Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo tại trường mầm non phúc thắng phúc yên vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.39 KB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

ĐINH THỊ XUÂN

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC
GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHO TRẺ MẪU
GIÁO TẠI TRƯỜNG MẦM NON PHÚC
THẮNG - PHÚC YÊN - VĨNH PHÚC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

HÀ NỘI - 2014


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

ĐINH THỊ XUÂN

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TỔ CHỨC
GIÁO DỤC THỂ CHẤT CHO TRẺ MẪU
GIÁO TẠI TRƯỜNG MẦM NON PHÚC
THẮNG - PHÚC YÊN - VĨNH PHÚC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục thể chất
Người hướng dẫn khoa học

Th.S NGUYỄN THỊ HÀ


HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tên tôi là: Đinh Thị Xuân
Sinh viên: Lớp K36B - GDMN trường ĐHSP Hà Nội 2
Tôi xin cam đoan những nội dung mà tơi đã trình bày trong khố luận
tốt nghiệp này là kết quả q trình nghiên cứu, tìm tịi học hỏi của bản thân
dưới sự chỉ đạo của giáo viên hướng dẫn. Những kết quả nghiên cứu trong
khố luận chưa từng được cơng bố tại bất cứ cơng tình nghiên cứu nào.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Sinh viên

Đinh Thị Xuân


MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Số bảng

Nội dung

biểu
Bảng 1.1

Bảng thống kê trường học trong cả nước từ năm 2010 -2013


Trang
27

Kết quả phỏng vấn GV về việc lựa chọn một số TCVĐ
Bảng 3.1

nhằm phát triển thể lực cho trẻ

41

Bảng phỏng vấn test lựa chọn các TCVĐ trong môn học
Bảng 3.2

GDTC của trường mầm non Phúc Thắng

44

Bảng tiến trình giảng dạy TCVĐ trong trường mầm non
Bảng 3.3
Bảng 3.4
Bảng 3.5
Biểu đồ 1

Phúc Thắng
Kết quả kiểm tra của 2 nhóm trước thực nghiệm (nA = nB = 20)
Kết quả kiểm tra của 2 nhóm sau thực nghiệm (nA = nB = 20)

46
47


Thành tích chạy tiếp cờ của 2 nhóm thực nghiệm và đối

48
50

Biểu đồ 2

chứng, trước và sau thực nghiệm
Thành tích chạy ai nhanh hơn của 2 nhóm thực nghiệm

50

Biểu đồ 3

và đối chứng, trước và sau thực nghiệm
Thành tích chạy cướp cờ của 2 nhóm thực nghiệm và đối

51

chứng, trước và sau thực nghiệm


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
GD & ĐT

: Giáo dục và đào tạo

GDMN

: Giáo dục mầm non


GDTC

: Giáo dục thể chất

GV

: Giáo viên

GVMN

: Giáo viên mầm non

TCVĐ

: Trò chơi vận động

NĐC

: Nhóm đối chứng

NTN

: Nhóm thực nghiệm


6

ĐẶT VẤN ĐỀ
Một quốc gia hùng mạnh là một quốc gia có nền giáo dục phát triển. Vì

vậy, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển đảm bảo xây dựng một thế hệ
kế tiếp có đủ phẩm chất và năng lực phục vụ cho đất nước. Đại hội Đảng khoá
IX đã chỉ rõ: "Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục
đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng
nghiệp hố - hiện đại hố đất nước, là điều kiện phát huy nguồn nhân lực con
người". [1]. Vì vậy hiện nay giáo dục đã trở thành mối quan tâm của toàn xã
hội. Đặc biệt là GDMN có một vị trí quan trọng, là khâu đầu tiên trong hệ
thống giáo dục quốc dân, là bậc học đặt nền móng cho sự phát triển nhân cách
con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chăm sóc giáo dục trẻ em ngay từ những tháng đầu tiên của cuộc sống
là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự
chăm lo đào tạo và bồi dưỡng cho thế hệ trẻ, trở thành những con người tương
lai của đất nước Việt Nam đang có bước chuyển biến mạnh mẽ trên con
đường đi đến xây dựng cuộc sống ấm no văn minh và hạnh phúc. Trẻ em hôm
nay, thế giới ngày mai, trẻ em sinh ra có quyền được chăm sóc và bảo vệ,
được tồn tại, được chấp nhận trong gia đình và cộng đồng. Vì thế giáo dục
con người ở lứa tuổi mầm non vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của mỗi
người đối với xã hội, đối với cộng đồng.
Trẻ em là công dân của xã hội, là thế hệ tương lai của đất nước nên
ngay từ thủa lọt lòng chúng ta cần chăm sóc giáo dục trẻ thật chu đáo. Đặc
biệt là GDTC cho trẻ càng có ý nghĩa quan trọng hơn bởi trong Nghị quyết
trung ương 4 khóa V về vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe của nhân dân ghi rõ: " Sức khỏe là cái vốn quý của mỗi con người
và của toàn xã hội, là nhân tố quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc". GDTC là một bộ phận quan trọng của giáo dục phát triển toàn diện,


7

có mối quan hệ mật thiết với giáo dục đạo đức, thẩm mĩ và lao động. Hơn

nữa, GDTC cho trẻ mầm non càng có ý nghĩa quan trọng hơn bởi cơ thể trẻ
đang phát triển khỏe mạnh, hệ thần kinh, cơ xương hình thành nhanh, bộ máy
hơ hấp đang hồn thiện. Cơ thể trẻ còn non yếu dễ bị phát triển lệch lạc, mất
cân đối nếu khơng được chăm sóc giáo dục đúng đắn thì có thể gây nên
những thiếu sót trong sự phát triển cơ thể trẻ mà khơng thể khắc phục được.
Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta trong những năm gần đây đã
đặc biệt chú trọng tới cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non. Tuy nhiên
trong q trình thực hiện cịn gặp nhiều khó khăn, tình hình sức khoẻ cịn
nhiều vấn đề đáng lo ngại. Nhiều trẻ mắc bệnh còi xương, suy dinh dưỡng,
các bệnh đường hô hấp, các bệnh đường ruột, các điều kiện đảm bảo và chăm
sóc sức khỏe của trẻ còn nhiều thiếu thốn. Cơ sở vật chất ở các trường và các
gia đình cịn q chật hẹp, chưa đảm bảo vệ sinh môi trường cho trẻ sinh hoạt,
học tập. Vì vậy, GDTC cho trẻ em ở nước ta cần được tiến hành một cách
mạnh mẽ toàn diện, cần được sự quan tâm ủng hộ của toàn xã hội, tạo điều
kiện cho trẻ được phát triển tốt nhất.
Vì thế, chúng tôi rất quan tâm tới vấn đề GDTC cho trẻ nên chúng tôi
chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tổ chức
giáo dục thể chất cho trẻ mẫu giáo tại trường mầm non Phúc Thắng - Phúc
Yên - Vĩnh Phúc.
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng tổ chức GDTC cho trẻ em lứa tuổi mầm non và
đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức GDTC trong nhà
trường mầm non.
* Giả thiết khoa học
Các giải pháp đã được lựa chọn, áp dụng trong việc tổ chức hoạt động
GDTC cho trẻ mầm non sẽ có giá trị lớn trong nhiệm vụ phát triển thể chất cho trẻ
em, góp phần bổ sung lượng kiến thưc không ngừng phát triển GDMN.


