Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

sự kế thừa, phát triển chính thể hiến pháp 1946 trong các hiến pháp việt nam và một số kiến nghị về hoàn thiện cơ sở hiến định của mô hình tổ chức nhà nước việt nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.7 KB, 29 trang )

sự kế thừa, phát triển chính thể hiến pháp 1946
trong các hiến pháp việt nam và một số kiến nghị
về hoàn thiện cơ sở hiến định của mô hình tổ chức
nhà nớc việt nam hiện nay.
3.1. Sự kế thừa, phát triển chính thể Hiến pháp 1946 trong
các Hiến pháp Việt Nam
Xét về mặt lịch sử, hơn nửa thế kỷ của nền lập hiến Việt Nam đợc đánh dấu
bằng 4 bản Hiến pháp: Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến
pháp 1992. Hơn 50 năm qua, Đảng, Nhà nớc và nhân dân ta vừa chiến đấu, vừa
xây dựng đất nớc để dành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, chủ quyền của
đất nớc, kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ - đó là chặng đờng mà nền lập
hiến Việt Nam đã đi qua. Đó là chặng đờng cha dài của một nền lập hiến nhng
đầy ắp những sự kiện lịch sử tiêu biểu thể hiện tinh thần khát khao hoà bình, yêu
chuộng độc lập, tự do, dân chủ của dân tộc Việt Nam. Thời điểm ra đời của mỗi
Hiến pháp gắn liền với thời điểm có tính cách mạng của dân tộc phản ánh một
thời kỳ phát triển sôi động, khẩn trơng nhng không ít những trở ngại, khúc khỉu
của xã hội Việt Nam. Qua chặng đờng phát triển đó, trên phơng diện chính thể
nhà nớc, có thể rút ra các đặc điểm chung có tính phổ biến của nền lập hiến nói
chung, đồng thời có thể rút ra những nét đặc thù, những đặc trng trong quá trình
kế thừa và phát triển của các Hiến pháp Việt Nam.
Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam, Hiến pháp 1946, ra đời trên cơ sở đồng
nhất, nhất quán giữa một hệ t tởng cách mạng mang đậm đà bản chất dân chủ,
nhân dân với một cơ sở xã hội, thực tế đấu tranh giai cấp, dân tộc quyết liệt, có
tính sống còn của toàn dân tộc, một dân tộc từ kiếp nô lệ vùng dậy đấu tranh
giành độc lập, tự do. Bản chất nhân dân, dân chủ, ngay từ đầu đã đợc thể hiện một
cách nhất quán, đậm nét trong Hiến pháp.
Đến lợt mình, Hiến pháp trở thành công cụ mạnh mẽ thể chế hoá quyền của
nhân dân làm chủ Nhà nớc, làm chủ chế độ.
Trong quá trình phát triển của mình, nền lập Hiến pháp Việt Nam không
vận động một cách thụ động, đuổi theo sự phát triển của xã hội, mà nh thực tế chỉ
rõ, đã thể hiện vai trò tích cực, năng động sáng tạo, phát triển một cách khẩn tr-


