Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

chính thể nhà nước Nội dung cơ bản của hiến pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.61 KB, 27 trang )

chính thể nhà nớc Nội dung cơ bản của hiến
pháp
1.1. Khái quát về chính thể nhà nớc.
Nội dung và hình thức là một trong sáu cặp phạm trù cơ bản của triết học
cùng với ba quy luật cơ bản tạo nên phép duy vật biện chứng của triết học Mác -
Lênin.
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo
nên sự vật. Hình thức là phơng thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống
các mối liên hệ tơng đối bền vững giữa các yếu tố của nó [44;185].
Hình thức nhà nớc là một trong những phạm trù cơ bản của khoa học về
nhà nớc và pháp luật. Hình thức nhà nớc là một vấn đề quan trọng của nhiều
ngành khoa học xã hội. Hình thức nhà nớc đợc các ngành khoa học xã hội khác
nhau quan tâm nghiên cứu nh triết học, sử học, chính trị học, luật học... Đặc biệt,
đối với khoa học pháp lý, hình thức nhà nớc là một vấn đề cơ bản, quan trọng mà
luật học nghiên cứu. Trong các ngành khoa học pháp lý có thể kể ra các ngành
khoa học nghiên cứu vấn đề hình thức nhà nớc nh: Lý luận chung về nhà nớc và
pháp luật; Lịch sử nhà nớc và pháp luật thế giới, cũng nh lịch sử nhà nớc và pháp
luật của từng nớc; luật Hiến pháp... Trong đó, khoa học luật Hiến pháp là ngành
khoa học nghiên cứu vấn đề hình thức nhà nớc, và hình thức nhà nớc trở thành
một nội dung nghiên cứu cơ bản, quan trọng của khoa học luật Hiến pháp.
Trong ngành luật Hiến pháp nói chung và đạo luật Hiến pháp nói riêng,
hình thức nhà nớc là một nội dung cơ bản, cốt lõi tạo thành đối tợng nghiên cứu
chủ yếu của chúng. Đối tợng nghiên cứu của một đạo luật thờng là đối tợng
nghiên cứu chủ yếu của ngành luật đó, hay nói cách khác, đối tợng nghiên cứu
của đạo luật gần nh trùng khít với đối tợng nghiên cứu của ngành luật mà đạo luật
đó là nội dung cơ bản. Trong ngành luật Hiến pháp cũng vậy, đối tợng nghiên cứu
của đạo luật Hiến pháp là nội dung cơ bản của đối tợng nghiên cứu của ngành luật
Hiến pháp. Vậy hình thức nhà nớc là gì? Mối quan hệ giữa hình thức nhà nớc với
kiểu nhà nớc và bản chất của nhà nớc là nh thế nào?
Hình thức nhà nớc là thuật ngữ chuyên ngành luật Hiến pháp nhằm khái
quát hoá mô hình nhà nớc thông qua những đặc điểm thể hiện nội dung bên trong


của cơ cấu tổ chức và mối quan hệ giữa các tổ chức cấu thành nhà nớc [2;71].
Từ khái niệm trên, ta có thể thấy đợc các dấu hiệu của hình thức nhà nớc.
+ Hình thức nhà nớc khái quát lên một mô hình nhà nớc với cách thức tổ
chức quyền lực nhà nớc ấy, tức là phơng thức chuyển ý chí giai cấp thống trị thành
ý chí nhà nớc.
+ Hình thức nhà nớc thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nhà n-
ớc, cũng nh mức độ tham gia của nhân dân vào công việc của nhà nớc.
Hình thức nhà nớc do bản chất nhà nớc và nội dung nhà nớc quy định. Nếu
bản chất nhà nớc chỉ rõ quyền lực nhà nớc thuộc về ai, phục vụ lợi ích cho giai
cấp nào, tầng lớp nào trong xã hội thì hình thức nhà nớc nói lên cách thức tổ chức
quyền lực nhà nớc ấy, tức là phơng thức chuyển ý chí của giai cấp thống trị thành
ý chí của nhà nớc.
Hình thức nhà nớc đợc quy định bởi kiểu của nhà nớc. Hình thức nhà nớc là
cách thức tổ chức quyền lực nhà nớc, là phơng thức tồn tại và phát triển của nhà n-
ớc, là mối quan hệ giữa các yếu tố của nó. Kiểu nhà nớc là tổng thể các dấu hiệu
cơ bản của nhà nớc thể hiện bản chất giai cấp, vai trò xã hội và những điều kiện
phát sinh, tồn tại và phát triển của nhà nớc trong một hình thái kinh tế - xã hội
nhất định [29;46].
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội là một kiểu xã hội dựa trên một phơng thức
sản xuất nhất định. Tơng ứng với một kiểu quan hệ sản xuất là một tổng thể đặc
thù các quan hệ t tởng chính trị và một kiểu thiết chế chính trị - pháp lý nhất định.
Nhà nớc là một bộ phận quan trọng nhất trong kiến trúc thợng tầng, cho nên bản
chất, chức năng, nhiệm vụ, bộ máy nhà nớc, hình thức nhà nớc... Xét đến cùng
đều đợc quy định bởi cơ sở kinh tế. Do đó, tơng ứng với một kiểu quan hệ sản
xuất (cơ sở kinh tế) là một kiểu nhà nớc thích ứng.
Học thuyết Mác - Lênin về hình thái kinh tế - xã hội chính là cơ sở của việc
phân chia các nhà nớc tồn tại trong lịch sử thành các kiểu nhà nớc khác nhau. Học
thuyết Mác - Lênin đã chia lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài ngời
thành năm hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Chỉ trong hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản nguyển thuỷ là hình thái đầu tiên mà ở đó cha có các điều kiện kinh