8


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
1.1. Cơ sở lí luận xác định, định hướng nghiên cứu của đề tài
1.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác GDTC cho trẻ mầm
non
Hồ Chủ Tịch đã từng căn dặn: “Dạy trẻ như trồng cây non”, [II.15],
“Giáo dục mẫu giáo tốt sẽ mở đầu cho một nền giáo dục tốt”. Nhận thức được
vai trò quan trọng của GDMN trong sự hình, [II.10]. Thành phát triển nhân
cách con người Việt Nam hiện đại, giáo dục trẻ trước tuổi học - giáo dục tiền
học đường, luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, định hướng
xác định mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục học sinh lứa tuổi mầm non. Nghị quyết
số 14 NQ/TW Ngày 11/1/1979 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục đã chỉ rõ
“...kết hợp các biện pháp thể dục khoa học và những biện pháp y học hiện đại
để bảo vệ sức khỏe và rèn luyện các cháu, làm cho thể chất của các cháu ngay
từ bé đã được nuôi dưỡng và phát triển tốt", [8]. Trong thư gửi tạp chí “Vì trẻ
thơ” ngày 8/1/1997, nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười đã viết: “Bảo vệ và chăm
sóc giáo dục trẻ em, là một trong những mắt xích đầu tiên của q trìng triển
khai thực hiện chiến lược con người”.
Quan niệm giáo dục hiện đại và tiến bộ nhấn mạnh rằng, cùng với việc
chăm lo nuôi dưỡng, bảo vệ sức khoẻ của trẻ, chủ động tạo ra những kích
thích, làm nảy sinh nhu cầu phát triển mới, từng bước hoàn thiện và phát triển
nhân cách của trẻ. Vì vậy, việc chăm sóc và giáo dục trẻ ngay từ những năm
đầu tiên của cuộc sống, là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong sự nghiệp chăm lo đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ trở
thành những chủ nhân tương lai của đất nước.
Con người cần phải được giáo dục, đào tạo một cách có hệ thống ngay
từ khi bước những bước chập chững đầu tiên. Trong những điều kiện phát


9


triển giáo dục một cách đặc biệt, thì những khả năng tiềm tàng to lớn của trẻ
sẽ được bộc lộ, và do đó việc hình thành nhân cách cho trẻ sẽ thu được những
thành cơng to lớn. Nhiều cơng trình khoa học trên thế giới và ở Việt Nam đã
chứng minh lợi ích của việc “can thiệp” vào lứa tuổi mầm non đã chứng minh
điều đó. Việc chăm sóc sức khỏe của trẻ một cách khoa học từ khi trẻ cịn nhỏ
sẽ đảm bảo phát triển tồn diện, đúng hướng, làm cơ sở cho sự phát triển
trong những giai đoạn tiếp theo của con người.
Do vậy, giáo dục nói chung và GDTC nói riêng cho trẻ trước tuổi đi học
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nếu trẻ không được chăm sóc, GDTC đúng đắn
và có hệ thống sẽ gây nên những thiếu sót trong sự phát triển cơ thể của trẻ, mà
về sau khơng thể khắc phục được. Có thể nói, sự thành cơng trong bất kỳ hoạt
động nào của trẻ cũng đều phụ thuộc vào trạng thái sức khỏe. Sức khoẻ tốt sẽ tạo
điều kiện cho trẻ tiếp thu q trình giáo dục một cách tồn diện [II.3].
Quan điểm chiến lược về GD & ĐT và đào tạo đến năm 2020 là thực
hiện mục tiêu giáo dục toàn diện ở tất cả các bậc học, đáp ứng yêu cầu cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII đã
khẳng định: Ở bậc học, cấp học, ngành học nhất thiết không thể coi nhẹ việc
chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho học sinh, tạo mọi điều kiện cho các em được
rèn luyện thông qua các hoạt động, đặc biệt là hoạt động thể dục thể thao, để
bản thân các em luôn thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội [I.3].
1.1.2. Cơ sở khoa học của lý luận GDTC cho trẻ em lứa tuổi mầm non
1.1.2.1. Cơ sở khoa học xã hội
* Cơ sở triết học:
Trong đời sống thực tế xã hội, không có GDTC chung tồn tại ngồi
điều kiện lịch sử cụ thể. Trong mỗi chế độ kinh tế xã hội nhất định đều có
từng loại GDTC cụ thể.
Các nhà lý luận giáo dục duy tâm cho rằng, GDTC là bản tính hay nhu
cầu bản năng của con người giống như các sinh vật khác, GDTC mang tính