ơng không chỉ để theo kịp mà còn nhằm tác động một cách tích cực, mạnh mẽ lên
sự phát triển, vận động đi lên của xã hội.
Nhìn một cách bao quát, có thể thấy các nhân tố sau đây có tầm quan trọng
quyết định đến bản chất, nội dung, định hớng phát triển của nền lập hiến Việt
Nam. Trớc hết là vai trò lãnh đạo sáng suốt, nhất quán của Đảng Cộng sản Việt
Nam thể hiện thông qua đờng lối cách mạng đúng đắn dựa trên trên học thuyết
Mác - Lênin và t tởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, đó còn là tính chất nhân dân, thực
sự cách mạng của cuộc đấu tranh kiên định của cả dân tộc vì độc lập, tự do vừa kế
thừa, phản ánh truyền thống đấu tranh dựng nớc và giữ nớc, vừa phản ánh những
đặc thù mang tính thời đại của cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam .
Ba nguyên tắc và nhiệm vụ đợc định ra trong ''lời nói đầu'' của Hiến pháp
1946 sẽ chi phối và xuyên suốt nội dung của các chế định trong Hiến pháp này và
về cơ bản, của các Hiến pháp Việt Nam.
Lời nói đầu khẳng định các nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp: ''Đoàn kết
toàn dân không phân biệt nòi giống, gái trai, giai cấp, tôn giáo; Đảm bảo các
quyền tự do, dân chủ; Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
dân'' [14;7-8].
Cùng với các nguyên tắc lập hiến, ''lời nói đầu'' khẳng định: Nhiệm vụ của
dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và
kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ [14;7].
Ba nguyên tắc và nhiệm vụ đợc định ra trong Hiến pháp 1946, ở những giai
đoạn phát triển sau này của Hiến pháp Việt Nam, sẽ đợc vận dụng, kế thừa và phát
triển một cách thích hợp với tình hình và nhiệm vụ của cách mạng đặt ra cho từng
thời kỳ đợc thể hiện qua các quan điểm, t tởng cơ bản xuyên suốt sau đây của nền
lập hiến Việt Nam .
+ Tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc luôn hoà quyện vào nhau
trong các thiết chế, chế định của nền độc lập hiến phù hợp tình hình, nhiệm vụ
đấu tranh cách mạng của từng giai đoạn.
+ Nhiệm vụ xây dựng, kiến thiết nớc nhà trên nền tảng dân chủ gắn liền
một cách hữu cơ với nhiệm vụ giữ nớc, bảo vệ tổ quốc Việt Nam độc lập, thống

nhất, luôn đợc các Hiến pháp phản ánh, thể chế hoá phù hợp với điều kiện, hoàn
cảnh của từng giai đoạn phát triển của đất nớc.
+ Theo sự phát triển của xã hội, các quyền tự do, dân chủ của công dân đợc
bảo đảm theo hớng ngày càng đợc mở rộng trở thành một chế định cơ bản lần lợt
bao quát tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
+ Các Hiến pháp đều thể hiện một định hớng nhất quán về xác lập một mô
hình tổ chức quyền lực nhà nớc mang đậm bản chất nhân dân. Một bộ máy nhà n-
ớc phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng giai đoạn phát triển. Chúng luôn luôn
nhất quán với nguyên tắc đã đợc ghi trong ''lời nói đầu của bản Hiến pháp đầu
tiên và trở thành t tởng chỉ đạo của nền độc lập hiến Việt Nam, đó là nguyên tắc:
''Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân''.
Trớc khi đi vào phân tích sự kế thừa và phát triển chính thể Hiến pháp 1946
trong các Hiến pháp Việt Nam chúng ta sẽ lần lợt đề cập với hoàn cảnh ra đời và
trên phơng diện chính thể nhà nớc, đề cập tới những nội dung cơ bản, quan trọng
của các Hiến pháp Việt Nam sau này.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, thực dân pháp bắt buộc phải ký kết
Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 tại Hội nghị quốc tế với sự tham gia của các cờng quốc
hàng đầu thế giới. Các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta: độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ đã đợc long trọng khẳng định. Đất nớc bớc sang một
thời kỳ mới, thời kỳ miền Bắc hoàn toàn giải phóng, qúa độ lên chủ nghĩa xã hội
trong khi miền Nam vẫn phải đặt dới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân kiểu
Mĩ. Cuộc đấu tranh vì những quyền dân tộc cơ bản đã đợc thừa nhận trong điều ớc
quốc tế phải đợc thừa nhận trên thực tế. Và miền Bắc trở thành hậu phơng lớn cho
nhân dân miền Nam đánh đuổi bè lũ xâm lợc, thống nhất nớc nhà.
Trải qua một thời gian dài, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nớc
cũng nh trên thế giới đã có những thay đổi. ở miền Bắc, giai cấp địa chủ phong
kiến đã bị đánh đổ, liên minh giai cấp công nhân và nông dân ngày càng đợc củng
cố và vững mạnh. Vai trò, vị trí của Đảng Cộng sản (Đảng Lao động) đã dần đợc
khẳng định và công nhận. Trong hoàn cảnh đó, Hiến pháp 1946 không còn phù
hợp, nhu cầu cấp bách đặt ra là phải xây dựng một bản Hiến pháp mới thích ứng