tế - xã hội để nhà nớc xuất hiện. Còn bốn hình thái kinh tế xã hội sau này, mỗi
hình thái đều tơng ứng với một kiểu nhà nớc nhất định thích ứng với các điều kiện
kinh tế - xã hội mà nó tồn tại, phát triển. Mỗi một kiểu nhà nớc đó lại chứa đựng
trong mình nó một bản chất nhà nớc. Nhng bản chất nhà nớc trong một kiểu nhà
nớc có thể là một, ngợc lại hình thức nhà nớc thể hiện bản chất nhà nớc thì lại rất
đa dạng và phong phú. Ví dụ, cùng thể hiện một bản chất của kiểu nhà nớc chiếm
hữu nô lệ trong hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ nhng hình thức nhà nớc
lại thể hiện hết sức phong phú, nh: cộng hoà dân chủ; cộng hoà quý tộc; quân
chủ...
Kiểu nhà nớc quy định hình thức nhà nớc, do đó, cùng một hình thức nhà n-
ớc giống nhau nhng tồn tại trong các kiểu nhà nớc khác nhau (các điều kiện kinh
tế, chính trị, xã hội khác nhau) thì chúng có những đặc điểm, đặc trng rất khác
nhau. Ví dụ, trong mọi kiểu nhà nớc đều có một nền cộng hoà. Nhng bản chất của
nhà nớc cộng hoà chủ nô tồn tại trong hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ có
những đặc điểm khác xa bản chất nhà nớc cộng hoà t sản mà hình thái kinh tế xã
hội t bản chủ nghĩa là cơ sở kinh tế cho nhà nớc đó tồn tại. Nh vậy, trong quan hệ
giữa kiểu nhà nớc và hình thức nhà nớc thì kiểu nhà nớc là yếu tố quyết định. Đó
là vì hình thức nhà nớc bị quy định bởi cơ sở kinh tế - xã hội của một kiểu nhà nớc
nhất định và bản chất giai cấp tồn tại trong hình thái kinh tế xã hội đó.
Ngoài ra hình thức nhà nớc còn phụ thuộc vào:
+ Trình độ phát triển kinh tế xã hội, do tích luỹ t bản trong lòng xã hội
phong kiến mà phát triển lực lợng sản xuất t bản chủ nghĩa hình thành nên kiểu
quan hệ sản xuất mới - kiểu quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa ngay trong lòng xã
hội phong kiến. Do đó, vào giai đoạn cuối của xã hội phong kiến đã hình thành
một hình thức nhà nớc quân chủ chuyên chế.
+ Tơng quan lực lợng giai cấp, trong cuộc cách mạng t sản của một số nớc,
do lực lợng cách mạng của giai cấp tài sản không đủ mạnh để đánh đổ hoàn toàn
giai cấp phong kiến còn cha bị suy yếu nhiều. Để tồn tại, hai lực lợng chính trị
này đứng ra thoả hiệp với nhau nhằm phân chia quyền lực và hình thành nên nhà
nớc quân chủ lập hiến.

+ Truyền thống lịch sử và sự tác động của bối cảnh quốc tế. Các nhà nớc
này từ khi đợc hình thành và phát triển cho đến nay vốn đã vậy mà không có sự
thay đổi nhiều về hình thức nhà nớc. Ví dụ, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Cộng hoà
Liên bang Đức,... khi sinh ra đã là nhà nớc liên bang; các nhà nớc nh Vơng quốc
Anh, Nhật Bản, Thái Lan,... do một truyền thống lâu đời là nhà nớc quân chủ, các
hình thức truyền ngôi, thế tập đã ăn sâu vào tiềm thức của các thế hệ ngời dân của
các nớc đó.
+ Do ảnh hởng của các vấn đề dân tộc, sắc tộc trong một quốc gia, thì vấn
đề dân tộc, sắc tộc và việc giải quyết những vấn đề đó sẽ ảnh hởng đến việc lựa
chọn một hình thức nhà nớc thích hợp: nhà nớc đơn nhất hay nhà nớc liên bang,
và trong nhà nớc đó có thành lập khu tự trị hay không. Điều đó hoàn toàn phụ
thuộc vào việc giải quyết vấn đề dân tộc, sắc tộc.
+ Và yếu tố cuối cùng, là do hậu quả việc xâm lợc của thực dân, đế quốc,
mà các nhà nớc thuộc địa sau khi giành độc lập có hình thức nhà nớc bị ảnh hởng
tác động bởi hình thức nhà nớc của nhà nớc mẫu quốc. Ví dụ, sau khi giành độc
lập từ thực dân Pháp thì Nhà nớc Angiêria là một Nhà nớc cộng hoà đại nghị, hay
sau khi giành độc lập từ Vơng quốc Anh thì Nhà nớc Pakixitan vẫn duy trì chế độ
quân chủ...[2;75].
Nh đã nói ở trên, hình thức nhà nớc bị quy định bởi bản chất nhà nớc, kiểu
nhà nớc trong một hình thái kinh tế xã hội (cơ sở kinh tế) nhất định. Nhng hình
thức nhà nớc không chỉ phản ánh một cách thụ động các điều kiện kinh tế - xã
hội, mà ngợc lại hình thức nhà nớc tác động trở lại đối với các hoạt động kinh tế,
chính trị, xã hội mà nó tồn tại, phát triển. Việc tác động trở lại của hình thức nhà
nớc mang tính tích cực hay tiêu cực lại phụ thuộc vào mô hình tổ chức, cách thức
tổ chức quyền lực nhà nớc mà giai cấp thống trị lựa chọn để biến ý chí của giai
cấp mình thành ý chí của nhà nớc. Sự tác động đó là tích cực khi giai cấp cầm
quyền lựa chọn đợc một hình thức nhà nớc phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
trong đó nó tồn tại, khi đó, nó sẽ tạo động lực cho đất nớc phát triển. Ngợc lại, khi
hành thức nhà nớc đó đã lỗi thời, không còn phù hợp nữa hoặc có thể là một hình
thức nhà nớc đợc xây dựng qúa cao so với điều kiện mà đất nớc cha đạt tới. Điều