10

chất bẩm sinh của con người cũng tương tự như “sự giáo dục” - bắt chước của
loài vật như đi, chạy, nhảy... Với lập luận này, trên thực tế họ đã phủ nhận vai
trò của lao động và tư duy - một hiện tượng mới về chất đã làm cho con người
khác biệt với các loài vật. Theo họ, thực tiễn của hình thức giáo dục này nhằm
thoả mãn những u cầu bản năng nào đó và hầu như khơng có liên quan đến
yêu cầu xã hội. Do đó, họ đã phủ nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa xã hội và
giáo dục và cả nội dung của giáo dục.
Các nhà lý luận duy vật cho rằng, GDTC là một hiện tượng xã hội, là
phương tiện phục vụ xã hội, chủ yếu nâng cao thể chất, đồng thời tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển tinh thần của con người. Họ khẳng định rằng, chỉ
khi nào con người tự giác tập luyện các bài tập thể chất, nhằm phát triển cơ
thể của bản thân để chuẩn bị cho những hoạt động nhất định, thì lúc đó mới
có GDTC thực sự.
Các tư tưởng tiến bộ về giáo dục toàn diện con người cho rằng, con
người phải được phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần, đã xuất hiện trong
kho tàng văn hố chung của xã hội lồi người từ nhiều thế kỷ trước đây.
Từ nhà triết học cổ đại Hi Lạp Aristôt (384 - 322 tr.CN), những người
theo chủ nghĩa nhân đạo thời Phục Hưng như: Moongtenghơ (1533 - 1592),
những người theo chủ nghĩa không tưởng như: Saint - Simon (1760 - 1825),
Robert Owen (1771 - 1858), đến những nhà bác học và giáo dục nổi tiến của
Nga như: M.V.Lômônxốp (1771 - 1765), V.G.Belinxki (1811 - 1848),
K.Đ.Usinxki (1824 - 1870), N.G.Strecnưsépxki (1828 - 1889), P.Ph.Lexgáp
(1837 - 1909) và nhiều người khác nữa, đã phát triển bảo vệ tư tưởng của học
thuyết về sự phát triển hài hoà giữa năng lực thể chất và tinh thần của con người.
Tuy nhiên, do tính chất của quan hệ xã hội và lịch sử của chế độ ấy,
thực tế đã không vượt ra khỏi giới hạn của những ước mơ tuy cao đẹp nhưng
khơng có điều kiện khách quan để biến thành hiện thực.



11

Trên cơ sở nghiên cứu một cách sâu sắc các quy luật khách quan của sự
phát triển xã hội, Các Mác và Ăngghen đã chứng minh sự phụ thuộc của giáo dục
và điều kiện vật chất, khám phá bản chất xã hội và giai cấp của giáo dục. Các Mác
nhấn mạnh rằng: “Giáo dục trong tương lai sẽ kết hợp lao động sản xuất với chí
dục và thể dục, đó không những là biện pháp để tăng thên sức sản xuất của xã hội,
mà còn là biện pháp duy nhất để đào tạo con người phát triển tồn diện”.
Cơng lao lớn nhất của C. Mác là phát hiện ra sự tái xuất trong mỗi con
người để xã hội phát triển. Ông coi GDTC là một bộ phận hữu cơ của quá
trình giáo dục, là điều kiện tất yếu đối với việc phát triển con người một cách
toàn diện. GDTC là phương tiện quan trọng để phát triển thể lực con người và
nó phải được bắt đầu từ lứa tuổi nhỏ. GDTC cho trẻ mầm non là cơ sở phát
triển toàn diện, rèn luyện cơ thể, hình thành những thói quen vận động cần
thiết cho cuộc sống.
Như vậy, luận điểm về tính tất yếu của sự thống nhất giữa thể chất và
tinh thần, luận điểm về sự phát triển toàn diện giữa các mặt giáo dục đức, trí,
thể, mỹ và lao động trong học thuyết của Mác và sau này người kế tục là
V.I.Lênin đã trang bị cho lý luận GDTC phương pháp nhận thức và cho phép
nghiên cứu sâu sắc những quy luật sư phạm trong quá trình GDTC cho con
ngưịi nói chung cũng như cho trẻ mầm non nói riêng.
* Cơ sở tâm lý học:
Căn cứ vào những kiến thức về tâm lý học trẻ em như: Lý thuyết hoạt
động, các đặc điểm tâm lý lứa tuổi, các trạng thái tâm lý và các thuộc tính tâm
lý của trẻ em, các nhà giáo dục thiết kế hệ thống phương pháp GDTC phù hợp
với trẻ em.
* Cơ sở giáo dục học
GDMN cung cấp những kiến thức về mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục trẻ

em, nhưng quan điểm cơ bản, các nguyên tắc xây dựng chương trình chăm


12

sóc và giáo dục, các phương pháp, hình thức tổ chức chăm sóc giáo dục trẻ,
trong đó GDTC là một bộ phận của giáo dục phát triển toàn diện.
1.1.2.2. Cơ sở khoa học tự nhiên
Cơ sở khoa học tự nhiên của lý luận GDTC là tồn bộ các mơn khoa
học mà nhiệm vụ của chúng là nghiên cứu những quá trình phát triển sinh học
của con người. Những kiến thức về đặc điểm giải phẫu sinh lý, vệ sinh trẻ em
giúp cho việc bảo vệ sức khỏe của trẻ, việc tổ chức sinh hoạt hợp lý và hoạt
động vận động của các em. Những kiến thức khoa học này được xây dựng
trên cơ sở học thuyết của các nhà sinh học vĩ đại như: I.M.Xêtrênốp (1829 1905), I.P.Paplốp (1849 - 1936) và những người kế tục.
Các học thuyết đó bao gồm: Học thuyết về sự thống nhất giữa cơ thể và
môi trường, học thuyết về mối quan hệ tạm thời của các phản xạ có điều kiện
và sự hình thành định hình động lực, học thuyết về hệ thần kinh cao cấp.
1.2. Giáo dục mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân
GDMN là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, có vị trí
quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực con người, nhà giáo
dục học người Nga, Makarenko đã viết: “Những cơ sở căn bản của việc giáo
dục trẻ đã được hình thành trước tuổi lên năm. Những điều dạy trẻ trong thời
kì đó, chiếm 90% tiến trình giáo dục trẻ về sau, việc giáo dục đào tạo con
người vẫn tiếp tục, nhưng lúc đó bắt đầu nếm quả, cịn những nụ hoa đã được
vun trồng trong những năm đầu tiên.”[8]. Điều đó cho thấy rằng: Việc nuôi
dạy “con người” bắt đầu từ những năm đầu của cuộc sống là một việc làm hết
sức quan trọng và có ý nghĩa lớn lao về nhân văn, xã hội và kinh tế, nhưng lại
vô cùng vất vả và khó khăn.[2].
1.2.1. Mục tiêu của GDMN
Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí

tuệ thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên về nhân cách, chuẩn bị cho trẻ
vào lớp một.


