BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
..………/………
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
…………/…………
N
G
U
Y
Ễ
N
C
A
O
T
R
Í
GIẢI
QUYẾT
KHIẾU NẠI,
TỐ CÁO,
TRANH
CHẤP VỀ
ĐẤT ĐAI TẠI
THÀNH PHỐ TAM
KỲ, TỈNH QUẢNG
NAM
LUẬN VĂN THẠC
SĨ QUẢN LÝ
CÔNG
HÀ NỘI NĂM
2018
i
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
…………/…………
NG
UYỄ
N
CA
O
TRÍ
G
I
Ả
I
Q
U
Y
Ế
T
K
H
I
Ế
U
N
Ạ
I
, TỐ CÁO,
TRANH
CHẤP VỀ
ĐẤT ĐAI TẠI
THÀNH PHỐ
TAM KỲ,
TỈNH QUẢNG
NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ
QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành : Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VŨ
TRỌNG HÁCH
HÀ NỘI NĂM 2018
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các kết quả, số liệu nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, tin cậy; không sao chép nguyên văn của bất kỳ công trình nào của những
người đi trước.
Nguyễn Cao Trí
iii
LỜI CẢM ƠN
Sau hai năm 2013 - 2015 học tập tại Học viện, đến nay Tôi đã hoàn
thành chương trình học tập và luận văn khoa học về đề tài “Giải quyết Khiếu
nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam”.
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc, thầy
giáo, cô giáo của Học viện Hành chính đã truyền đạt nhiều kiến thức bổ ích và
tạo điều kiện để tác giả hoàn thành chương trình học tập.
Xin cảm ơn các cơ quan Thanh tra thành phố Tam Kỳ, UBND các xã,
phường thuộc thành phố Tam Kỳ, cán bộ thư viện của Học viện Hành chính đã
tạo điều kiện trong quá trình thu thập số liệu, tài liệu để hoàn thành luận văn.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Vũ Trọng Hách, là người đã
đồng hành, tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Tác giả: Nguyễn Cao Trí
iv
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................................7
1.
Tính cấp thiết của đề tài luận văn.....................................................................7
2.
Tình hình nghiên cứu :.................................................................................................. 9
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn................................................... 11
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.................................................... 11
5.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.............................................12
6.
Ý nghĩa lý luận và thực tiển của luận văn......................................................12
7.
Kết cấu của luận văn...................................................................................... 13
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO,............14
TRANH CHẤP VỀ ĐẤT ĐAI.....................................................................................14
1.1. Những khái niệm có liên quan.........................................................................14
1.2. Sự cần thiết phải giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai...............36
1.3. Những quy định của pháp luật về thẩm quyền và trình tự thủ tục giải
quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai.................................................................. 37
1.4. Kinh nghiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai ở một số
địa phương và bài học kinh nghiệm cho thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. .. 57
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO,
TRANH CHẤP VỀ ĐẤT ĐAI TẠI THÀNH PHỐ TAM KỲ, TỈNH
QUẢNG NAM...............................................................................................................64
2.1. Thực trạng khiếu nại, tố cáo, tranh cấp về đất đai tại thành phố Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam......................................................................................................64
2.2. Thực trạng về giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai tại thành
phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam................................................................................69
2.3. Đánh giá chung................................................................................................77
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRANH CHẤP VỀ ĐẤT ĐAI TẠI
THÀNH PHỐ TAM KỲ, TỈNH QUẢNG NAM.......................................................86
3.1. Quan điểm về nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp
trong lĩnh vực đất đai..............................................................................................86
3.2. Các giải pháp nâng cao giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai .. 91
PHẦN KẾT LUẬN................................................................................................................. 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................112
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ TN&MT
Bộ Tài nguyên và Môi Trường
KN
Khiếu nại
TC
Tố cáo
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
UBND
Uỷ ban nhân dân
QSDĐ
Quyền sử dụng đất
vi
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Theo quy định của pháp luật, Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân là cơ sở
pháp lý rất cần thiết để công dân có thể làm chủ các hoạt động và giám sát tốt các
hoạt động của các cơ quan ban ngành thuộc nhà nước và điều này góp phần làm minh
bạch, trong sạch bộ máy nhà nước để có thể phát huy được tính dân chủ, tăng cường
thêm tính pháp chế XHCN.
Nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước là giải quyết các khiếu nại,
giải quyết các tố cáo. Việc này đóng vai trò quan trọng và góp phần làm ổn định tình
hình chính trị, kinh tế, xã hội và thúc đẩy việc chú trọng đến việc giải quyết khiếu
nại, giải quyết tố cáo của công dân và đã tiến hành ban hành rất nhiều các văn bản
Chỉ thị, văn bản Nghị quyết và các văn bản pháp luật quy định về giải quyết khiếu nại
và tố cáo.
Đất đai là tài nguyên quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng. Đất đai
được coi là tư liệu sản xuất bởi nó không chỉ là đối tượng lao động mà còn là tư liệu
lao động. Không chỉ vậy, đất đai còn có vị trí cố định, tính giới hạn về không gian,
tính vô hạn về thời gian sử dụng. Những đặc tính đó không một loại tư liệu nào có thể
thay thế trong quá trình sản xuất.