với tình hình và nhiệm vụ mới của dân tộc. Hiến pháp mới sẽ đáp ứng mọi mặt
trong đời sống xã hội, đồng thời củng cố sức mạnh toàn Đảng, toàn dân tiếp tục
công cuộc trờng kỳ kháng chiến giải phóng đất nớc. Hiến pháp 1959 ra đời đáp
ứng nhu cầu đó của đất nớc. Hiến pháp 1959 vừa khẳng định sự kế thừa nhiều quy
định của Hiến pháp 1946, vừa phát triển các chế định của Hiến pháp này và đa
nền lập hiến Việt Nam vào nền lập hiến xã hội chủ nghĩa.
So với Hiến pháp 1946, về hình thức chính thể và bản chất nhà nớc, quy
định của Hiến pháp 1959 không thay đổi. Nhng trên thực tế, Nhà nớc Việt Nam
dần dần chuyển sang mô hình mang bản chất của Nhà nớc công nông của hệ
thống các nớc xã hội chủ nghĩa. Trong tổ chức quyền lực nhà nớc, Hiến pháp vẫn
trung thành với nguyên tắc tập quyền, trong đó quyền lực thuộc về nhân dân.
Quốc hội đợc quy định là cơ quan quyền lực nhà nớc cao nhất. Chủ tịch nớc là
Nguyên thủ quốc gia theo chính thể cộng hoà đại nghị không còn là ngời trực tiếp
lãnh đạo hành pháp nh quy định của Hiến pháp 1946.
Chính phủ đợc gọi là Hội đồng Chính phủ, là cơ quan chấp hành của Quốc
hội và là cơ quan hành chính nhà nớc cao nhất. Hệ thống t pháp gồm có Toà án và
Viện kiểm sát đợc tổ chức theo đơn vị hành chính.
Chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975 đã mở ra một giai đoạn mới trong
lịch sử dân tộc ta, thống nhất nớc nhà và đa cả nớc đi lên chủ nghĩa xã hội. Một
nhu cầu hết sức cấp thiết mà Đảng và Nhà nớc ta đặt ra lúc bấy giờ là xây dựng
một bản Hiến pháp mới phù hợp với tình hình đất nớc, tạo điều kiện cho nhân dân
ổn định cuộc sống, xây dựng đất nớc sau những năm dài chiến tranh. Về chính
thể, Hiến pháp khẳng định việc xây dựng một Nhà nớc xã hội chủ nghĩa, với bản
chất của một Nhà nớc chuyên chính vô sản của giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân dới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Về tổ chức và thực hiện quyền lực
nhà nớc, nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa đợc quán triệt sâu sắc và tiến
thêm một bớc nữa trong việc thể hiện nguyên tắc tập quyền, quan điểm làm chủ
tập thể đợc thể hiện rõ nét hơn qua các thiết chế hoàn toàn mới nh Hội đồng Nhà
nớc - Chủ tịch tập thể của Nhà nớc không chỉ là Nguyên thủ quốc gia mà còn là
cơ quan thờng trực của Quốc hội, hay Hội đồng Bộ trởng - Chính phủ là cơ quan