13

1.2.2. Chương trình GDMN
(Ban hanh kèm theo thơng tư số: /2009/TT-BGDĐT ngày tháng năm
2009 của Bộ Trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
GDMN là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân. GDMN thực
hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi.
Mục tiêu của GDMN là giúp trẻ phát triển về mặt thể chất, tình cảm, trí
tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho
trẻ vào lớp một. GDMN tạo sự khởi đầu cho sự phát triển toàn diện của trẻ,
đặt nền tảng cho việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời.
GDMN được chia thành hai giai đoạn: nhà trẻ và mẫu giáo. Giai đoạn
nhà trẻ thực hiện việc ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em từ ba tháng đến
ba tuổi; giai đoạn mẫu giáo thực hiện việc ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
em từ ba tuổi đến sáu tuổi.
Chương trình GDMN là căn cứ để triển khai và chỉ đạo cơng tác chăm
sóc giáo dục trẻ trong các cơ sở GDMN, đồng thời là căn cứ để đào tạo bồi
dưỡng GVMN, tăng cường cơ sở vật chất và đảm bảo các điều kiện khác để
nâng cao chất lượng GDMN.
Chương trình GDMN thể hiện mục tiêu GDMN, cụ thể hố các u cầu
về ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em ở từng độ tuổi, quy định việc tổ
chức các hoạt động nhằm tạo điều kiện để trẻ em phát triển về thể chất, tình
cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hướng dẫn đánh giá sự phát triển của trẻ em ở lứa tuổi
mầm non.
1.2.3. Nhiệm vụ GDTC cho trẻ em lứa tuổi mầm non
Mục tiêu chung của giáo dục mẫu giáo là nhằm "hình thành ở trẻ những

cơ sở đầu tiên của nhân cách con người xã hội chủ nghĩa Việt Nam"
- Khỏe mạnh và nhanh nhẹn, cơ thể phát triển hồi hịa cân đối
- Giàu lòng thương, biết quan tâm nhường nhịn, giúp đỡ những người
gần gũi, thật thà lễ phép, mạnh dạn hồn nhiên.


14

- u thích cái đẹp, biết giữ gìn cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp ở
xung quanh
- Thông minh, ham hiểu biết, thích khám phá tìm tịi, có một số kỹ năng
sơ đẳng (quan sát, so sánh, tổng hợp) cần thiết để vào trường phổ thơng, thích
đi học
Để thực hiện được các mục tiêu trên, GDTC trong trường mẫu giáo có
những nhiệm vụ cụ thể sau:
a. Bảo vệ tính mạng và tăng cường sức khỏe, đảm bảo sự tăng trưởng
hài hòa của trẻ
- Đảm bảo chế độ dinh dưỡng, chế độ sinh hoạt hợp lý, tích cực phịng
bệnh, phịng tai nạn, làm tốt cơng tác vệ sinh mơi trường, sinh hoạt và thân
thể, không để trẻ mệt mỏi vì hoạt động quá sức hoặc thần kinh căng thẳng.
- Hướng dẫn tổ chức rèn luyện cho trẻ một cách hợp lý nhằm tăng
cường sức khỏe, phát triển cân đối hình dạng và các chức năng của cơ thể
tăng cường khả năng thích ứng của trẻ với những thay đổi của thời tiết hoặc
mơi trường bên ngồi.
b. Rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản và những phẩm chất
vận động
- Nhiệm vụ thứ hai của GDTC là giúp trẻ hình thành, phát triển và hồn
thiện các kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản (đi, chạy, nhảy, leo trèo), rèn luyện
năng lực phối hợp cảm giác với vận động, phối hợp các vận động của các bộ
phận cơ thể với nhau...

- Từng bước rèn luyện những phẩm chất của vận động, giúp trẻ vận
động ngày càng nhanh nhẹn, linh hoạt, dẻo dai, gọn gàng, ngày càng chính xá
khéo léo hơn.
c. Giáo dục nếp sống có giờ giấc, có thói quen và các kỹ năng kỹ xảo
vệ sinh cụ thể:
- Trường mẫu giáo có nhiệm vụ giáo dục cho trẻ nếp sống có giờ giấc.
Rèn luyện cho trẻ thói quen ăn, ngủ, thức đúng giờ và dễ dàng thích nghi khi


15

chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác. Những thói quen này khơng
những giúp trẻ ăn ngon, ngủ say, hoạt động thoải mái, ảnh hưởng tốt đến sức
khỏe của trẻ mà càng rất cần thiết để trẻ dễ dàng thích nghi với thời khóa biểu
sau này ở trường tiểu học.
- Về giáo dục kỹ năng, kỹ xảo vệ sinh về thân thể, về ăn uống, về quần
áo, và vệ sinh mơi trường, có thể hình thành ở trẻ và từng bước trở thành thói
quen của chúng.
1.2.4. Yêu cầu về nội dung, phương pháp Giáo dục trẻ lứa tuổi mầm non
Nội dung GDMN phải đảm bảo phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý
của trẻ em, hài hoà giữa ni dưỡng, chăm sóc và giáo dục, giúp trẻ phát triển
cân đối, khỏe mạnh, nhanh nhẹn, biết kính trọng yêu mến, lễ phép với ông bà,
cha mẹ, thầy cô giáo và người trên, yêu quý anh, chị, em, bạn bè, thật thà,
mạnh dạn, hồn nhiên, yêu thích cái đẹp, ham hiểu biết, thích đi học.
Phương pháp GDMN chủ yếu là thông qua việc tổ chức các hoạt động
vui chơi để giúp trẻ em phát triển toàn diện, chú trọng việc nêu gương, động
viên, khích lệ.
1.3. Đặc điểm hoạt động của nghề nghiệp của Giáo viên Mầm non
1.3.1. Khái niệm về nghề nghiệp
Nghề nghiệp theo tiếng Latinh “professio” có nghĩa là cơng việc

chun mơn được hình thành một cách chính thống, là dạng lao động địi hỏi
một trình độ học vấn nào đó, là cơ sở hoạt động cơ bản giúp con người tồn tại.
Theo tác giả E.A.Klimov thì “Nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức
lao động vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn, cần thiết
cho xã hội (do sự phân công lao động mà có) nó tạo cho con người khả năng
lao động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho việc tồn tại và
phát triển” [5].
Theo từ điển Tiếng việt, khái niệm nghề nghiệp là: “Công việc chuyên
làm theo sự phân công của xã hội” [9].