Tốc độ đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ, dân số đông nhu cầu sử dụng đất vào
các mục đích như: là địa bàn phân bổ dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội,
an ninh quốc phòng và một số mục đích khác ngày càng tăng. Mặt khác đất đai là tài
sản có giá trị lớn, quản lý về đất đai vẫn tồn tại nhiều hạn chế và còn nhiều bất cập.
Do vậy tình trạng tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai phát sinh là điều không thể
tránh khỏi. Tình trạng này diễn ra ở tất cả các địa phương trong cả nước.Việc thực
hiện, giải quyết công tác này là rất quan trọng vì nếu thực hiện tốt sẽ đem lại sự tin
tưởng của người dân về quản lý của Nhà nước. Nhưng trên thực tế việc giải quyết
công tác này ở một số vụ việc còn chưa đúng, còn chậm, chưa mạnh và dứt điểm, số
vụ phát sinh nhiều, số vụ được giải quyết hiệu quả chưa cao dẫn đến tình trạng khiếu
nại, tố cáo vượt cấp ngày càng tăng.
7
Trước tình hình đó trong những năm qua Đảng và Nhà nước đặc biệt chú trọng
đến việc nâng cao hiệu quả giải quyết Khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai. Sửa
đổi, bổ sung các văn bản Luật, văn bản dưới Luật có liên quan đến công tác Khiếu
nại, tố cáo và đất đai cho phù hợp với thực tiển, khắc phục những hạn chế bất cập,
xây dựng cơ sở pháp lý ngày càng hoàn thiện hơn, cụ thể: Từ Luật Khiếu nại tố cáo
năm 1998 điều chỉnh chung cho hai nội dung Khiếu nại và Tố cáo thì năm 2011 Quốc
hội đã sửa đổi bổ sung tách thành Luật Khiếu nại năm 2011 và Luật tố cáo năm 2011,
tháng 6 năm 2018 Quốc hội đã thông qua Luật tố cáo năm 2018 và có hiệu lực vào
đầu năm 2019, ban hành Luật đất đai 2013 sửa đổi, bổ sung cho Luật đất đai 2003,
ban hành Luật tố tụng hành chính năm 2015... và các văn bản khác có liên quan. Vì
vậy công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của chúng ta trong thời gian qua đã có nhiều
chuyển biến đáng khích lệ. Tuy nhiên, tình hình về việc khiếu nại và tố cáo vẫn diễn
ra một cách hết sức phức tạp đặc biệt là việc khiếu nại, tố cáo về đất đai; nhiều vụ trở
thành điểm nóng; nhiều vụ liên quan đến khiếu nại và tố cáo đông người, vượt cấp; cá
biệt có vụ đã trở thành công cụ để các thế lực phản động lợi dụng chống phá Nhà
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặt biệt, các vụ việc khiếu nại, tố cáo thường bùng
phát vào các thời điểm diễn ra các cuộc họp của Hội đồng nhân dân các cấp, các cuộc
đại hội Đảng, Quốc hội, hay là các giai đoạn bầu cử Hội đồng nhân dân, bầu cử Quốc
hội. Nhiều vụ người dân còn kéo nhau đến nhà của các đồng chí lãnh đạo Đảng và
Nhà nước đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình an ninh và tình hình trật tự an
toàn xã hội.
Đa số các vụ việc khiếu nại là về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; khiếu nại
về việc cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; khiếu nại quyết định xử lý
vi phạm hành chính đối với vi phạm trong việc sử dụng đất; khiếu nại đòi lại nhà, đất
mà Nhà nước đã quản lý qua các thời kỳ thực hiện chính sách đất đai.
Đa số các vụ tố cáo là liên quan đến việc cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn
để trục lợi thông qua việc lập phương án hoặc điều chỉnh phương án quy hoạch; tố
cáo giao đất trái thẩm quyền, sai đối tượng; tố cáo hành vi gian lận trong việc lập
phương án bồi thường, tái định cư để tham ô.
8
Đa số các tranh chấp là về ranh giới đất liền kề, ngõ đi, cơ quan nhà nước cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bị trùng diện tích, người sử dụng đất được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chủ cũ đòi lại đất hoặc chủ cũ được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng người sử dụng đất cho rằng việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng, chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, chuyển đổi quyền sử dụng đất, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế
chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất…
Việt Nam nói chung và Thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam nói riêng, về tình
hình khiếu nại, tình hình tố cáo và tranh chấp về đất đai và tình hình kiện tụng của
người dân nơi đây cũng diễn ra gay gắt và đầy phức tạp ở hầu hết các phường, xã
thuộc thành phố Tam Kỳ, nhiều nơi đã trở thành điểm nóng trong khiếu nại, tố cáo.
Số lượng các đơn thư vượt cấp gửi đến các cơ quan cấp trên vượt hơn rất nhiều, toàn
bộ nội dung của những lá đơn thể hiện tính bức xúc, không đồng tính, phản đối,
không chấp nhận theo cách giải quyết của các chính quyền cơ sở tại địa bàn này. Số
lượng người dân tiến hành khiếu nại trực tiếp tại các phòng tiếp dân hàng năm ngày
một tăng lên.