đó, ngợc lại, sẽ dẫn tới sự kìm hãm phát triển của xã hội, dẫn tới nhiều hậu của
kinh tế xã hội tiêu cực khó có thể mà lờng tới. Do đó, vấn đề đặc biệt quan trọng
khi lựa chọn hình thức nhà nớc, những ngời cầm quyền phải xuất phát từ các điều
kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nớc. Ngoài các yếu tố đó ra, khi lựa chọn
hình thức nhà nớc chúng ta phải biết kết hợp với các yếu tố khác nữa nh: trình độ
phát triển kinh tế xã hội; tơng quan lực lợng giai cấp; lịch sử truyền thống dân tộc;
bối cảnh quốc tế; xu hớng của thời đại; các vấn đề dân tộc, sắc tộc;...
Hình thức nhà nớc bao gồm hai yếu tố: hình thức chính thể và hình thức
cấu trúc. Trong phạm vi của bài viết này, tác giả chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu
vấn đề hình thức chính thể nhà nớc, còn hình thức cấu trúc nhà nớc chỉ đợc xem
xét, tìm hiểu ở những khía cạnh, phơng diện nhất định nhằm làm sáng tỏ hình
thức chính thể nhà nớc.
1.2. Phân loại hình thức chính thể
Khi phân tích các hình thức chính thể, chủ yếu chúng ta tập trung vào mô
hình nhà nớc, trình tự thành lập, cơ cấu tổ chức của các cơ quan nhà nớc ở trung -
ơng: nguyên thủ quốc gia; lập pháp; hành pháp; t pháp. Trong đó, đầu tiên chúng
ta xem xét nguyên thủ quốc gia, sau đó là mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia
với các cơ quan nhà nớc khác.
Do đó, để phân biệt các mô hình chính thể nhà nớc, trớc hết chúng ta dựa
vào cách thức thành lập hay là nguồn gốc của nguyên thủ quốc gia cũng nh chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chức vụ đó.
Dựa trên cơ sở đó, hình thức chính thể đợc bao gồm hai dạng cơ bản là
chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà. Chính thể quân chủ là chính thể mà ở
đó nguyên thủ quốc gia do thế tập, quyền ngôi mà ra, quyền lực nhà nớc có nguồn
gốc thần bí, từ cõi h vô, do thợng đế định đoạt. ở chính thể này, quyền lực nhà n-
ớc tối cao tập trung toàn bộ hay một phần trong tay ngời đứng đầu nhà nớc (vua,
hoàng đế...), và nhà nớc đó là nhà nớc quân chủ. Chính thể cộng hoà là chính thể
mà nguyên thủ quốc gia do bầu cử (trực tiếp hoặc gián tiếp) lập nên, và nguồn gốc
của quyền lực nhà nớc xuất phát từ nhân dân. Quyền lực nhà nớc đợc thực hiện
bởi các cơ quan đại diện do bầu ra trong một thời hạn nhất định, và nhà nớc đó