16

Từ một khái niệm trên, có thể hiểu nghề nghiệp là: “Công việc chuyên
làm theo sự phân công lao động của xã hội” [9].
Từ một số khái niệm trên, có thể hiểu nghề nghiệp như một dạng lao
động vừa mang tính xã hội (Sự phân cơng xã hội), vừa mang tính cá nhân
(nhu cầu bản thân) trong đó con người với tư cách là chủ thể hoạt động đòi
hỏi để thoả mãn những nhu cầu nhất định của xã hội và cá nhân. Và bất cứ
nghề nghiệp nào cũng hàm chứa trong đó một hệ thống giá trị: Tri thức nghề,
kỹ xảo nghề, truyền thống nghề, hiệu quả do nghề mang lại. Những giá trị này
có thể hình thành theo con đường tự phát (tức là do tích luỹ kinh nghiệm
trong q trình sống với cộng đồng mà có), hoặc theo con đường tự giác (do
được đào tạo trong các cơ sở trường, lớp dài hạn hay ngắn hạn).
Như vậy: Nghề nghiệp là một dạng lao động đòi hỏi ở con người một
q trình đào tạo chun biệt, có kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo chuyên môn nhất
định. Nhờ quá trình hoạt động nghề nghiệp, con người có thể tạo ra sản phẩm
thoả mãn những nhu cầu của cá nhân và xã hội.
1.3.2. Khái quát về nghề sư phạm
Ngay từ buổi bình minh của xã hội lồi người, khi con người chỉ săn bắt

hái lượm, lồi người đã có nhu cầu truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm. Nhờ
đó mà kinh nghiệm của con người được gìn giữ và cũng nhờ đó mà xã hội
cũng tồn tại và phát triển. Hoạt động truyền đạt và lĩnh hội đó được gọi là
hoạt động day học. Cùng với sự phát triển của xã hội, hoạt động dạy học được
thực hiện bởi thầy giáo, dạy học được coi là một nghề trong xã hội và ta gọi
nó là nghề dạy học hay nghề sư phạm. Nghề sư phạm là nghề đào tạo ra
những con người phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nghề
không đơn giản là dạy chữ mà còn là nghề “trồng người”, giáo dục, xây dựng
nên tâm hồn, nhân cách con người.
Trong bất cứ thời đại nào, xã hội nào thì nghề sư phạm đều cần thiết và
quan trọng. Vì giáo dục là nền tảng văn hoá của một nước, là sức mạnh tương


17

lai của một dân tộc. Người thầy giáo có vai trị to lớn trong q trình giáo dục
thế hệ trẻ, là người quyết định chất lượng đào tạo và là “cái cầu nối” giữa nền
văn hoá nhân loại và dân tộc, là mắt xích trong sợi dây chuyền nối liền các thế
hệ, các thời đại, là người trao “tín vật” của hiện tại cho tương lai. Chính điều
đó làm cho hoạt động của thầy giáo trở nên thiêng liêng và đầy sáng tạo.
Xã hội càng phát triển, càng đặt ra yêu cầu cao hơn đối với người lao
động. Do vậy vai trị và nhiệm vụ của cơng việc đào tạo thế hệ trẻ, chuẩn bị
cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống, hoà nhịp với xã hội ngày càng trở nên
nặng nề hơn. Trong thời đại ngày nay, chức năng của người thầy giáo rất tồn
diện, thầy giáo khơng chỉ là người truyền thụ tri thức khoa học hiện đại mà
còn là người tổ chức, điều khiển hoạt động học tập của học sinh.
Như vậy: Nghề sư phạm là một lĩnh vực hoat động của người thầy giáo
theo sự phân cơng cụ xã hội, trong đó người thầy sử dụng các năng lực thể
chất tinh thần và toàn bộ nhân cách của mình để dạy dỗ, giáo dục, đào tạo thế
hệ trở thành những con người hữu ích cho xã hội. Đó là nét đặc thù riêng, độc

đáo của lao động sư phạm mà khơng thể nào có được.
Như vậy bất kỳ loại lao động nào, lao động sư phạm là một hoạt động
có mục đích. Lao động sư phạm nhằm giáo dục thế hệ trẻ, hình thành ở họ
những phẩm chất và năng lực mà xã hội yêu cầu. Lao động sư phạm là quá
trình tác động qua lại giữa người dạy và người học, là quá trình truyền thụ
kinh nghiệm và tri thức của thế hệ trước cho thế hệ sau.
1.4. Đặc điểm hoạt động của nghề giáo viên mầm non
1.4.1. Đội ngũ GVMN
GVMN là những người làm nhiệm vụ ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
em trong trường, gồm: hiệu trưởng, phó hiệu trưởng và giáo viên nhóm, lớp.
Nhiệm vụ của GVMN:
GV trong nhóm, lớp có những nhiệm vụ sau đây:


18

- Thực hiện theo chương trình và kế hoạch ni dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trẻ em theo lứa tuổi, thực hiện theo quy chế chuyên môn và chấp hành nội
quy của nhà trường: Các phòng cho lứa tuổi nhà trẻ; các phòng cho lứa tuổi
mẫu giáo; phòng hoạt động âm nhạc; phòng rèn luyện thể chất; hội trường;
văn phòng trường; khối phòng tổ chức ăn; sân vườn; hệ thống cấp thoát nước,
vệ sinh; yêu cầu về thiết kế và xây dựng; trường được xây dựng theo mẫu
thiết kế do Bộ GD & ĐT quy định; nhà phải được xây dựng kiên cố; nhà phải
đảm bảo ấm về mùa đơng, thống mát về mùa hè; có đủ ánh sáng tự nhiên và
thoáng; nền nhà phải lát gạch men.
- Thiết bị đồ dùng, đồ chơi: Trường phải có đủ thiết bị đồ chơi, đồ dung
cá nhân theo quy định của GD & ĐT, đảm bảo u cầu của việc ni dưỡng,
chăm sóc, giáo dục trẻ. Trường phải có kế hoạch bảo quản, sửa chữa, thay thế,
bổ sung nâng cấp thiết bị, đồ dùng, đồ chơi.
1.4.2. Vị trí của người GV trong xã hội hiện đại