Hiện nay chưa có nghiên cứu chính thức về việc “Giải quyết khiếu nại, tố cáo,
tranh chấp về đất đai tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam”.
Từ những lý do nêu trên em chọn đề tài “Giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh
chấp về đất đai tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu :
Thời gian qua đã có rất nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả nghiên cứu về
khiếu nại, tố cáo; giải quyết khiếu nại, tố cáo; tranh chấp đất đai, giải quyết tranh
chấp đất đai. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu trong những năm gần đây như
sau:
- Thanh tra Chính phủ, tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong tình hình mới, Nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội năm 2006;
9
- ThS. Nguyễn Thế Thịnh (chủ biên), Công tác dân vận trong giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội năm 2007;
- TS. Trần Văn Sơn, Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động
giải quyết khiếu nại, tố cáo, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội năm 2007;
- Viện Khoa học Thanh tra (Thanh tra Chính phủ), Khiếu nại, tố cáo hành chính
và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính
trị - Hành chính, Hà Nội năm 2012;
- Vũ Duy Duẩn (2014), Giải quyết khiếu nại và tố cáo - phương thức bảo đảm
pháp chế và kỷ luật hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ quản
lý hành chính công;
- Nguyễn Thế Thuấn (2001), Tăng cường hiệu quả pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Luật học;
- Nguyễn Thị Thu Hằng (2011), Giải quyết khiếu nại về đất đai tại các khu
công nghiệp của các cơ quan hành chính nhà nước ở tỉnh Bắc Giang hiện nay, Luận
văn Thạc sỹ Luật học.
- Viện Khoa học Thanh tra (Thanh tra Chính phủ), Khiếu nại, tố cáo hành
chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản
Chính trị - Hành chính, Hà Nội năm 2012.
- Đỗ Văn Tuấn (2013), Thẩm quyền giải quyết khiếu nại đất đai của cơ quan
hành chính nhà nước tại tỉnh Hưng Yên, Luận văn Thạc sỹ Quản lý hành chính công.
- Nguyễn Thị Lệ Hằng (2010), Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực quản lý đất
đai của Ủy ban nhân dân cấp huyện, tỉnh Khánh Hòa, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành
chính công; Học viện Hành chính Quốc gia.
- Nguyễn Ngọc Linh (2014), Thực thi pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”, Luận văn Thạc sỹ Luật học
- Hoàng Ngọc Dũng(2015), Giải quyết khiếu nại hành chính trong công cuộc
cải cách hành chính ở Việt Nam, Luận văn Tiến sĩ;
10
- Đặng Văn Luân (2016), Giải quyết khiếu nại tố cáo từ thực tiễn Huyện Gia
Lâm, TP. Hà Nội, Luận văn thạc sỹ;
- Nguyễn Thị Hồng Thái (2014), Đánh giá công tác tiếp dân, xử lý đơn thư,
giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và tranh chấp đất đai tại sở tài nguyên và môi
trường Tuyên Quang giai đoạn 2008-2013, Luận văn Thạc sỹ;
Những công trình nêu trên đều có nghiên cứu tuy đề cập đến nhiều góc độ
khác nhau nhưng chưa nghiên cứu về vấn đề giải quyết khiếu nại và tố cáo tranh chấp
trong lĩnh vực đất đai tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu luận văn này làm rõ về mặt lý luận và thực trạng giải quyết khiếu
nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, trên cơ sở đó, đưa ra
quan điểm, giải pháp để tăng cường hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp
về đất đai ở thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam hiện nay. -Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai;
+ Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo tranh chấp về đất đai tại
thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam;
+ Đề xuất hệ thống giải pháp tăng cường hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh
chấp về đất đai tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai.
-Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: nghiên cứu về giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai tại
thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
+ Thời gian: Từ năm 2013 đến nay.
11
5.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận:
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật lịch sử, duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lenin; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước về đất đai, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp trong lĩnh
vực đất đai.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
- Để thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về khiếu nại, giải quyết khiếu nại về
đất đai; tố cáo, giải quyết tố cáo về đất đai; tranh chấp, giải quyết tranh chấp về đất
đai.
- Nghiên cứu các quy định pháp luật thực định về khiếu nại và giải quyết
khiếu nại hành chính trên lĩnh vực đất đai, tố cáo, giải quyết tố cáo về đất đai; tranh
chấp đất đai, giải quyết tranh chấp về đất đai, chủ yếu là các quy định có liên quan
của Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tố cáo năm 2011, Luật Đất đai năm 2013 và các
văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật này; khảo sát đánh giá thực
tiễn việc thực hiện và áp dụng các quy định pháp luật này trên địa bàn thành phố Tam
Kỳ, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn (2013 – 2017);
- Nghiên cứu thực trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về
đất đai trên địa bàn thành phố Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn (2013 –
2017);
- Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, tỉnh
Quảng Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiển của luận văn
-Về mặt lý luận:
+ Luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh
chấp về đất đai;
12
+ Phân tích, đánh giá được thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất
đai tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
- Về mặt thực tiễn:
+ Đề xuất được hệ thống giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố
cáo, tranh chấp về đất đai tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam;
+ Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ sở đào
tạo, nghiên cứu và hoạt động thực tiễn có liên quan đến giải quyết khiếu nại, tố cáo,
tranh chấp về đất đai.
