Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Giải pháp thu hút đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.43 KB, 21 trang )

: Giải pháp thu hút đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ
tầng cấp nước đô thị
3.1. Phương hướng, mục tiêu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô
thị
3.1.1. Cơ sở xác định phương hướng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước
đô thị
3.1.1.1. Quan điểm phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị.
Để đáp ứng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, khả năng cung cấp nước
sạch cần phải đáp ứng đủ cả về số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu nước
sinh hoạt và sản xuất ngày càng tăng của nhân dân.
Hệ thống cấp nước đô thị chủ yếu là cấp nước cục bộ cho từng địa
phương. Trong thời gian tới cần phải có các giải pháp cấp nước khác nhau để
phù hợp với tính chất phát triển theo vùng, liên vùng. Nghiên cứu phương án
xây dựng các công trình cấp nước quy mô lớn cấp vùng. Tuỳ theo tình hình
nguồn nước từng địa phương có phương án sử dụng nguồn nước ngầm,nguồn
nước mặt hợp lý.
Ngoài các công trình cấp nước ( tiếp nguồn ) đã có cần xây dựng thêm
các công trình hồ chứa nước, các công trình đập tràn để tận dụng giữ và điều tiết
nước đảm bảo nguồn nước cấp cho nhu cầu phát triển đô thị, công nghiệp, du
lịc.
Khai thác hợp lý các công trình cấp nước hiện có; mở rộng, nâng cấp và
đầu tư xây dựng mới các công trình phù hợp với sự phát triển của các đô thị
trong giai đoạn đến năm 2010 và có định hướng cho năm 2015.
3.1.1.2. Phương hướng, quy hoạch phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị:
Ngày 18/03/1998 Thủ tướng Chính Phủ đã phê duyệt Định hướng phát
triển cấp nước đô thị quốc gia đến năm 2015 với các nội dung chủ yếu như sau:
Định hướng cho việc phát triển ngành cấp nước đô thị phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; từ đó, lập kế hoạch đầu tư phù hợp để
phát triển hệ thống cấp nước các đô thị một cách ổn định và bền vững trong
từng giai đoạn.
Điều tra, khảo sát, khai thác đi đôi với bảo vệ tài nguyên nước quôc gia;


các nguồn nước mặt, nước dưới đất, sông ngòi, hồ chứa nước tự nhiên và nhân
tạo tại các vùng khác nhau, chú ý tới các đô thị vùng ven biển, vùng khô hạn,
vùng núi, cao nguyên và các vùng đặc trưng khác.
Nâng cao chất lượng phục vụ cấp nước cho sản xuất và dân sinh tại các
vùng đô thị, tạo điều kiện giúp đỡ các công ty cấp nước tự chủ về tài chính,
đồng thời thực hiện các nghĩa vụ công ích và chính sách xã hội.
Mục tiêu đến năm 2015 phấn đấu đạt chỉ tiêu cấp nước như sau: 100%
dân số đô thị được cấp nước sạch với tiêu chuẩn 150 – 180 lit/ người/ ngày đối
với đô thị lớn và 120 – 150 lít/ người/ngày đối với các đô thị vừa và nhỏ. Các thị
trấn, thị tứ phấn đấu 80% dân số được cấp nước sạch với lượng nước 80-100lít/người/ngày đêm.
Hiện tổng công suất cấp nước đạt khoảng 3,7triệu m3/ngày; đến năm 2010 dự kiến đạt khoảng 6,5
triệu m3/ngày; nhu cầu vốn khoảng 2,6 tỷ USD; đến năm 2015 dự kiến đạt tổng công suất 13,5 triệu
m3/ngày; nhu cầu vốn khoảng 5,5 tỷ USD. Ngoài việc triển khai các chương trình, dự án cấp nước các
thành phố lớn, các khu đô thị mới và khu công nghiệp cần khẩn trương tiến hành công tác chuẩn bị
đầu tư, lập dự án, tìm nguồn tài trợ cho cấp nước các thị trấn, thị tứ.
Đào tạo cán bộ đổi mới công tác quản lý phù hợp với đường lối công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng và nhà nước; tăng cường năng lực các công
ty tư vấn đủ mạng để đảm đương được công tác lập dự án, thiết kế các hệ thống
cấp nước.
Phát triển khoa học kỹ thuật, tăng cường ứng dụng công nghệ mới thông
qua chuyển giao công nghệ, từng bước hiện đại hoá hệ thống cấp nước trong các
đô thị.
Đẩy mạnh đầu tư cho sản xuất thiệt bị, vật tư, phụ tùng trong nước với
chất lượng cao để thị trường trong nước và quốc tế chấp nhận.
Áp dụng các tiêu chuẩn, quy phạm tiên tiến đưa ngành cấp nước Việt
Nam hội nhập với các nước trong khu vực phù hợp với chính sách mở cửa và
mở rộng hợp tác quốc tế của Đảng và Chính phủ
Giảm thất thoát, thất thu nước thêm 10%
Khai thác hợp lý các công trình cấp nước hiện có
Nâng cấp và đầu tư xây dựng mới các công trình phù hợp với sự phát