Người GV có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển
giáo dục của Đảng. Thầy giáo là cầu nối liền giữa nền văn hoá dân tộc và
nhân loại với sự tái sản xuất nền văn hố ấy trong chính đứa trẻ. Hoạt động
của người GVMN gồm có: Hoạt động dạy, hoạt động giáo dục, hoạt động tự
hồn thiện chun mơn nghiệp vụ và hoạt động xã hội.
Thời đại ngày nay, người GV không chỉ có chức năng truyền đạt tri
thức cho học sinh mà cịn có chức năng tác động tích cực đến sự hình thành
nhân cách cho học sinh. Người GV phải có tính tích cực cơng dân, có ý thức
trách nhiệm xã hội, hăng hái tham gia sự phát triển của cộng đồng. GV phải
có lịng u trẻ và hợp tác với trẻ. Nhà trường hiện đại phải tơ đậm tính nhân
văn của mình, nên hoạt động của GV phải chú ý đến mục tiêu nhân bản. Một
giờ lên lớp không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ tri thức khoa học, hình thành
các kĩ năng cụ thể mà phải hướng vào tạo dựng, phát triển nhân cách của học


19

sinh. Thầy giáo phải làm việc với tập thể học sinh, nhưng phải chú ý tới học
sinh. Vì vậy, quá trình dạy học và giảng dạy là việc làm đầy trách nhiệm của
người thầy giáo, có nhiệm vụ đào tạo hàng loạt cơng dân có nhân cách nhưng
lại phải vun trồng từng học sinh, làm nảy nở hết bản sắc riêng của mỗi học
sinh để chúng trở thành con người và đặc trưng cá nhân. Xét theo góc độ đó,
sản phẩm của nhà giáo dục khơng có khn mẫu nhân cách cố định. Bởi lẽ,
trẻ em này khác trẻ em khác, trẻ em này khơng hồ tan vào trẻ em khác, nó là
nó nhưng khơng chỉ là nó ở trong xã hội trẻ em, trong cộng đồng. Thầy giáo
trong xã hội hiện đại khơng phải dạy cái gì thầy thích mà phải dạy trò cái mà
xã hội hiện đại yêu cầu. Thầy giáo là người đại diện cho trí tuệ thời đại. Xa
xưa, thầy giáo chỉ cần học một lần là đủ dùng cho cả cuộc đời, ngày nay, thầy
giáo phải được đào tạo cao về học vấn, cao về khoa học nghiệp vụ, đồng thời
thầy phải học suốt đời.

1.4.3. Đặc thù lao động của GVMN
Đối tượng lao động trực tiếp của người GVMN là trẻ em từ 0 - 6 tuổi.
Các em có quy luật tâm sinh lí riêng, là lứa tuổi tiềm ẩn những khả năng phát
triển rất lớn. Do đó, thầy giáo phải có tình thương u, lịng tin và sự tơn
trọng đối với trẻ em, đối xử công bằng, dân chủ và tế nhị trong cách cư xử,
mềm dẻo nhưng kiên quyết.
Công cụ lao động của người thầy giáo là trí tuệ và phẩm chất của chính
mình. Người thầy giáo dùng trí tuệ của mình để tác động vào đối tượng, dùng
nhân cách đã ổn định của mình tác động lên nhân cách cịn đang non trẻ, đang cần
rèn luyện. Công cụ này sẽ tác động có hiệu quả khi thầy có uy tín cao, tức là phẩm
chất và năng lực, đức và tài của thầy cao thì sức thuyết phục học sinh càng lớn.
Lao động của GVMN tạo ra sản phẩm đặc biệt, đó là trang bị cho trẻ
em kĩ năng sống, kĩ năng vận động, khả năng tư duy và nhân cách trước tuổi
ngồi trên ghế nhà trường phổ thông.


20

Trong bài thơ “Nửa đêm”, Bác Hồ có viết: “Hiền dữ phải đâu là tính
sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”.
Makarenko đã đúc kết: “Không sợ học sinh hỏng mà sợ giáo dục
hỏng”. Suy nghĩ cho thấy con người chỉ sinh ra con người, còn giáo dục mới
sản sinh ra nhân cách. Nói cách khác, lao động của nhà giáo là lao động sản
xuất ra nhân cách, sản xuất ra giá trị nhân loại. Sản phẩm lao động của nhà
giáo gắn liền với tương lai dân tộc, loài người. Lao động của nhà giáo là tạo
ra sức lao động mới trong từng con người. Nghề dạy học là nghề tái sản xuất,
mở rộng sức lao động.
Khác với GV các bậc học khác, GVMN được đào tạo để giảng dạy tồn
diện các mơn học thuộc cấp học, nên họ có tác động cực kì to lớn đến tâm
hồn, nhân cách và trí tuệ của trẻ. Họ vừa là người dạy chữ, dạy kiến thức, dạy

trẻ những kĩ năng cơ bản của cuộc sống, vừa là người quản lí giáo dục, người
tổ chức quá trình dạy học, người chịu trách nhiệm toàn diện và triệt để đối với
sự tiến bộ của trẻ.
1.4.4. Yêu cầu chuẩn về nghề nghiệp của GVMN
* Yêu cầu thuộc lĩnh vực phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống: Chấp
hành các quy định của pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước. Là người có đạo đức tốt, lối sống lành mạnh giản dị, yêu nghề, mến trẻ,
thân thiện với đồng nghiệp. Chăm sóc giáo dục trẻ bằng tình thương, sự cơng
bằng và trách nhiệm của một nhà giáo. Tích cực học tập, nghiên cứu, tiếp cận
nhu cầu của xã hội để phát triển, đóng góp cho ngành nghề trong cơng tác xã
hội hố GDMN.
* Các yêu cầu thuộc lĩnh vực kiến thức: Hiểu biết cơ bản về đặc điểm
tâm lý, sinh lý trẻ lứa tuổi mầm non. Nắm vững chương trình GDMN hiện
hành của Bộ GD & ĐT. Hội tụ đầy đủ kiến thức và kỹ năng về ni dưỡng,
chăm sóc, giáo dục, phát triển thể chất cho trẻ. Có kiến thức xã hội sâu rộng,