gọi là nhà nớc cộng hoà.
Chính thể quân chủ đợc chia thành quân chủ tuyệt đối và quân chủ hạn chế.
Chính thể quân chủ tuyệt đối là chính thể mà quyền lực nhà nớc tập trung vào ng-
ời đứng đầu nhà nớc. Vua, hoàng đế... có quyền lực vô hạn định mà không bị hạn
chế bởi bất cứ một giai cấp, một thế lực quyền thế hay một cá nhân nào. Còn
trong nhà nớc quân chủ hạn chế, quyền lực nhà nớc tối cao không chỉ đợc trao cho
ngời đứng đầu nhà nớc mà còn đợc trao (đợc phân chia) cho các cơ quan cấp cao
khác một cách hạn chế, ví dụ, nghị viện trong chính thể quân chủ lập hiến hay hội
nghị đại diện đẳng cấp thờng thấy xuất hiện trong một số nhà nớc phong kiến.
Trong chính thể quân chủ hạn chế (quân chủ lập hiến) lại đợc chia ra thành
hai hình thức chính thể nhà nớc: quân chủ nhị nguyên và quân chủ đại nghị.
Quân chủ nhị nguyên là loại hình tổ chức nhà nớc, trong đó quyền lực nhà
nớc đợc chia đều cho hai cơ quan trong cấu trúc quyền lực nhà nớc, đó là quyền
lực của cá nhân nhà vua và quyền lực của tập thể nghị viện. Đây là loại hình chính
thể nhà nớc xuất hiện sau các cuộc cách mạng t sản, là mô hình tổ chức nhà nớc
chuyển tiếp từ nhà nớc phong kiến sang nhà nớc t sản, và nó tồn tại không lâu
trong thực tế. Các bộ trởng đều do vua bổ nhiệm, vừa chịu trách nhiệm trớc nhà
vua, vừa chịu trách nhiệm trớc nghị viện.
Hình thức nhà nớc quân chủ hạn chế thứ hai là quân chủ đại nghị. ở chính
thể này, nguyên thủ quốc gia là vị hoàng đế đợc thành lập theo phơng thức thế tập,
truyền ngôi kế thừa cho con cháu. Bộ máy hành pháp đợc thành lập và hoạt động
khi nào vẫn còn có tín nhiệm của nghị viện.
Chính thể cộng hoà cũng có hai hình thức chủ yếu là cộng hoà dân chủ và
cộng hoà quý tộc. Trong nhà nớc cộng hoà dân chủ, pháp luật quy định quyền của
công dân tham gia bầu cử thành lập các cơ quan đại diện của nhà nớc. Trong nhà
nớc cộng hoà quý tộc (dới chế độ nô lệ và chế độ phong kiến), quyền tham gia
bầu cử để thành lập các cơ quan đại diện của nhà nớc chỉ dành riêng cho giới quý
tộc và những ngời có của, và quyền đó đợc quy định trong pháp luật.
Chính thể quân chủ và chính thể cộng hoà trong những giai đoạn lịch sử cụ
thể có những đặc điểm khác nhau phụ thuộc vào các hình thái kinh tế xã hội (cơ

sở kinh tế) mà nó tồn tại với các kiểu nhà nớc tơng ứng, và còn phụ thuộc vào các
hoàn cảnh cụ thể của từng xã hội, nh: trình độ phát triển của lực lợng sản xuất;
truyền thống lịch sử, văn hoá, xã hội; tơng quan lực lợng giai cấp;... Do đó, khi
phân biệt các hình thức chính thể ta không những chỉ phân biệt chúng trong các
chế độ nô lệ, phong kiến, t bản, xã hội chủ nghĩa mà còn có các biến dạng của
chúng phụ thuộc vào các yếu tố nêu trên.
Trớc khi đi vào phân loại các hình thức chính thể, đầu tiên chúng ta sẽ xem
xét một cách khái quát vấn đề sự lựa chọn ngời cầm quyền và cơ cấu tổ chức
chính quyền.
* Sự lựa chọn ngời cầm quyền
Giá trị của một chế độ tuỳ thuộc phần lớn vào những ngời cầm quyền trong
chế độ ấy. Nếu lựa chọn đợc những ngời tiêu biểu cho chế độ sẽ giúp cho việc giữ
vững và phát huy đợc bản chất của chế độ đó, đa đất nớc tiến lên phía trớc. Ngợc
lại, nếu những ngời cầm quyền không đợc lựa chọn một cách thích hợp và phù
hợp với chế độ sẽ là một lực cản lớn cho sự phát triển của đất nớc và cho sự bền
vững của chế độ đó.
Trong những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, những yếu tố truyền thống
lịch sử, trình độ phát triển... khác nhau thì phơng pháp lựa chọn ngời cầm quyền
là khác nhau. Do vậy, các phơng pháp lựa chọn ngời cầm quyền đã trở thành một
trong những nền tảng của chế độ. Các phơng pháp đợc áp dụng cho tới nay, trên
phơng diện tích cực là nhằm để hạn chế quyền lực, ngăn chặn chúng không đi đến
chỗ lạm dụng, đồng thời cũng là nhằm thực hiện những yêu sách của chủ nghĩa tự
do. Xét đến cùng, sự khác biệt sâu rộng của những chính thể, chế độ chính trị
khác nhau là dựa trên phơng thức, cách thức lựa chọn những ngời cầm quyền có
xuất phát từ những hình thức tự do, dân chủ hay không.
Trong lịch sử đã tồn tại nhiều phơng pháp, cách thức để lựa chọn những ng-
ời cầm quyền của một quốc gia: phơng pháp truyền ngôi kế vị; bầu cử tự do; bầu
cử hội đồng tuyển trạch lựa chọn; hay do sự chinh phục bằng võ lực,... Chung quy
lại, ngời ta có thể tập hợp những phơng pháp trên thành hai loại phơng pháp cơ
bản. Thứ nhất, nếu việc lựa chọn những ngời cầm quyền đợc giao cho dân chúng