chấp hành và hành chính nhà nớc cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nớc cao
nhất. Với Hiến pháp 1980, nớc ta bắt đầu một thời kỳ mới, cả nớc thống nhất qúa
độ lên chủ nghĩa xã hội với cách nhìn có phần đơn giản bằng cách thiết lập một cơ
chế kế hoạch hoá cao độ nền kinh tế quốc dân theo mô hình tập trung, quan liêu,
bao cấp, thực chất không thừa nhận sản xuất hàng hoá.
Sau những năm dài sống trong thời kỳ tập trung, bao cấp, nền kinh tế, chính
trị, xã hội nớc ta suy giảm nghiêm trọng. Đảng và Nhà nớc ta thông qua Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra phơng hớng, nhiệm vụ đổi mới toàn diện đất
nớc. Trớc hết là, từng bớc đoạn tuyệt với cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp, để xác lập cơ chế kinh tế mới - nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc theo định h-
ớng xã hội chủ nghĩa. Xét theo ý nghĩa của nó, đây là sự điều chỉnh lớn, có tính
chất cách mạng, và sẽ là tiền đề, là cơ sở cho việc đổi mới các lĩnh vực khác của
đất nớc. Tiếp đến, để phù hợp với cơ chế kinh tế mới, cần phải đổi mới hệ thống
chính trị. Để làm đợc điều này, trớc tiên và cực kỳ quan trọng là phải xác định đợc
nguyên tắc, chủ trơng, đờng lối đổi mới. Một trong những nguyên tắc chủ đạo về
mô hình tổ chức quyền lực nhà nớc đợc Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra là: "Quyền
lực nhà nớc là thống nhất, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
nhà nớc trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tự pháp".
Nh vậy, Đảng và Nhà nớc ta đã có sự nhìn nhận mới về tổ chức quyền lực
nhà nớc. Nếu nh trớc đây, chúng ta phủ nhận hoàn toàn học thuyết phân quyền
đặc biệt là theo quy định của Hiến pháp 1980, thì cho tới thời điểm này, những hạt
nhân hợp lý của học thuyết đó đã đợc chấp nhận và áp dụng vào việc tổ chức
quyền lực nhà nớc. Tuy nhiên, nếu nhìn lại Hiến pháp 1946, chúng ta có thể thấy
sự tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc áp dụng hạt nhân hợp lý của học
thuyết phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nớc hồi bấy giờ. Mà đến khi Hiến
pháp 1992 ra đời đã trở lại với nhiều quy định của Hiến pháp 1946.
Về tổ chức quyền lực nhà nớc, vẫn áp dụng nguyên tắc tập quyền nhng đã
có sự nhận thức lại cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Quốc hội vẫn đợc
coi là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nớc cao

nhất. Chính phủ không còn là cơ quan hành chính nhà nớc của Quốc hội mà đợc
quy định là cơ quan hành chính nhà nớc cao nhất. Chế định Hội đồng Nhà nớc
không còn phù hợp đã đợc tách ra làm hai cơ quan tơng tự nh Hiến pháp 1959 là
Chủ tịch nớc và Uỷ ban Thờng vụ Quốc hội.
Sau 10 năm tồn tại, với sự biến đổi của tình hình kinh tế - xã hội trong nớc
cũng nh quốc tế. Một số quy định của Hiến pháp 1992 không còn phù hợp, đặc
biệt là quy định về bộ máy nhà nớc. Do đó, chúng ta đã tiến hành sửa đổi, bổ sung
một số quy định của Hiến pháp 1992. Lần sửa đổi này chỉ mang tính chất chỉnh lý
lại một số quy định nhỏ chứ không có sự thay đổi lớn.
Trở lại với những t tởng, quan điểm xuyên suốt của nền lập hiến và sự kế
thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam. Trên phơng diện chính thể nhà n-
ớc, ta có thể xem xét, phân tích những biểu hiện cụ thể sau đây:

3.1.1. Về tính chất của Nhà nớc
Về tính chất, bản chất của Nhà nớc, các Hiến pháp đều biểu hiện sự hoà
quyện vào nhau giữa tính giai cấp, tính dân tộc, tính nhân dân phù hợp với tình
hình, nhiệm vụ của từng thời kỳ lịch sử.
T tởng, quan điểm của những biểu hiện trên đây xuyên suốt trong các Hiến
pháp Việt Nam. Do đó, các Hiến pháp dù có ra đời trong hoàn cảnh lịch sử khác
nhau, nhng chúng vẫn luôn giữ đợc một định hớng nhất quán về chính trị, t tởng.
Điều này đã đợc Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong "Báo cáo về Dự thảo Hiến
pháp sửa đổi (1959). Ngời viết: "Tính chất nhà nớc là vấn đề cơ bản của Hiến
pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền về tay ai và
phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp"
[5;126].
Tuy nhiên, trong điều kiện cụ thể của Cách mạng Việt Nam, những nội
dung quan điểm, t tởng về tính chất nhà nớc, về chế độ chính trị phải có những
biểu hiện thích ứng với hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Trong
những năm đầu của chính quyền cách mạng, khi nhiệm vụ giai cấp với nhiệm vụ
dân tộc chi phối, gắn bó mật thiết với nhau, khi nhiệm vụ "bảo toàn lãnh thổ,