triển của các đô thị
Tập trung thu hút nguồn vốn trong dân cư, nguồn vốn tư nhân để đầu tư
phát triển mạng lưới, tránh dựa dẫm vào Ngân sách Nhà nước, vốn ODA.
3.1.1.3. Dự báo nhu cầu nguồn vốn đến năm 2015 cho việc cung cấp dịch vụ cấp
nước đô thị
Dựa trên quan điểm phát triển cũng như phương hướng quy hoạch và
mục tiêu phát triển ngành cấp nước đô thị , NHTG và Chính phủ Việt Nam đã
có ước tính nhu cầu vốn để đạt được các mục tiêu về phát triển cơ sở hạ tầng
cấp nước đô thị, nhu cầu đó được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 3.1 : Dự báo nhu cầu nguồn vốn tới năm 2015 cho việc cung cấp dịch
vụ cấp nước cho 100% các khu vực đô thị (Tỷ USD)
Đơn vị: Triệu dân, Tỷ USD
Ước tính của WB năm 2000 năm 2010 năm 2015
Tổng số dân đô thị 19 32 46
Số dân cần nước máy 9,88 22,88 36,88
Nhu cầu về vốn cho 100% cấp nước đô thị 1,6302 4,57502 5,58502
Nguồn : Chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng Việt Nam
( Tỷ giá quy đổi: 1 USD = 16.000 VNĐ)
Theo dự báo trên đến năm 2015, tổng số dân đô thị là 46 triệu người số
dân có nhu cầu sử dụng nước máy là gần 37 triệu người và tổng số vốn để đầu
tư để phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đến năm 2015 là hơn 5,5 tỷ USD.
Như vậy ta thấy, năm 2015 tỷ lệ số dân cần nước máy trên tổng số dân là
80,17% so với năm 2010 là 71,5% tăng 8,67%, so với năm 2000 là 52% tăng
19,5%. Điều đó cho thấy tỷ lệ số dân cần nước máy trên tổng số dân đô thị ngày
càng tăng, kèm theo đó nhu cầu về vốn cho cấp nước đô thị cũng tăng dần theo
các năm, cụ thể là năm 2015 nhu cầu về vốn tăng hơn 1 tỷ USD so với năm
2010, và tăng gần 4 tỷ USD so với năm 2000. Điều này hòan tòan hợp lý với
nhu cầu tiêu dùng của người dân và xu hướng phát triển của xã hội.
Bảng 3.2 : Dự kiến nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô
thị giai đoạn 2008-2015

Đơn vị:Tỷ USD
2008 2010 2015
Tổng vốn đầu tư 3,2 4.5 5,6
Tỷ trọng 100 100 100
1. Vốn NSNN
- Quy mô 0,5 0,5 0,4
- Tỷ trọng 15,6 8,88 7,14
2. Vốn tín dụng ĐTPT
- Quy mô 0,8 1,5 2,3
- Tỷ trọng 25 33,4 41,07
3. Vốn ODA
- Quy mô 1,1 1,2 1,3
- Tỷ trọng 34,4 26,6 23,2
4. Vốn khác ( DN, tư nhân..)
- Quy mô 0,8 1,4 1,6
- Tỷ trọng 25 21,12 28,6
Nguồn : Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị
Theo bảng kế hoach nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị ở trên cho thấy, với sự tăng quy mô và tỷ trọng các nguồn vốn ta
thấy: trong giai đoạn 2008-2015 nguồn vốn Ngân sách nhà nước và vốn ODA
có xu hướng giảm qua các năm cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 5,6 tỷ
USD , trong đó nguồn vốn tư nhân chiếm 1,6 tỷ USD, tức là tăng khoảng 2 tỷ
USD so với năm 2010.
Qua bảng 12 về cơ cấu các nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị, ta thấy nguồn vốn đầu tư tư nhân cần cho đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng đến năm 2015 chiếm khoảng 28,6 % tổng số vốn, tức là chiếm vị trí thứ hai
sau vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, điều đó cho thấy vai trò ngày
càng quan trọng của nguồn vốn tư nhân trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để huy động được nguồn vốn này
nhằm thực hiện đúng chỉ tiêu đề ra, chuyên đề xin đề ra một số biện pháp chủ