7.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục.
Nội dung chính của luận văn bao gồm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai. Chương
2: Thực trạng giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai tại thành phố Tam
Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo,
tranh chấp về đất đai tại thành phố Tam Kỳ tỉnh Quảng Nam.
13
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO,
TRANH CHẤP VỀ ĐẤT ĐAI
1.1. Những khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm đất đai.
Đất đai về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa rộng như sau: đất đai
chính là một diện tích cụ thể trên bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các yếu tố cấu thành
nên môi trường sinh thái ngay trên vỏ dưới bề mặt đó bao gồm: khí hậu, bề mặt, lớp
thổ nhưỡng, dáng địa hình, mặt nước gồm hồ, sông, suối, đầm lầy,.... Đất
đai cũng bao gồm các lớp trầm tích nằm sát bề mặt cùng với mạch nước ngầm và
khoáng sản trong lòng đất, và tổng thể thực vật và động vật, trạng thái sinh sống của
con người, những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại bao gồm san
nền, hồ chứa nước hay hệ thống tiêu thoát nước, đường xá và nhà cửa.
Hơn nữa, đất đai là khoảng không gian mà có giới hạn và theo chiều thẳng
đứng bao gồm khí hậu, bầu khí quyển, với lớp đất phủ bề mặt, thảm thực vật, động
vật, diện tích nước, tài nguyên nước ngầm và bao gồm khoáng sản trong lòng đất, và
chiều nằm ngang trên mặt đất là sự kết hợp giữa thổ nhưỡng, địa hình, thuỷ văn, thảm
thực vật cùng các thành phần khác. Tổng thể này được gọi là đất đai và giữ vai trò
quan trọng và mang ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản xuất cũng như cuộc sống
của xã hội loài người.
Đất đai là tài sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động và cùng với quá trình
lịch sử phát triển kinh tế - xã hội, đất đai là điều kiện lao động. Đất đai đóng vai trò
quyết định cho sự tồn tại và sự phát triển của xã hội loài người. Nếu không có đất đai
thì rõ ràng không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, cũng như không thể có sự tồn tại
của loài người. Đất đai là một trong những tài nguyên vô cùng quý giá của con người,
điều kiện sống cho động vật, thực vật và con người trên trái đất.
Đất đai tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế, xã hội. Đất đai
là địa điểm, là cơ sở của các thành phố, làng mạc các công trình công nghiệp,
14
giao thông, thuỷ lợi vá các công trình thuỷ lợi khác. Đất đai cung cấp nguyên liệu cho
ngành công nghiệp, xây dựng như gạch ngói, xi măng, gốm sứ.
Đất đai là nguồn của cải, là một tài sản cố định hoặc đầu tư cố định, là thước
đo sự giàu có của mộ quốc gia. Đất đai còn là sự bảo hiểm cho cuộc sống, bảo hiểm
về tài chính, như là sự chuyển nhượng của cải qua các thế hệ và như là một nguồn lực
cho các mục đích tiêu dùng.
Trong Luật đất đai của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được ban
hành vào năm 2013 có định nghĩa đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá đối với
quốc gia, là tư liệu sản xuất vô cùng đặc biệt, là thành phần quan trọng bậc nhất của
môi trường sống, và là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế,
văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều năm, nhân dân ta đã bỏ ra nhiều
công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như ngày hôm nay.
Trong thực tế, trong các điều kiện vật chất cần thiết, đất đai giữ vị trí và ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Nó là điều kiện đầu tiên, là cơ sở thiên nhiên của mọi quá
trình sản xuất, là nơi tìm được công cụ lao động, nguyên liệu lao động và nơi sinh tồn
của xã hội loài người.
1.1.2. Khái niệm khiếu nại, khiếu nại về đất đai, giải quyết khiếu nại, giải quyết
khiếu nại về đất đai, đặc điểm của giải quyết khiếu nại về đất đai.
1.1.2.1. Khiếu nại:
Theo Hiến pháp được ban hành vào năm 1959 và Hiến pháp được ban hành
vào năm 1980 đều quy định rằng công dân có quyền được khiếu nại, cho đến Hiến
pháp ban hành vào năm 1992 (Điều 74) cũng đã quy định rằng một quyền cơ bản của
công dân Việt Nam là có quyền được khiếu nại: “Công dân có quyền được khiếu nại
và quyền được tố cáo với cơ quan có thẩm quyền thuộc nhà nước về những việc làm
của các cơ quan nhà nước,và các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội, và các đơn vị
vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào không đúng với quy định pháp luật” [25].
Theo Hiến pháp ban hành vào năm 2013 (Điều 30) thì cũng đã ghi nhận công dân
cũng có quyền khiếu nại như là một quyền cơ bản : “Tất cả
15
mọi người đều có quyền được khiếu nại và quyền được tố cáo về những việc làm trái
pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân với các cơ quan, các tổ chức, các cá nhân
có thẩm quyền” [31].
