẻ rất thích thú khi được thỏa
sức khám phá, sáng tạo với bột mì, bột nặn và VLTN khác, trẻ thường xuyên kể lại với
tôi những hoạt động trẻ đã được tham gia. Hi vọng cách tiếp cận dạy học của mô hình
này sẽ sớm được áp dụng ở tất cả trường mầm non”
Về phía Ban Giám hiệu Trường Mẫu giáo Thiên Thần, cô H.T.K.D - Hiệu phó
chuyên môn ghi nhận, đánh giá: “Đây là một hoạt động mới, hay, lạ, hấp dẫn. Trẻ được
trải nghiệm với các VLTN, tự tay làm bột nặn, kết hợp với các VL khác vui chơi sáng
tạo ra những sản phẩm độc đáo. Hoạt động này đảm bảo tính an toàn cao, kích thích
hứng thú, khả năng sáng tạo của trẻ, tích hợp được nhiều hoạt động khác nhau. Đây là
một mô hình dạy học có hiệu quả cao rất cần được áp dụng và nhân rộng ra trong
trường mầm non, gia đình”.
Một phụ huynh của trẻ trong nhóm thử nghiệm khi đến đón nhưng trẻ đang hứng
thú chơi với bột nặn, không muốn dừng chơi và lôi kéo cả phụ huynh cùng tham gia.
Khi phụ huynh chơi cùng trẻ, quan sát cách bố trí, thiết kế các VL, phụ huynh đã nhận
xét: “Cám ơn các cô đã tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động này, tôi thấy các cháu

tham gia rất vui, học được nhiều điều mới. Rất mong sẽ có thêm nhiều hoạt động như
vậy để các cháu có thêm nhiều niềm vui khi đến trường”.
Qua việc thử nghiệm phương án này, chúng tôi nhận thấy trẻ tích cực, hứng thú
khám phá, sáng tạo trong quá trình trải nghiệm. Cách xây dựng, tổ chức hoạt động giúp
trẻ được thỏa mãn nhu cầu khám phá, tính tò mò, ham hiểu biết của chúng, trẻ hoạt
động thoải mái, không gò bó, áp đặt, trẻ học qua chính trải nghiệm của mình.

214


Năm học 2015 - 2016

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.
4.
5.
6.

7.
8.

Nguyễn Thị Hòa (2013), Giáo trình giáo dục học mầm non, TP Hồ Chí Minh: Nxb
Đại học Sư phạm.
Gardner, H. (2001). Introductions. In C. Giudici, M. Krechevsky, R. Rinaldi, (Eds.).
Making learning visible: Children as individual and group learner, Reggio Emilia,
Italy: Reggio Children srl
Nguyễn Thị Ánh Tuyết (1998), Tâm lí học trẻ em, Hà Nội: Nxb Giáo dục.

Newsweek. (1991, December 2). The best schools in the world. Pp. 60-64.
Deb Curtis (2004) Creating Invitations for Learning [pdf] Available at:
/>The
Saskachewan
Ministry
of
Education
[pdf]
Available
at:
< />garten%20Supports/Creating%20Invitations%20for%20Learning.pdf>.
Marianne Valentine (2006), The Reggio Emilia Approach to Early Years Education.
Scotland: Learning and Teaching Scotland.
Pepper and Weitzman (2004), It takes two to talk, Canada: The hanen centre.

215



×