giành độc lập hoàn toàn" đợc đặt lên hàng đầu thì những quy định của Hiến pháp
1946 chứng tỏ đã tìm ra đờng lối phù hợp với hoàn cảnh lúc đó. Và "Đoàn kết
toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo" đã trở thành
nguyên tắc lập hiến. Thể hiện t tởng này, Điều 1 Hiến pháp 1946 quy định: "Tất
cả quyền bính trong nớc là của toàn thể nhân dân, không phân biệt nòi giống, gái
trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Điều 1 cũng khẳng định chính thể nhà nớc:
"Nớc Việt Nam là một nớc dân chủ cộng hoà", Chính thể Việt Nam dân chủ cộng
hoà là "một chính thể dân chủ rộng rãi". Điều này đợc thể hiện trong cuộc đấu
tranh giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, không những có sự tham gia
của giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và binh lính mà còn có sự
tham gia của những ngời xuất thân từ tầng lớp địa chủ, t sản nhng yêu nớc thơng
nòi. Vì thế, Nhà nớc dân chủ nhân dân đầu tiên của ta là Nhà nớc đoàn kết toàn
dân Việt Nam.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhân dân là một phạm trù có
nội dung giai cấp. Theo đó, khái niệm nhân dân không đồng nhất với khái niệm
dân c trong một nớc. Tuy nhiên, trong một chế độ dân chủ rộng rãi, khái niệm
nhân đân đợc mở rộng, bao gồm các giai cấp, các tầng lớp dân c rộng rãi nhất, trừ
một số bộ phận nhỏ thù địch với độc lập dân tộc, chống phá cách mạng.
Hiến pháp 1959 xác định: "Nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà... là một nớc
dân chủ nhân dân" (Điều 2). Tính chất nhân dân của chế độ dân chủ thay cho tính
chất "dân chủ rộng rãi" ở Hiến pháp 1946, vừa thể hiện sự kế thừa, vừa thể hiện sự
phát triển. Ngay tại lời nói đầu Hiến pháp 1959 cũng khẳng định: "Nhà nớc của
ta là Nhà nớc dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng của liên minh công nông, do
giai cấp công nhân lãnh đạo". Theo quy định của Hiến pháp 1959, về hình thức
chính thể của Nhà nớc không thay đổi so với Hiến pháp 1946. Nhng Hiến pháp
cũng đã có những định hớng nhằm chuyển dần sang mô hình Nhà nớc mang bản
chất của Nhà nớc công nông của hệ thống các nớc xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ.
Mà thể hiện rõ nét là các quy định về chế độ kinh tế. Điều 9, Hiến pháp 1959 quy
định: "Nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên
chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ

nghĩa xã hội...". Theo đó, nền kinh tế chỉ còn bốn hình thức sở hữu, là: sở hữu nhà
nớc, sở hữu hợp tác xã, sở hữu của ngời lao động riêng lẻ và sở hữu của nhà t sản
dân tộc (Điều 11). Và xác định kinh tế quốc doanh thuộc hình thức sở hữu nhà n-
ớc giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân (Điều 12). Nhà nớc cũng định h-
ớng và khuyến khích ngời lao động làm ăn theo phơng thức tập thể, cụ thể là hớng
dẫn và giúp đỡ họ phát triển kinh tế hợp tác xã (Điều 13).
Về bản chất chế độ chính trị, Điều 4 tiếp tục khẳng định: "Tất cả quyền lực
trong nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng
quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân
dân bầu ra và chịu trách nhiệm trớc nhân dân".
Hiến pháp cũng đã lần đầu tiên ghi nhận vai trò lãnh đạo sáng suốt của
Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản), và cũng lần đầu tiên vai trò
của Mặt trận dân tộc thống nhất trong việc đoàn kết rộng rãi toàn dân trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và thực hiện thống nhất nớc nhà.
Nh vậy, về chính thể, Hiến pháp 1959 cũng nh Hiến pháp 1946 đều khẳng
định là chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân, với bản chất chế độ chính trị dân
chủ cộng hoà là quyền lực thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, đã có sự thay thế tính
chất "dân chủ rộng rãi" trong Hiến pháp 1946 bằng tính chất nhân dân trong Hiến
pháp 1959 và từng bớc chuyển đổi mô hình dân chủ nhân dân sang mô hình mang
bản chất của Nhà nớc công nông của hệ thống các nớc xã hội chủ nghĩa.
ở Hiến pháp 1980, tính chất của Nhà nớc đã đợc xác định ngay tại tên gọi:
Hiến pháp nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Không giống nh Chơng I
Hiến pháp 1946 gọi là "Chính thể", Chơng I Hiến pháp 1980 gọi là "Nớc cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Chế độ chính trị". Việc thay "Chính thể" bằng "Chế
độ chính trị" biểu hiện việc nhận thức lại cơ cấu tổ chức, phạm vi của quyền lực
chính trị.
Từ quy định của Hiến pháp, ta thấy chính thể - chế độ chính trị nhà nớc là
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sự ghi nhận này vừa có tính kế thừa, vừa thể
hiện sự phát triển so với Hiến pháp 1959. Những vấn đề về chính thể, chế độ
chính trị mà Hiến pháp 1959 cha có điều kiện để ghi nhận thì Hiến pháp 1980 đã

hoàn chỉnh nó và quy định ở mức độ hoàn chỉnh hơn trong chế độ chính trị xã hội
chủ nghĩa.
Xác định bản chất giai cấp của Nhà nớc ta là Nhà nớc chuyên chính vô sản,
sứ mệnh lịch sử của Nhà nớc là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động, động viên và tổ chức nhân dân tiến hành xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã
hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản (Điều 2). Ngời làm chủ tập thể là nhân dân lao
động bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã
hội chủ nghĩa và những ngời lao động khác mà nòng cốt là liên minh công nông,
do giai cấp công nhân lãnh đạo (Điều 3). Ta thấy, nếu nh ở Hiến pháp 1959 mới
chỉ quy định mang tính định hớng về việc tập thể hoá của ngời lao động thì đến
Hiến pháp 1980, t tởng "tập thể" đã đợc quán triệt một cách sâu sắc trở thành t t-
ởng chỉ đạo xuyên suốt nội dung của Hiến pháp. Đồng thời, bản chất giai cấp
chuyên chính vô sản cũng đã đợc thể hiện một cách rõ nét nhất, mà ở Hiến pháp
1959 chỉ mới quy định tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội.
Tính chất của Nhà nớc cũng đợc Hiến pháp thể hiện đậm nét qua việc quy
định chế độ kinh tế. Nếu nh ở Hiến pháp 1959 quy định còn bốn hình thức sở hữu,
thì Hiến pháp 1980 chỉ quy định hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể. Trong đó, kinh tế quốc doanh (thuộc sở hữu toàn dân) giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế quốc dân và đợc phát triển u tiên. (Điều 18).
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp thể chế hoá vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nớc và xã hội vào một điều của Hiến pháp (Điều
4). Sự thể chế hoá này thể hiện sự thừa nhận chính thức của Nhà nớc về vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Mặt khác, cũng có nghĩa là bắt buộc các cơ quan
nhà nớc, các tổ chức xã hội, các đoàn thể quần chúng phải tuân thủ sự lãnh đạo
của Đảng.
Ngoài việc thể chế hoá vai trò lãnh đạo của Đảng vào Hiến pháp, Hiến pháp
1980 còn xác định vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội quan trọng khác
nh Mặt trận tổ quốc Việt Nam (Điều 9), Tổng công đoàn Việt Nam (Điều 10).
Đây cũng là lần đầu tiên vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị xã hội này đợc ghi
nhận trong các điều khoản của Hiến pháp.