Nhiều văn bản pháp luật từ Hiến pháp năm 1946 trở đi đã quy định việc xét và
giải quyết các khiếu nại nhưng tất cả đều chưa khái niệm cụ thể về khiếu nại, và chỉ
đến khi Luật khiếu nại, tố cáo ban hành vào năm 1998 thì mới có quan niệm khá rõ
ràng về khiếu nại, trong bộ luật khái niệm khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ
chức hoặc cán bộ, công chức làm theo thủ tục do Luật này quy định khi có căn cứ cho
rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp
của mình, thì cần đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết
định hành chính hoặc quyết định kỷ luật các cán bộ, các công nhân viên chức.
Ngoài việc ghi nhận trong các bản Hiến pháp, quyền khiếu nại của công dân
ở Việt Nam còn được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật khác, nội dung quyền
khiếu nại cũng thay đổi qua các giai đoạn phát triển của Hiến pháp và pháp luật theo
xu hướng quyền khiếu nại ngày càng mở rộng, đầy đủ, rõ ràng hơn, phản ánh quá
trình phát triển kinh tế và xã hội, trình độ văn hóa dân chủ, đồng thời thể hiện tính
tích cực của công dân trong việc tham gia đấu tranh phòng chống, ngăn chặn vi phạm
pháp luật, góp phần tăng cường pháp chế XHCN. Luật Khiếu nại ban hành năm 2011
là văn bản pháp luật chuyên biệt hoàn thiện nhất từ trước đến nay về quyền khiếu nại
của công dân: “Khiếu nại là việc tiến hành theo thủ tục do Luật này quy định khi có
căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi
ích hợp pháp của mình, thì các công dân, các cơ quan, các tổ chức hoặc các cán bộ,
công nhân viên chức đề nghị các cơ quan, các tổ chức ,các cá nhân có thẩm quyền
để xem xét lại các quyết định hành chính hoặc quyết định kỷ luật của người có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nước và các cán bộ, công chức”[29]. Từ khái niệm trên
chúng ta thấy rằng:
Khiếu nại chính là đề nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị quyết định hành
chính hay hành vi hành hành chính hoặc đề nghị của cán bộ, công chức tác động trực
16
tiếp và quyết định kỷ luật tác động trực tiếp của đối với cơ quan, tổ chức hoặc người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Xuất phát từ nhận thức chủ quan của những
người khiếu nại, khi họ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm.
Tất cả các Công dân, các cơ quan, các tổ chức hoặc các cán bộ, công nhân viên
chức nhà nước đều có thể được coi là chủ thể khiếu nại. Bên cạnh đó, quyền được
khiếu nại còn có thể cho các cá nhân, tổ chức nước ngoài. Tuy nhiên, công dân Việt
Nam là chủ thể sử dụng quyền khiếu nại là thường xuyên và tích cực nhất. Như vậy,
mọi công dânViệt Nam đều có quyền khiếu nại kể cả người phạm tội hình sự, hạn chế
quyền tự do đi lại, quyền bầu cử, ứng cử và vẫn có quyền khiếu nại trong một số
trường hợp nhất định vì là công dân Việt Nam.
Khi công dân được coi là chủ thể khiếu nại, thì các văn bản pháp luật có giá trị
cao nhất là Hiến pháp đã ghi nhận đây được coi quyền khiếu nại là một trong những
quyền của dân. Cụ thể, trong Hiến pháp được ban hành vào năm 1992 và được sửa
đổi vào năm 2001, thì đã có quy định rằng khi thấy được những việc làm trái với
pháp luật của các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế và xã hội, các đơn vị vũ
trang nhân dân hoặc bất kỳ cá nhân nào , thì công dân quyền được khiếu nại được tố
cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc làm sai trái đó. (theo điều 74
, Hiến Pháp năm 1992). Cho đến Hiến pháp được ban hành vào năm 2013, quyền này
vẫn được Khoản 1 Điều 30 quy định về quyền khiếu nại và quyền được tố cáo về
những việc làm trái pháp luật của các cơ quan, các tổ chức, cá nhân với cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm đó. Như vậy, chủ thể khiếu nại được
quy định theo pháp luật bao gồm cả công dân Việt Nam và cá nhân nước ngoài tại
Việt Nam. Công dân khi tiến hành thực hiện quyền khiếu nại thì phải là người có đủ
năng lực hành vi dân sự. Trong một số trường hợp, công dân phải thông qua đại diện
của mình để tiến hành khiếu nại khi đang trong các trường hợp là người chưa vị thành
niên, người mắc chứng bệnh về tâm thần hoặc các bênh liên quan đến nhận thức
khác, không thể làm chủ được hành vi của mình. Trong một số trường hợp khác,
người khiếu nại có thể ủy quyền cho người đại diện của mình như cha, hoặc mẹ, vợ
hoặc chồng, anh, chị, em đã thành niên hoặc những
17
người khác khi đang là người ốm đau, già yếu hoặc thể chất yếu hoặc những lý do
khác. Ngoài ra, công dân còn có quyền được khiếu nại thông qua luật sư giúp đỡ
mình thực hiện điều này theo quy định của Luật khiếu nại.