yếu sau:
3.2. Giải pháp thu hút đầu tư tư nhân phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô
thị
3.2.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan đến việc thu hút đầu tư tư nhân
tham gia phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị.
Đến nay, ngòai các văn bản quy phạm pháp luật có tính chất điều chỉnh
chung thì hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng
cấp nước đô thị đang ngày càng hoàn thiện hơn trước. Tuy nhiên, cơ chế chính
sách về việc thu hút đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị vẫn chưa
thực sự hấp dẫn. Trong việc thu hút đầu tư tư nhân tham gia vào việc đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thì các nhà đầu tư tư nhân thường đánh
giá các khỏan thu từ đầu tư như cước phí sử dụng nước sạch, chính sách tính
giá…Nếu các vấn đề này không mang lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư tư nhân
thì rất khó thu hút họ tham gia. Chính phủ vẫn chưa có một cơ sở pháp lý chi
tiết để tạo môi trường thông thoáng cho tư nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực
này. Chính vì vậy cần có một cơ chế, chính sách cần được nghiên cứu làm rõ
hơn:
3.2.1.1. Chính sách giá nước :
Thực trạng hoạt động của các công ty cấp nước hiện nay về hình thức thì
có vẻ như đang hoạt động kinh doanh, bởi vì sản phẩm nước sạch vẫn bán cho
các hộ tiêu dùng theo hợp đồng; các chi phí đầu vào vẫn được hạch toán theo
định mức kinh tế kỹ thuật nội bộ hoặc cấp tỉnh ban hành. Tuy nhiên, giá nước
sạch do Uỷ ban Nhân dân, Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh quy định, giá bán bình
quân thấp hơn giá thành sản xuất.
Vì vậy tỉnh phải chấp nhận để doanh nghiệp cấp nước chưa tính đủ hoặc
có nơi chưa tính khấu hao tài sản cố định vào giá thành. Việc sửa chữa lớn, bảo
dưỡng hệ thống cấp nước nhiều nơi phải dựa vào ngân sách cấp phát. Doanh
nghiệp cấp nước chưa tự chủ về tài chính.
Để xây dựng giá nước đảm bảo được kinh doanh và khả năng chi trả của
người dân thì trước hết cần nghiên cứu cách thức thống nhất đánh giá lại tài sản

cố định và chi phí khấu hao đưa vào gía thành. Gía nước không nên để Uỷ ban
Nhân dân, Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh quyết định. Hiện nay có nhiều ý kiến
cho rằng, Nhà nước chỉ nên ban hành khung giá nước sạch cho từng vùng, giá
bán cụ thể phải do thị trường và người sản xuất quyết định.
Dần dần xoá bỏ cơ chế bao cấp trong hạch toán kinh doanh. Nước sạch phải được coi là sản phẩm
hàng hoá, giá tiêu thụ phải được phản ánh đầy đủ giá trị của nó. Xây dựng giá tiêu thụ nước sạch phải đảm
bảo nguyên tắc: Đủ bù đắp cho mọi chi phí sản xuất, đảm bảo thu hồi vốn đầu tư và lãi suất vay đầu tư,
nhưng mọi chi phí sản xuất, đảm bảo thu hồi vốn đầu tư và lãi suất vay đầu tư, nhưng nước sạch là hàng hoá
tiêu dùng phục vụ nhu cầu thiết yếu đời sống của nhân dân, giá phải phù hợp mức sống của nhân dân, được
người tiêu dùng chấp thuận. Để giá tiêu thụ nước sạch không vượt khả năng chi trả của người tiêu dùng, nhà
nước cần có những chính sách ưu đãi đầu tư như hạ thấp lãi suất vay, kéo dài thời hạn cho vay, có chính sách
đối với người thu nhập thấp.
3.2.1.2. Môi trường pháp lý:
Hiện khung pháp lý về BOT (kể cả dự thảo Nghị định BOT mới) vẫn
chưa rõ ràng, chưa tạo được làn sóng đầu tư của các nhà đầu tư trong nước và
nhà đầu tư nước ngòai nước ngoài vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở
Việt Nam. Trong nhiều trường hợp, thời hạn chuyển giao của các dự án BOT
không được rõ ràng, điều kiện chuyển giao quyền sở hữu khi kết thúc thời hạn
của loại hình BOT, về mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật ( như nghị định về
BOT, Luật về đầu tư chung, Luật thuế …)
Do vậy chính phủ cần soạn thảo một nghị định BOT để thay thế. Cần quy
định rõ trong những trường hợp nào thì có thể trao hợp đồng BOT và xác định
ai có thẩm quyền ký hợp đồng BOT…
Giải quyết các vấn đề về đầu tư theo BOT không chỉ dừng lại ở giải quyết
cơ chế thuế hay quy trình cấp phép mà còn là vấn đề về tài trợ dự án. Hiện nay
các công ty nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn trong tìm tài trợ cho dự án BOT
do: các công ty nước ngoài không vay được các ngân hàng trong nước vì họ
không có tài sản thế chấp (thế chấp theo kiểu tài trợ dự án hiện còn nhiều hạn
chế); Các ngân hàng nước ngoài lại không có quyền nhận thế chấp để cho các
công ty nước ngoài vay. Vì vậy, nên cho phép các công ty BOT được quyền huy