(có thể bằng hình thức trực tiếp hay gián tiếp) thì phơng pháp này đợc gọi là dân
chủ. Thứ hai là, nếu sự lựa chọn đó đã lọt khỏi tay dân chúng mà rơi vào một hoặc
một số cá nhân hay những nhóm ngời có thế lực thì đó là phơng pháp phi dân chủ
hay đợc mệnh danh là độc tài.
Những phơng pháp thứ nhất (phơng pháp dân chủ) phù hợp với chủ nghĩa tự
do, là cơ sở của nền tảng dân chủ bởi vì chúng làm hạn chế quyền lực của những
ngời cai trị, làm tiêu diệt chủ nghĩa độc đoán cá nhân. Những phơng pháp thứ nhì
thì trái lại, chúng thích nghi với chủ nghĩa độc đoán, chuyên quyền, là điều kiện
cho những ngời cầm quyền thâu tóm quyền lực, và làm teo tóp nền tảng tự do, dân
chủ. Giữa hai phơng pháp đó, ngời ta lại tìm ra những phơng pháp hỗn hợp trung
hoà trong đó có kết hợp của sự lựa chọn dân chủ và sự lựa chọn độc tài. Ngày nay,
ở những nớc còn qúa lạc hậu hay ở những quốc gia trong những hoàn cảnh lịch sử
nhất định, ví dụ, ở một số nớc thờng thấy sự thay đổi chính quyền bằng cách dùng
lực lợng quân đội để làm đảo chính nh ở Pakistan vào năm 2000 hay năm 1999 ở
Miến Điện.
Trái lại, chế độ dân chủ ngày càng phát triển hơn thể hiện tính quy luật của
sự phát triển dân chủ. Về mặt lịch sử, chế độ dân chủ phát sinh trong những đô thị
Hy Lạp cổ đại, nhng đó chỉ là hình thức dân chủ sơ khai, dân chủ chỉ với một
nhóm thiểu số. Đó là vì rằng, chỉ những ngời tự do mới đợc có mặt trong các hội
nghị (các thiết chế dân chủ) để tham gia lựa chọn những ngời đại diện. Những ng-
ời nô lệ và những ngời thuộc tầng lớp dới của xã hội không đợc hởng bất cứ một
quyền dân sự, quyền chính trị nào.
Cùng với sự tiến triển của lịch sử, chế độ dân chủ cũng có những bớc phát
triển thăng trầm, nhng nhìn chung cha tạo ra đợc những đột biến lớn. Chỉ đến khi
nổ ra các cuộc cách mạng t sản, từ đó đã tạo ra bớc ngoặt to lớn cho sự phát triển
của chế độ dân chủ, hình thành nên một hình thức dân chủ mới. Mà giai cấp t sản
đã tuyên bố rằng, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân đợc quyền tham
gia vào việc lựa chọn những ngời đại diện thành lập nên các cơ quan nhà nớc. Vì
tất cả công dân không thể tham gia chính phủ, họ sẽ phải lựa chọn những ngời đại
diện vào trong nghị viện, do đó mới có cụm từ dân chủ đại nghị, đó là một chế

độ dân chủ. Chế độ dân chủ từ đây có cơ sở và đồng nghĩa với những cuộc bầu cử
trong một thời hạn nhất định những ngời cầm quyền do dân chúng bầu lên. Những
phơng pháp bầu cử cũng nh số những nghị viện (cơ quan đại diện) có thể khác
nhau ở những nớc khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của mỗi quốc
gia, và sự tổ chức, mối quan hệ giữa cơ quan lập pháp với cơ quan hành pháp có
thể không giống nhau do các hình thức chính thể khác nhau nhng mục đích cuối
cùng là tạo ra một chế độ dân chủ khi mà những cuộc bầu cử ấy đợc tổ chức một
cách tự do và thành thật. Dới hình thức ấy, chế độ dân chủ lần đầu tiên đã trở
thành tiêu chí mà mọi quốc gia đều phải hớng tới, cũng lần đầu tiên nó đã chinh
phục hầu hết các nớc văn minh.
Từ khi ra đời, chế độ dân chủ đại nghị đã trải qua hai cuộc biến thiên chính:
đó là sự chấp nhận phổ thông đầu phiếu và sự xuất hiện của những đảng chính trị
có tổ chức. Trong thời kỳ khá lâu sau các cuộc cách mạng t sản, chế độ dân chủ
chỉ có tính cách cục bộ, khép kín, những ngời cầm quyền đợc bầu lên chỉ bởi một
nhóm thiểu số dân chúng (nhng ngời có của). Dần dần cùng với sự phát triển, số
cử tri đợc tăng lên do áp lực của những nguyên tắc dân chủ.
Tuy nhiên, khi các chính đảng ra đời và tham gia vào bầu cử thì phần nào
nguyên tắc bầu cử dân chủ bị xâm phạm, bởi vì những ban lãnh đạo các chính
đảng có khuynh hớng muốn thay thế cho những ngời đợc bầu cử, hay khi sự lựa
chọn những ngời đại diện vào viện dân biểu lại đợc chuyển từ tay cử tri qua tay
các chính đảng.
Bây giờ, ta hãy nói tới những chế độ hỗn hợp (chế độ dung hoà giữa độc tài
và dân chủ).
Một chế độ đợc gọi là hỗn hợp khi những ngời cầm quyền đợc lựa chọn
bằng phơng pháp dung hoà. Cuộc bầu cử không hoàn toàn bị loại trừ, song nó
không đóng vai trò quyết định. Tuỳ thuộc vào phơng thức dung hoà ngời ta có thể
phân biệt những chế độ hỗn hợp sau: hỗn hợp bằng cách tiếp nối; hỗn hợp bằng
kết hợp; hỗn hợp bằng hợp nhất.
Thứ nhất, trong chế độ hỗn hợp bằng cách tiếp nối, ngời ta thấy hai cơ quan
chính quyền đứng bên nhau, một cơ quan có tính cách dân chủ và một cơ quan có