Các cơ quan, các tổ chức như cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức
chính trị, tổ chức kinh tế và các đơn vị vũ trang nhân đân đều có quyền được khiếu
nại, và việc này bắt nguồn từ thực tế bị chịu tác động và bị ảnh hưởng từ các quyết
định hành chính hoặc hành vi hành chính trong việc quản lý hà nước, quản lý các cơ
quan, các tổ chức. Đại diện hợp pháp của cơ quan tổ chức cần khiếu nại sẽ thực hiện
được quyền khiếu nại.
Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó không đúng với pháp luật hoặc xâm
phạm đến quyền hoặc lợi ích hợp pháp của mình, thì các Cán bộ, công chức cũng có
quyền được khiếu nại về quyết định kỷ luật cán bộ, công chức đó. Các quyết định kỷ
luật phải là quyết định bằng văn bản do người đứng đầu một cơ quan, tổ chức ký cho
việc áp dụng một trong các hình thức kỷ luật đối với cán bộ, công chức thuộc quyền
quản lý của người đứng đầu theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
Quyết định hành chính và hành vi hành chính bị khiếu nại phải ảnh hưởng trực
tiếp đến quyền và lợi ích của người khiếu nại. Theo quy định của pháp luật hiện nay,
tùy theo mức độ và tính chất của hành vi vi phạm và các hình thức kỷ luật đối với cán
bộ sẽ bao gồm theo thứ tự như sau: môt là sẽ khiển trách, tiếp theo sẽ cảnh cáo, hơn
nữa sẽ cách chức, và cuối cùng bãi nhiệm. Tuy nhiên, và trình tự với hình thức kỷ
luật như sau đối với các công chức không phải là lãnh đạo, quản lý, thì bao gồm mức
độ khiển trách, mức độ cảnh cáo, mức độ hạ bậc lương, và cuối cùng là buộc thôi
việc. Còn đối với các công chức là lãnh đạo, là quản lý, thì các hình thức kỷ luật sẽ
bao gồm: mức độ khiển trách, mức độ cảnh cáo, mức độ hạ bậc lương, mức độ giáng
chức, cách chức, và cuối cùng là buộc thôi việc.
Từ những khái niệm trên, cho thấy từ nhiều nguồn khác nhau, khái niệm về
khiếu nại được thể hiện bằng những cách khác nhau. Tuy nhiên về cốt lõi thì khiếu
nại là việc công dân, cơ quan theo thủ tục Luật Khiếu nại quy định đề nghị cơ quan
18
tổ chức có thẩm quyền xem xét lại các quyết định hành chính, hành vi hành chính khi
có căn cứ cho rằng quyết định hành vi đó trái pháp luật và xâm phạm đến quyền, lợi
ích hợp pháp của mình. Đồng thời, cũng cần nắm rõ đâu là hành vi trái pháp luật, và
giới hạn nào là xâm phạm đến lợi ích hợp pháp để có thể xem xét khiếu nại một cách
công bằng minh bạch nhất.
1.1.2.2. Khiếu nại về đất đai
Loại khiếu nại phát sinh trong các lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai được
gọi là khiếu nại về đất đai. Khi có căn cứ cho rằng các quyết định hoặc các hành vi
của họ là không đúng với pháp luật và là không hợp lý, hoặc có thể xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thì các cơ quan, tổ chức, công dân có quyền đề
nghị, yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra lại và xem xét lại các quyết
định hành chính hoặc các hành vi hành chính trong quá trình quản lý đất đai của các
cơ quan có thẩm quyền trên.
Các quyết định như quyết định cho thuê đất, quyết định giao đất, quyết định
thu hồi đất, quyết định cưỡng chế thu hồi đất, quyết định bồi thường, quyết định
trưng dụng đất, quyết định cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, quyết định bồi
thường cho việc giải phóng mặt bằng và tái định cư, quyết định về việc gia hạn thời
hạn sử dụng đất và việc cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì đều
được coi là quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai bị khiếu nại.
Những hành vi hành chính bị khiếu nại trong việc quản lý đất đai là những
hành vi mà cán bộ, công chức Nhà nước khi giải quyết các công việc liên quan đến
giao đất, thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư, trưng dụng
đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, việc gia hạn thời hạn sử dụng đất.
Khiếu nại về đất đai rất đa dạng và phong phú bao gồm: các khiếu nại về việc
giải phóng mặt bằng, các khiếu nại về bồi thường, và các khiếu nại về bố trí tái định
cư , cụ thể như, khiếu nại khi thực hiện không đúng quy hoạch, khiếu nại khi không
đúng với vị trí, diện tích hoặc khiếu nại khi giá đền bù quá thấp, và giá không sát so
với giá trên thị trường đưa ra, khiếu nại đòi các chính sách bồi thường do
19
trước đây chưa được tiến hành trong việc trưng dụng, thu hồi đất hoặc giải tỏa cho
hành lang giao thông, khiếu nại khi không đáp ứng được các như cầu cuộc sống.