động vốn bằng nhiều cách khác nhau như thông qua phát hành trái phiếu công
ty hay bán cổ phần. Hơn nữa, Nhà nước nên cho các ngân hàng nước ngòai
quyền lớn hơn trong quản lý và chuyển nhượng các dự án BOT. Một khi lợi
nhuận dự kiến của công ty BOT không đạt mức mà các ngân hàng mong đợi thì
các ngân hàng cần có quyền tiếp nhận và bán cho bên thứ ba. Hiện nay, bên thứ
ba này cần nhận được sự chấp thuận từ phía đối tác Việt Nam (Bộ ký hợp đồng
BOT như Bộ GTVT, Bộ CN). Tuy nhiên các Bộ này chắc chắn sẽ không chấp
thuận trước khi biết chính xác đối tác đầu tư mới là ai. Đây cũng đang là một
cản trở cho vấn đề tài trợ dự án BOT.
Hầu hết các công ty BOT quan tâm nhiều nhất đến quyền được khai thác
dịch vụ gia tăng - đây là vấn đề chưa được đề cập trong dự thảo nghị định BOT.
Thay vì không chấp nhận các dịch vụ gia tăng này, Chính phủ có thể đàm phán
để tìm mô hình cùng các nhà đầu tư khai thác các dịch vụ gia tăng đó. Hiện nay
các cơ quan chức năng xem xét và duyệt từng dự án cụ thể; hậu quả là các nhà
đầu tư phải xin phép nhiều cấp, nhiều tầng, rất mất thời gian và chi phí giao
dịch.
Đàm phán hợp đồng BOT thực ra là việc đàm phán giữa lợi ích Nhà nước
và lợi nhuận của tư nhân, vì vậy cần một đội ngũ chuyên gia giỏi và dày dạn
kinh nghiệm trong việc đàm phán và soạn thảo hợp đồng BOT để đảm bảo vừa
đáp ứng được các yêu cầu của các nhà đầu tư tư nhân vừa mang lại lợi ích cho
quốc gia. Do đó, cần phân quyền cấp phép các dự án BOT xuống địa phương,
tùy theo tính chất và quy mô của từng dự án để tiết kiệm thời gian và chi phí
cấp phép cho nhà đầu tư.
3.2.1.3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính:
Theo hướng “một cửa, một đầu mối” để tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư
tư nhân trong cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Các giải pháp chủ yếu là:
- Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước
trong hoạt động quản lý đầu tư; phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng
cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh; duy trì thường xuyên việc
tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các doanh nghiệp.

- Cải tiến mạnh thủ tục hành chính liên quan đến các hoạt động đầu tư theo
hướng tiếp tục đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, mở rộng phạm vi các dự án
thuộc diện đăng ký cấp phép đầu tư. Quy định rõ ràng, công khai các thủ tục
hành chính, đơn giản hoá và giảm bớt các thủ tục không cần thiết; kiên quyết xử
lý nghiêm khắc các trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách
nhiệm của cán bộ công quyền.

×