tính cách chuyên chế, có thể phân biệt chế độ này thành các hình thức sau đây:
+ Sự nối tiếp giữa một nghị viện dân chủ và một vị vua có quyền độc đoán,
nghị viện do nhân dân bầu ra đứng bên cạnh một ngôi vua do cha truyền con nối.
+ Sự tiếp nối trong nội bộ, cơ quan đại diện (nghị viện) đợc cơ cấu làm hai
viện: một viện do dân bầu ra, và một viện đợc chỉ định bởi một phơng pháp độc
đoán (nh do truyền ngôi, thế vị, do tuyển trạch hay đợc bổ nhiệm...)
+ Sự tiếp nối giữa những phần tử dân chủ và những phần tử độc đoán ở
trong cùng nội bộ một nghị viện (Thợng nghị viện Pháp năm 1875 bên cạnh 225
Thợng Nghị sĩ do dân bầu ra, còn có 75 Thợng nghị sĩ đợc lựa chọn theo lối tuyển
trạch).
Thứ hai, chế độ hỗn hợp do kết hợp, là chế độ mà trong đó có một cơ quan
chính quyền đợc chỉ định theo phơng pháp phức tạp vừa dân chủ, vừa độc đoán.
Đó là trờng hợp có cuộc "đầu phiếu để chuẩn y" một chính phủ đợc lựa chọn theo
một phơng pháp độc đoán nào đó (do bổ nhiệm, do thế vị,...). Chính phủ ấy chỉ đ-
ợc tấn phong sau một cuộc bỏ thăm của dân chúng (trng cầu dân ý) để chuẩn y sự
lựa chọn đã đợc ấn định trớc. Ví dụ, ở Pakixtan vào thánh 5/2002, Tổng thống đ-
ơng nhiệm (do đảo chính quân sự) Pevec Maussarap muốn cầm quyền thêm một
nhiệm kỳ nữa đã không tổ chức cuộc tuyển cử tự do mà đa sự việc ra từng cầu dân
ý một cách áp đặt.
Trong chế độ hỗn hiệp do kết hợp, một phơng pháp có thể gọi là có một
trình tự lựa chọn ngợc với phơng pháp trên, đó là phơng thức "đầu phiếu giới
thiệu". Sự bỏ phiếu của cử tri có mục đích đề nghị ra (lập danh sách ra) những ứng
cử viên để cho một cơ quan không phải là do dân bầu lựa chọn. Ví dụ, điển hình
hơn hết là việc lập "danh sách đợc tín nhiệm" mà Hiến pháp năm thứ VIII của nớc
Pháp đã ấn định. Theo quy định, dới hết là những cử tri dự cuộc phổ thông đầu
phiếu để lựa chọn một phần mời số ngời của họ lập thành danh sách xã; những ng-
ời trong danh sách xã sẽ bầu một phần mời số ngời của mình để lập danh sách
quận; rồi lại cũng theo thể thức ấy mà bầu lên trên. Trong những danh sách này,
Thợng nghị viện đợc thành lập do lối tuyển trạch sẽ lựa chọn những ngời cầm
quyền địa phơng và những Nghị sĩ trong Viện lập pháp và Viện hộ dân.

Trong những trờng hợp trên, việc bổ nhiệm những ngời cầm quyền đợc
phân ra làm hai giai đoạn: một giai đoạn độc đoán và một giai đoạn dân chủ.
Thứ ba, chế độ hỗn hiệp do hiệp nhất, ở đây có một sự hoà đồng hoàn toàn
giữa những phần tử dân chủ và những phần tử độc đoán. Việc bổ nhiệm, lựa chọn
những ngời cầm quyền không thể là dân chủ thuần tuý hay độc đoán thuần tuý.
Một mặt, phơng pháp ấy đi gần với chủ nghĩa tự do vì những ngời cầm quyền đợc
lựa chọn bởi chính số ít những ngời cầm quyền khác. Mặt khác, nó xa biệt với dân
chủ mà hớng tới độc tài vì chỉ một số ít dân chúng đợc tham gia bầu cử. Phơng
pháp này là một phơng pháp mà những tính chất dân chủ và những tính chất độc
đoán đợc hoà hợp làm một theo một phơng pháp đồng nhất.
Chế độ cuối cùng này đợc thực hiện trong hầu hết các nớc t bản trong thời
kỳ trớc và sau các cuộc cách mạng t sản nh là một chế độ giao thời từ độc tài đến
dân chủ. Bởi vì, chế độ dân chủ đợc phát triển, mở rộng theo thời gian, ít khi có
tình trạng đang hoàn toàn không có cuộc bầu cử dân chủ mà bớc qua liền giai
đoạn phổ thông đầu phiếu. Thờng thờng, quyền bầu cử ban đầu chỉ trao cho một
số ngời có đặc quyền, rồi dần dần đợc lan rộng đến những ngời khác, sau mới ban
hành cho tất cả các công dân.
* Cơ cấu chính quyền
Từ khi nhà nớc xuất hiện, với t cách là một tổ chức tập trung nhất của
quyền lực chính trị, nhà nớc thực hiện chức năng quản lý xã hội. Tuỳ thuộc vào
từng giai đoạn lịch sử khác nhau, nhà nớc có vai trò quản lý xã hội khác nhau,
thậm chí trong cùng một hoàn cảnh lịch sử nhất định, có những nhà nớc mở rộng
vai trò quản lý xã hội của mình, lại cũng có những nhà nớc thu hẹp phạm vi quản
lý xã hội trong những lĩnh vực nhất định. Ví dụ, sau các cuộc cách mạng t sản,
nhà nớc t sản chỉ đóng vai trò là "ngời lính gác đêm" cho sự phát triển của xã hội;
ngợc lại, trong nhận thức cũ về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhà nớc vừa
là ngời quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, vừa là một tổ chức siêu kinh tế.
Nhng nhìn chung, theo sự phát triển của lịch sử, ở trên những phơng diện
khác nhau, vai trò của nhà nớc ngày càng đợc mở rộng và đợc đề cao. Đi đôi với
sự gia tăng vai trò của nhà nớc là những chức năng mới và nhiệm vụ mới mà nhà