Ngoài ra, các khiếu lại còn được diễn ra nhiều như việc đòi lại đất cũ khi trước
đây nhà nước thực hiện chính sách chia sẻ cho người nghèo, đất ngày xưa nhờ người
trông coi trước năm 1975 nhưng hiện nay không được phép sử dụng vì đã có người sở
hữu, đất cho mượn để sản xuất, hoặc đất cho thuê. Hơn nữa, Việc đòi lại đất chính
quyền của chế độ cũ lấy để sử dụng, và sau khi giải phóng đã bị Nhà nước lấy lại tiếp
tục quản lý, và giao cho người khác sử dụng; Việc khiếu nại Đòi lại đất có nhà ở trong
khu vực đô thị do nhà nước quản lý không làm đầy đủ giấy tờ thủ tục; Khiếu nại đòi
lại đất cho các tổ chức tôn giáo mà đã hiến, hoặc cho, hoặc cho mượn và chính quyền
đã sử dụng để làm nhà trẻ, xây dựng nhà văn hóa, xây dựng trường học mẫu giáo;
Ngoài ra, các khiếu nại đòi lại đất cũ khi trước kia khi xảy ra chiến tranh, người dân
tiến hành sơ tán đi khu vực khác, nhưng khi chiến tranh kết thúc học trở lại thì đất đã
có người khác sử dụng. Mặt khác, các khiếu nại về việc cấp sai giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất như sai các thông tin như sau, sai vị trí, sai diện tích, sai tên...; Các
khiếu nại về quyết định giao đất: như quyết định giao đất bị sai thẩm quyền như giao
sai đối tượng, giao sai diện tích và sai loại đất), đã xảy ra sai phạm khi thực hiện giao
đất ( như sai diện tích, sai lô, sai tên, hoặc trùng quyền sở hữu quyền sử dụng đất).
Ngoài ra còn có các khiếu nại về xử lý
vi phạm hành chính liên quan đến khiếu nại về đất đai;về việc thực hiện thu thuế, về
việc thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất; về việc thu lệ phí về quản lý, hoặc
sử dụng đất đai...
Từ đó cho thấy, đất đai hiện nay trở thành một tài sản lớn đối với người dân và
vô cùng giá trị. Do đó, có thể thấy rằng việc khiếu nại về đất đai sẽ ngày càng tăng
khi nhu cầu về mặt pháp luật của người dân ngày càng đòi hỏi công minh, và chính
xác để họ có được tài sản giá trị đó. Những hồ sơ khiếu nại về đất đai liên quan tới
việc đòi đất cũ của tình hình đất đai trước đây (năm 1945)... giờ đây cũng trở thành đề
tài lớn và cần khai thác để giải quyết ổn thỏa giữa các bên khiếu nại.
20
1.1.2.3. Giải quyết khiếu nại
Giải quyết khiếu nại có tác dụng to lớn trong việc giúp mở rộng tính dân chủ
đồng thời giúp công dân có thể thực hiện quyền làm chủ của mình, tham gia giám sát
các hoạt động của các cơ quan nhà nước và góp phần làm trong sạch bộ máy nhà
nước và giúp đất nước ngày càng phát triển, loại trừ những biểu hiện quan liêu, hách
dịch, hạch sách quần chúng nhân dân của cán bộ, công nhân viên chức, tạo sự ổn định
về mặt chính trị xã hội, phát huy sức mạnh nội lực của nhân dân trong sự nghiệp hiện
đại hóa, công nghiệp hóa đất nước. Vì vậy, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền là giải quyết khiếu nại của công dân.
Theo từ điển luật học Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý năm 2006, giải
quyết khiếu nại là việc xem xét, xác minh, kết luận và quyết định theo trình tự, thủ
tục tuân thủ luật định với các khiếu nại đối với các quyết định hành chính, và các
hành vi hành chính của cơ quan nhà nước hoặc những người có thẩm quyền trong cơ
quan hành chính nhà nước; đề nghị xem xét lại các quyết định về hành chính hoặc
các quyết định về hành vi hành chính đó khi có căn cứ cho rằng các quyết định, và
các hành vi hành chính đó là trái pháp luật, và xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp
của các cơ quan hoặc cá tổ chức đưa đơn khiếu nại.
Theo Luật Khiếu nại 2011 (Điều 2) được hiểu : “Giải quyết khiếu nại là việc
thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại”[29].
Các yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại được thể hiện rõ với nội dung như
sau:
Để bảo đảm khách quan, công khai, dân chủ và kịp thời thì giải quyết khiếu
nại cần phải được thực hiện theo đúng trình tự và theo đúng quy định của pháp luật.
Những người vi phạm mà trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, và quyền hạn
của mình thì cần được các cơ quan, các tổ chức, cá cá nhân có trách nhiệm trong việc
tiếp nhận, giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, xử lý nghiêm minh họ.