21

định hướng phát triển đối với trẻ. Có phương pháp tổ chức hoạt động chơi cho
trẻ, tạo nhiều tình huống, khơi dậy sự hứng thú, tính tị mị thúc đẩy sự phát
triển của trẻ lứa tuổi mầm non.
* Các yêu cầu thuộc lĩnh vực kỹ năng sư phạm: Biết lập kế hoạch theo
dõi, chăm sóc, giáo dục trẻ theo tuần, theo tháng, theo năm. Tổ chức các hoạt
động chăm sóc, giáo dục trẻ theo hướng tích hợp, phát huy tính tích cực, sáng
tạo của trẻ. Dạy trẻ một số kỹ năng tự phục vụ, chăm sóc cho bản thân. Biết quan
sát, đánh giá trẻ và có phương pháp chăm sóc, giáo dục trẻ phù hợp. Giao tiếp,
ứng xử nhẹ nhàng với đồng nghiệp, gia đình trẻ và những người xung quanh.
“Khơng cịn nghi ngờ gì chất lượng giáo dục phụ thuộc rất lớn vào
khơng khí chung của nhà trường, nhưng điều quan trọng hơn cả vẫn là ở nhân

cách của người GV, con người thường xuyên tiếp xúc với trẻ. Ảnh hưởng
nhân cách của GV lên tâm hồn trẻ tạo nên một sức mạnh giáo dục to lớn mà
sách giáo khoa, các lời thuyết giáo đạo đức, khen thưởng và trách phạt khơng
thể thay thế được” (K.D.Usinxki). Do đó, người GVMN cần có yêu cầu chuẩn
về nghề nghiệp như sau [I.2].
1.5. Nội dung và phương pháp Giáo dục Thể chất cho trẻ mẫu giáo
1.5.1. Nội dung GDMN
Nội dung giáo dục mầm non phải đạt các yêu cầu:
- Đảm bảo tính khoa học, tính vừa sức và nguyên tắc đồng tâm phát
triển từ dễ đến khó; đảm bảo tính liên thơng giữa các độ tuổi, giữa nhà trẻ,
mẫu giáo và cấp tiểu học; thống nhất giữa các nội dung giáo dục với cuộc
hiện thực, gắn với cuộc sống và kinh nghiệm của trẻ, chuẩn bị cho trẻ từng
bước hòa nhập vào cuộc sống.
- Phù hợp với sự phát triển tâm sinh lý của trẻ em, hài hịa giữa ni
dưỡng, chăm sóc và giáo dục; giúp trẻ em phát triển cơ thể cân đối, khỏe
mạnh, nhanh nhẹn; cung cấp kỹ năng sống phù hợp với lứa tuổi; giúp trẻ em
biết kính trọng, yêu mến, yêu thích cái đẹp; ham hiểu biết, thích đi học.


22

1.5.2. Phương pháp GDMN
Phương pháp GDMN chủ yếu là thông qua việc tổ chức các hoạt động
chơi để giúp trẻ em phát triển toàn diện; chú trọng việc nêu gương, động viên,
khích lệ.
- Đối với giáo dục nhà trẻ, phương pháp giáo dục phải chú trọng giao tiếp
thường xuyên, thể hiện sự yêu thương và tạo sự gắn bó người lớn với trẻ; chú ý
đặc điểm cá nhân trẻ để lựa chọn phương pháp giáo dục phù hợp, tạo cho trẻ có
cảm giác an tồn về thể chất và tinh thần; tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ được
tích cực hoạt động giao lưu cảm xúc, hoạt động với đồ vật và vui chơi, kích thích

sự phát triển các giác quan và các chức năng tâm - sinh lý; tạo mơi trường giáo
dục gần gũi với khung cảnh gia đình, giúp trẻ thích nghi với nhà trẻ.
- Đối với giáo dục mẫu giáo, phương pháp giáo dục phải tạo điều kiện
cho trẻ được trải nghiệm tìm tịi, khám phá mơi trường xung quanh dưới
nhiều hình thức đa dạng, đáp ứng nhu cầu, hứng thú của trẻ theo phương trâm
"chơi mà học, học mà chơi". Chú trọng đổi mới tổ chức mơi trường giáo dục
nhằm kích thích và tạo cơ hội cho trẻ tích cực phám phá, thử nghiệm và sáng
tạo ở các khu vực hoạt động một cách vui vẻ.
Kết hợp hài hịa giữa giáo dục trẻ trong nhóm bạn với giáo dục cá
nhân, chú ý đặc điểm riêng của từng trẻ để có phương pháp giáo dục phù hợp.
Tổ chức hợp lý các hình thức hoạt động cá nhân theo nhóm nhỏ và cả lớp,
phù hợp với độ tuổi của nhóm/lớp, với khả năng của từng trẻ, với nhu cầu và
hứng thú của trẻ và với điều kiện thực tế.
1.6. Đặc điểm phát triển thể chất ở trẻ em lứa tuổi mầm non
* Đặc điểm phát triển của trẻ em lứa tuổi mầm non
Thể chất là chất lượng cơ thể con người có thể vận dụng vào thực hiện
một việc nào đó trong học tập, lao động, thể thao...
Phạm trù thể chất thường bao gồm các mặt về: Tầm vóc cơ thể, năng
lực cơ thể, năng lực thích ứng của cơ thể, trạng thái tâm lí.


23

Phát triển thể chất là quá trình thay đổi hình thái và chức năng sinh học
của cơ thể con người, là tổng hợp các đặc tính hình thái của cơ thể, đặc trưng
cho quá trình trưởng thành của cơ thể ở mỗi giai đoạn phát triển.
Nói đến sự phát triển thể chất của trẻ em là đề cập đến sự lớn lên của
trẻ em về mặt hình thể nên ngồi những thay đổi và hoàn thiên chức năng của
các cơ quan tương ứng với độ tuổi.
Như vậy, đánh giá sự phát triển thể chất của trẻ em dựa vào các chỉ số

về hình thái (chiều ao, cân nặng, vịng đầu...) và chức năng sinh học (nhịp
tim, nhịp hô hấp, huyết áp...) của cơ thể.
Sự phát triển thể chất của trẻ em khác nhau theo từng lứa tuổi và diễn
ra theo quy luật nhất định trong cùng một độ tuổi. Sự phát triển thể chất có
liên quan chặt chẽ tới yếu tố di truyền và môi trường sống của trẻ em. Nó có
ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới các lĩnh vực phát triển vận động và tinh
thần của trẻ.
- Tuổi nhà trẻ: Trẻ từ 0 - 3 tuổi: Một trong những chỉ số quan trọng của
sự phát triển thể chất là sự tăng cân bình thường. Ngồi ra cần chú ý đến chỉ
số chiều cao, kích thước vịng đầu, mọc răng...Tình trạng các hệ cơ, hệ xương,
hệ thần kinh, các cơ quan nội tạng cũng như sự phát triển tâm lí có ý nghĩa to
lớn đối với sự phát triển cân đối của trẻ.
- Tuổi mẫu giáo: Trẻ từ 3 - 6 tuổi: Đây là thời kỳ thuận lợi để trẻ tiếp thu
và củng cố các kỹ năng cần thiết. Trẻ em lứa tuổi này lớn nhanh, cảm thấy như
gầy hơn, mất vẻ trịn trĩnh, mập mạp đã có ở tuổi nhà trẻ. Đặc trưng của trẻ em
lứa tuổi này là cơ thể phát triển chưa ổn địnhvà khả năng vận động còn hạn chế.
* Đặc điểm phát triển vận động ở trẻ em
Phát triển vận động của trẻ trong năm đầu
- Giai đoạn từ 1,5 - 3 tháng: Giai đoạn này trẻ đã có thời gian thức sau
khi ăn nên ta có thể áp dụng một số bài tập vận động cho trẻ. Điều kiện cơ