nớc phải gánh vác, đảm nhận. Cùng với sự phát triển của xã hội thì chức năng,
nhiệm vụ của nhà nớc ngày càng nhiều thêm mãi, cơ cấu tổ chức của chúng càng
ngày càng đa dạng, phức tạp. Để giải quyết những chức năng, nhiệm vụ đó đòi hỏi
nhà nớc phải có một bộ máy cai trị tơng xứng với chúng. Do vậy, trên phơng diện
tổ chức chính quyền, sự cấu tạo của những cơ quan nhà nớc trong hiến pháp ngày
một đợc mở rộng và trở nên đa dạng, phức tạp.
Cơ cấu tổ chức và mối liên hệ giữa những cơ quan nhà nớc có quan hệ mật
thiết và đợc thể hiện trên hai phơng diện: phơng diện kỹ thuật và phơng diện chính
trị. Về phơng diện kỹ thuật, mỗi nhiệm vụ phải đợc phân phối làm sao cho chúng
đợc hoàn thành một cách tốt nhất và phải điều hòa đợc hoạt động của mỗi cơ quan
cũng nh của cả hệ thống tổ chức nhằm bảo đảm sự nhất trí và liên kết giữa chúng.
Về phơng diện chính trị, cơ cấu tổ chức nhà nớc ảnh hởng sâu rộng đến quyền
hành mà nhà nớc sử dụng đối với công dân.
Dựa vào tính chất và cơ cấu của cơ quan nhà nớc, ngời ta phân chia thành
hai loại cơ quan chính quyền cơ bản:
Thứ nhất, những cơ quan đại diện (nghị viện), tức là những cơ quan làm
việc theo chế độ tập thể, trong đó, về nguyên tắc từng cá nhân không có quyền
hành gì.
Thứ hai, những cơ quan gồm có một ngời, hay một uỷ ban gồm một số ng-
ời, hay do sự kết hợp của một ngời và một uỷ ban. Ngời ta gọi loại cơ quan này là
cơ quan hành pháp hay chính phủ.
Căn cứ vào sự cấu tạo chính phủ, ngời ta phân chia ra ba loại chính phủ -
hành pháp điển hình: chế độ nhất quyền; chế độ chấp chính; chế độ lỡng quyền.
Sau đây chúng ta sẽ lần lợt nghiên cứu, tìm hiểu từng chế độ:
Chế độ nhất quyền, trong chế độ này, ông vua, nhà độc tài, vị hoàng đế hay
vị tổng thống,..., những cá nhân này thâu tóm tất cả quyền hành chính phủ vào tay
mình. Về mụch đích, chế độ này đợc lựa chọn nhằm tăng cờng cho công quyền
quyền lực tập trung, tức là gia tăng quyền lực. Tuy nhiên, quyền lực của chính phủ
đợc khuyếch trơng nhiều hay ít, và quyền lực đó có nguồn gốc xuất phát từ đầu
cũng nh mối quan hệ của chính phủ với các cơ quan nhà nớc khác tuỳ thuộc vào

chế độ nhất quyền này là chế độ quân chủ độc tài hay chế độ tổng thống (dân
chủ).
Chế độ chấp chánh, quyền lực nhà nớc trong chế độ này tập trung vào
trong tay hai ngời đợc liên kết với nhau, bình đẳng về quyền hành và uy thế, họ
phải cùng nhau quyết định mới có giá trị, nếu một bên chống đối lại thì sẽ làm tê
liệt tất cả các sáng kiến của bên kia. Ngày nay, chế độ này không còn tồn tại nữa,
trớc đây nó tồn tại ở Nhà nớc La mã cổ đại, và tái sinh ở Nhà nớc Pháp từ tháng 6
đến tháng 11 năm 1943 khi ban giải phóng quốc gia Pháp đặt dới quyền hai vị t-
ớng: De Gaulie và Giraud
Chế độ chấp chính thịnh hành hơn cả là giao phó quyền hành chính phủ cho
một nhóm ít ngời, và có hai đặc điểm: trớc hết, là không có một ngời chủ tịch
trong tập thể quyền lực, không có lá thăm nào đợc u quyền, không có đẳng cấp
trong tập thể đó; thứ đến, là tính tập thể, về nguyên tắc mọi cá nhân trong nhóm
không có quyền hành riêng, mọi quyết định đều dựa theo quyết định của tập thể
mới có hiệu lực.
Trong khi hành động, chính phủ chấp chánh gặp phải những khiếm khuyết
rất lớn mang tính bản chất. Bởi vì, thông thờng một ngời trong nhóm theo lẽ tự
nhiên a lấn át quyền hành đối với những ngời khác mà có khuynh hớng tiến tới
giữ vai trò chủ tịch. Vã lại, trong chế độ này luôn luôn có sự phân phối trách vụ
theo khả năng chuyên môn của mỗi cá nhân khiến cho mỗi ngời có một quyền và
khả năng hành động độc lập nhiều hay ít. Chế độ này, xét tổng quát là một nguyên
nhân khách quan làm suy yếu quyền hành pháp. Vì phải có một quyết định chung
nên có sự chậm trễ. Hơn nữa, những sự cạnh tranh cá nhân và những tranh giành
nội bộ trong việc chiếm đoạt quyền lực đã đa đến những hậu quả tai hại trong hoạt
động của chính phủ.
Chế độ lỡng quyền, là một thể thức hoà hiệp giữa chính phủ chấp chánh và
chính phủ tổng thống. Trong chế độ này, ngời ta thấy có hai cơ quan cùng song
song tồn tại, đó là một vị quốc trởng độc lập bên cạnh một cơ quan tập thể. Cơ
quan tập thể này thờng đợc gọi là nội các, mà nhân viên của nó do quốc trởng
công cử, phần nhiều trong số đó là đảng viên của đảng phái chiếm đa số trong