Hơn nữa, cần áp dụng các biện pháp cần thiết để có thể ngăn chặn những thiệt hại có
thể xảy ra và cần bảo đảm cho các quyết định giải quyết khiếu nại được thi
21
hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
Các cá nhân, các cơ quan, các tổ chức cần phải nghiêm chỉnh chấp hành các
quyết định để có thể giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật. Trong đó cần phải xử
lý nghiêm minh những người nào không thi hành có trách nhiệm thi hành quyết định
giải quyết khiếu nại mà lại không thi hành và phải khôi phục quyền và lợi ích hợp
pháp đã bị xâm hai của người bị thiệt hại và bồi thường thiệt hại cho họ vì đã xử lý
không đúng theo quy định của Pháp luật.
1.1.2.4. Giải quyết khiếu nại về đất đai
Pháp luật hiện nay chưa có khái niệm cụ thể về “giải quyết khiếu nại trong
lĩnh vực đất đai”, tuy nhiên, trên cơ sở các khái niệm về khiếu nại và khiếu nại trong
lĩnh vực đất đai, chúng ta có thể hiểu “giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai”
theo nghĩa đơn giản nhất, đó là việc xem xét lại tính hợp pháp, hợp lý đối với các
quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước về
đất đai, để từ đó kết luận nội dung khiếu nại của người khiếu nại hoặc là đúng hoặc là
sai hoặc đúng một phần.
Như vậy, có thể khái hiểu một cách khái quát giải quyết khiếu nại về đất đai là
việc thụ lý, xác minh nội dung khiếu nại về đất đai, kết luận và ban hành quyết định
giải quyết của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về đất đai và tổ chức thi
hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật..
Yêu cầu đối với việc giải quyết khiếu nại về đất đai
Trên cơ sở những đặc điểm của khiếu nại về đất đai được trình bày ở trên và
để việc giải quyết khiếu nại về đất đai được “thấu tình đạt lý”, cần thiết phải đáp ứng
các yêu cầu cơ bản sau đây:
Yêu cầu tuân thủ pháp luật, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
Việc tuân thủ pháp luật trong giải quyết khiếu nại hành chính nói chung, trong
lĩnh vực đất đai nói riêng là biện pháp để thực hành quyền dân chủ, củng cố niềm tin
của quần chúng với Đảng và Nhà nước, xây dựng thành công nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa theo tinh thần của Điều 2, Hiến pháp năm 2013. Do
22
vậy, đây là yêu cầu quan trọng của việc giải quyết khiếu nại về đất đai đối với cả ba
chủ thể: người khiếu nại, người bị khiếu nại và người giải quyết khiếu nại: Cá nhân,
cơ quan, tổ chức khi khiếu nại phải tuân theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định,
như: lựa chọn hình thức khiếu nại, tuân thủ thời hiệu khiếu nại, gửi đơn đến đúng cơ
quan có thẩm quyền, chấp hành quyết định hành chính, hành vi hành chính mà mình
khiếu nại trong thời gian khiếu nại, chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có
hiệu lực pháp luật. Cơ quan giải quyết phải tuân thủ quy định về trình tự, thủ tục, thời
gian giải quyết và lấy pháp luật làm “chuẩn” trong vai trò là “trọng tài” thực hiện
quyền phân xử để đưa ra một kết quả giải quyết “thấu tnh,,́ đạt lý” và để quyết định
giải quyết có hiệu lực thi hành trên thực tế.
Yêu cầu tôn trọng và lắng nghe ý kiến của người dân.
Giải quyết khiếu nại về đất đai là vấn đề có liên quan đến lợi ích đặc biệt quan
trọng của người sử dụng đất, bởi vì đất đai không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà
còn mang ý nghĩa tinh thần sâu sắc, do đó trong việc giải quyết khiếu nại, vấn đề tiếp
công dân và đối thoại luôn đóng vai trò quan trọng. Ngoài nhiệm vụ là thu thập và
củng cố những thông tin có giá trị chứng cứ để xác định sự thật của vụ việc khiếu nại,
trong tiếp công dân và đối thoại, cơ quan có thẩm quyền còn phải luôn đặt mình vào
vị trí của người khiếu nại để có quyết định giải quyết đúng đắn, hợp tình, kịp thời bảo
vệ và khôi phục quyền và lợi ích bị xâm phạm.
Yêu cầu về khả năng tra cứu và áp dụng văn bản pháp luật.
Đây là một yêu cầu quan trọng và cụ thể của việc tuân thủ pháp luật trong việc
giải quyết khiếu nại hành chính, nó có vị trí đặc biệt quan trọng. Để đáp ứng được yêu
cầu này, ngoài việc tuân thủ quy định của pháp luật nói chung, pháp luật về khiếu nại
nói riêng (pháp luật hình thức), người giải quyết khiếu nại và người khiếu nại còn
phải nắm quy định của pháp luật nội dung (là pháp luật về đất đai) để làm căn cứ giải
quyết. Luật Đất đai có rất nhiều các văn bản hướng dẫn thi hành đang có hiệu lực và
đã hết hiệu lực, không giống như các nội dung khác về quản lý nhà nước về đất đai,
việc giải quyết khiếu nại về đất đai đòi hỏi áp dụng tất cả các văn bản pháp luật liên
quan, không kể còn hiệu lực hay hết hiệu lực. Do vậy, việc
23