24

bản để phát triển đầy đủ thể lực và thần kinh ở giai đoạn này là tạo cho trẻ có
trạng thái cảm súc tốt. Có thể áp dụng các bài tâp xoa vuốt nhẹ các ngón tay
và chân để giảm trương lực cơ gấp, tăng khả năng duỗi của cơ. Đến cuối
tháng thứ hai sang tháng thứ ba tập cho trẻ biết nâng và giữ đầu cao, có ý
nghĩa lớn cho sự phát triển của não. Sự vân động của đầu làm cho tuần hoàn
tốt hơn, mở rộng sự hiểu biết của trẻ, não nhận thức được nhiều kích thích từ

bên ngoài.
- Giai đoạn từ 3 - 4 tháng: Giai đoạn này đã có sự cân bằng trương lực cơ
duỗi của tay, trẻ có thể co, duỗi tay dễ dàng. Ta có thể áp dụng các bài tập thụ
động cho tay như: Cho trẻ duỗi các ngón tay, sờ vào tay của mình, với lắc hay
giữ đồ chơi. Chân của trẻ chưa có sự cân bằng trương lực giữa cơ co và duỗi nên
cần tập các bài tập xoa vuốt nhẹ, bài tập phản xạ cho chân và bàn chân.
- Giai đoạn từ 4 - 6 tháng: Ở trẻ đã có sự cân bằng trương lực cơ co và
duỗi của chân, xuất hiện động tác trườn. Các nhóm tay, chân, ngực và bụng
được củng cố. Tháng thứ tư đến tháng thứ năm trẻ đã hình thành đường dẫn
truyền thính giác, khi cho trẻ tập nên phối hợp đếm để tăng mức độ nhịp
nhàng của động tác và rèn luyện phản xạ vận động với âm thanh. Tháng thứ
sáu trẻ có thể lẫy thành thạo, có thể đứng hoặc ngồi nếu được đỡ lưng và bắt
đầu tập bò.
- Giai đoạn tư 6 - 9 tháng: Trẻ ở giai đoạn này phát triển nhanh các vận
động và các hoạt động tương đối nhịp nhàng. Tháng thứ bảy, trẻ biết nâng
người bằng hai tay, hai chân và bò. Đây là giai đoạn quan trọng trong qua
trình phát triển, là vận động chuyển từ tư thế nằm sang đứng, củng cố các cơ
lưng, bả vai, tác động đến cột sống. Đến tháng thứ tám trẻ có thể ngồi và
đứng vịn. Do vậy, giai đoạn này cần dạy trẻ các bài tập củng cố toàn thân,
nhằm phát triển khả năng ngồi, bò, đứng và đi men cho trẻ. Hệ thống tín hiệu
thứ hai tiếp tục được hoàn thiện, trẻ hiểu được một số từ, bắt đầu nói bập bẹ
nên trong q trìng tập luyện cần nói chuyện với trẻ để điều khiển động tác.


25

- Giai đoạn từ 9 - 12 tháng: Trẻ có thể thay đổi tư thế trong không gian
một cách dễ dàng, nên tập cho trẻ những bài tập thay đổi tư thế đứng, ngồi, đi
theo vật di chuyển...Cho trẻ tập với đồ chơi khác nhau, tập bắt chước các vận
động của người hướng dẫn, kết hợp với việc sử dụng lời nói để hướng sự chú

ý của trẻ đến việc thực hiện bài tập.
Phát triển vận động của trẻ hai tuổi: Sự phát triển vận động diễn ra trên
cơ sở của những vận động tự đi bộ, cảm giác thăng bằng, vận động bò, vận
động lăn và ném. Như vậy, khi trẻ lên hai, đa số các vận động cơ bản đã được
vận động cơ bản đã được hình thành, trừ vận động chạy và nhảy. Khi quan sát
trẻ chơi cho thấy, trẻ có khả năng bắt chước cao và dần dần tự thực hiện động
tác. Khả năng phối hợp vận động của trẻ hai tuổi cũng trở nên rõ rệt hơn.
Phát triển vận động của trẻ ba tuổi: Vai trò điều chỉnh của trẻ ở lứa tuổi
này tốt hơn, các phản xạ có điều kiện được hình thành nhanh chóng, các q
trình kìm hãm được phát triển. Trẻ có cảm giác thường xuyên đòi hỏi thay đổi
vận động, trẻ khơng giữ được mình trong tư thế n tĩnh, cần phải luân phiên
giữa vận động và nghỉ ngơi. Sự phát triển vận động của trẻ diễn ra trên cơ sở
những vận động đi, chạy có cảm giác thăng bằng, vận động nhảy, vận động bò
và ném. Như vậy, để phát triển những vận độngkhác nhau ở trẻ, phải sử dụng
nhiều loại dụng cụ khác nhau ở trẻ, phải sử dụng nhiều loại dụng cụ khác
nhau nhằm gây hứng thú và lòng ham muốn vận động của trẻ.
Phát triển vận động của trẻ bốn tuổi: Tốc độ phát triển thể lực ở lứa
tuổi này chậm hơn so với lứa tuổi trước, nhưng q trình cốt hố ở xương
diễn ra nhanh. Khả năng làm việc của hệ thần kinh còn yếu, nên nếu vận động
nhiều, nặng thì trẻ nhanh mệt mỏi. Các phản xạ có điều kiện được hình thành
nhanh, song củng cố cịn chậm. Vì vậy những thói quen vận động mới được
hình thành khơng bền vững, dễ sai lệch. Sự phát triển vận động của trẻ diễn ra
trên cơ sở những vận động đi, chạy và cảm giác thăng bằng, vân động nhảy,
vận động ném, chuyền, bắt, vận động bò, trườn, trèo.


×