quốc hội.
Nội các trong chế độ này có hai đặc điểm: trớc hết, nhân viên nội các đợc
hởng một quyền tự trị khá rộng rãi đối với quốc trởng, dẫu là do quốc trởng chỉ
định, họ có thể dựa vào quốc hội mà chống lại quốc trởng. Trong hoạt động của
nội các, họ còn đợc độc lập quyết định trong phạm vi quyền hạn của mình chứ
không phải chỉ là phụ tá mà thôi; thứ đến, nội các làm việc theo chế độ độc tập
thể, mỗi nhân viên có một trạch vụ riêng biệt độc lập với các nhân viên khác, song
tất cả đều liên đới chịu trách nhiệm trớc quốc trởng và trớc nghị viện nên họ phải
có những quyết định chung đối với các vấn đề quan trọng, và về nguyên tắc, chính
sách của mỗi cá nhân trong nội các không đợc mâu thuẫn với chính sách của tập
thể nội các.
Các nhân viên nội các đều có vị trí bình đẳng, đều có quyền quyết định nh
nhau, tuy nhiên, thờng có một ngời gây đợc u thế, ảnh hởng của mình đối với nội
các, đó là vị chủ tịch nội các hay thờng đợc gọi là thủ tớng. Thủ tớng đợc quốc tr-
ởng chỉ định, quốc trởng không thể chỉ định ai khác ngoài thủ lĩnh của đảng
chiếm đa số trong nghị viện, nếu không có đảng nào chiếm đa số trong nghị viện
thì các đảng phải tiến hành liên minh với nhau để thành lập chính phủ liên hiệp,
chức vị thủ tớng nội các do các đảng thỏa hiệp chọn ra. Thủ tớng thờng đợc trao
quyền lựa chọn những nhân viên nội các rồi trình quốc trởng chấp nhận. Đồng
thời, thủ tớng đợc chủ toạ các buổi họp của nội các khi quốc trởng không tham
dự, và đợc nhân danh nội các phát biểu trớc nghị viện.
Cơ cấu nghị viện.
Cơ cấu chính quyền tiếp theo mà chúng ta nghiên cứu đó là những nghị
viện (cơ quan đặc diện.)
Sự cấu tạo của các nghị viện mang những điển hình rất phức tạp, chúng có
thể đợc xếp thành nhiều loại. Chúng ta chỉ đề cập tới những loại nghị viện có tính
chất đặc trng, điển hình để giải thích nội dung các hình thức chính thể nhà nớc.
Trớc hết, theo tính chất và vai trò của nghị viện trong hoạt động của bộ
máy nhà nớc, ta phân biệt nghị viện thành hai loại: những nghị viện chỉ có quyền
t vấn và những nghị viện có quyền nghị quyết''. Loại nghị viện thứ nhất chỉ có

thể phát biểu những ý kiến, hay đa ra những kiến nghị t vấn cho hoạt động của
chính phủ, mà chính phủ có thể tự do bỏ qua những ý kiến, kiến nghị đó, trừ khi
có uy tín và thẩm quyền kỷ thuật mà đa ra đợc những ý kiến có sức nặng khiến
cho chính phủ vị nể không thể bỏ qua. Loại nghị viện này xuất hiện vào thời kỳ
đầu của sự hình thành chế độ nghị viện, và hiện nay nó vẫn còn tồn tại ở một số n-
ớc kém phát triển và những nớc quân chủ chuyên chế. Loại nghi vấn viện thứ hai
mới thật sự có vai trò quan trọng hoạt động của nhà nớc. Hoạt động của chính phủ
đều phải dựa trên cơ sở những quyết định của nghị viện, và chính phủ chỉ đợc
phép hoạt động cho đến khi còn sự tín nhiệm của nghị viện.
Thứ hai, theo chính thể, chúng ta phân biệt thành ba mô hình nghị viện:
nghị viện của những nớc theo chính thể đại nghị cả cộng hoà lẫn quân chủ; nghị

×