Hiến pháp 1980 kế thừa t tởng của Hiến pháp 1959 nhấn mạnh quyền lực
nhà nớc thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm
trớc nhân dân. Đồng thời nhấn mạnh và quán triệt sâu sắc nguyên tắc tập trung
dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nớc.. Ngoài ra, Hiến pháp
còn quy định nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây là nguyên tắc hoàn toàn
mới so với Hiến pháp 1959. Tại điều 12 Hiến pháp xác định: "Nhà nớc quản lý xã
hội theo pháp luật và không ngừng tăng cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa".
Hiến pháp 1980 ra đời trong hoàn cảnh đất nớc đang chan hoà khí thế lạc
quan của đại thắng mùa xuân năm 1975. Do đó, t tởng duy ý chí, chủ quan, nóng
vội đã xuất hiện. Cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp trong thời chiến đã không đ-
ợc khắc phục mà còn đợc ghi nhận đậm nét hơn trong Hiến pháp. Vì vậy, Hiến
pháp 1980 đã không tránh khỏi những nhợc điểm nhất định.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra một thời kỳ đổi mới
cho đất nớc. Đảng đã chủ trơng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện những thiếu sót,
sai lầm của Đảng, của Nhà nớc, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy t duy
độc lập, sáng tạo của các tầng lớp nhân dân lao động trên cơ sở nhận thức mới
đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và vạch ra những chủ trơng, chính sách mới nhằm
xây dựng một xã hội dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hiến pháp 1992 ra đời nhằm ghi nhận, phản ánh đờng lối đổi mới đó.
Tại chơng I- Chế độ chính trị, Hiến pháp 1992 kế thừa Hiến pháp 1980 tiếp
tục quy định tính chất của Nhà nớc ta là Nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghiã. Tuy
nhiên, ở mỗi Hiến pháp cách thể hiện cũng phản ánh nhận thức quan niệm chính
thống về chủ nghĩa xã hội. Nếu nh Hiến pháp 1980 ghi nhận: ''... Ngời làm chủ tập
thể là nhân dân lao động bao gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể,
tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa và những ngời lao động khác mà nòng cốt là
liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo'' (Điều 3). Hiến pháp 1992,
khi khẳng định liên minh công nông là nền tảng của quyền lực nhà nớc đã có cách
thể hiện mới, mở rộng hơn so với Hiến pháp1980: ''Tất cả quyền lực nhà nớc
thuộc về nhân dân mà nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông

dân và tầng lớp trí thức (Điều 2). Về bản chất giai cấp của Nhà nớc, khác với
Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 không ghi rõ ''Nhà nớc ta là nhà nớc chuyên
chính vô sản, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động'' mà chỉ quy định
''Nhà nớc ta là nhà nớc của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ...''. Đây là một
sự điều chỉnh lớn thể hiện một nhận thức hoàn toàn mới về tính chất của giai đoạn
lịch sử quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng nh tính chất của chính quyền và nhiệm
vụ cách mạng. Hiến pháp sửa đổi, bổ sung đã mong muốn xây dựng một Nhà nớc
Pháp quyền bằng quy định: ''Nhà nớc Cộng hoà chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nớc
Pháp quyền xã hội chủ nghĩa ... Đồng thời khẳng định một cách dứt khoát:
Quyền lực nhà nớc là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan
nhà nớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, t pháp (Điều 2).
Ngoài ra, kế thừa Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 cũng xác định các
nguyên tắc cơ bản khác về tổ chức quyền lực nhà nớc, nh: vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nớc và xã hội Việt Nam (Điều 4); nguyên
tắc tập trung dân chủ (Điều 6); nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa ( Điều 2);...
Để cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hiến pháp 1992 quy định Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của nó là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân (Điều 9).
Về chế độ kinh tế, Hiến pháp 1992 đã trở lại với những quy định của Hiến
pháp 1946 bằng việc thừa nhận một chế độ kinh tế nhiều thành phần với các hình
thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng (Điều 15) và ghi nhận quyền tự do kinh
doanh của công dân (Điều 57). Nhng chúng đợc tồn tại trong một chế độ kinh tế
định hớng xã hội chủ nghĩa, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền
tảng. Quy định trên đây là một sự thay đổi lớn, phản ánh nhận thức mới về quá
trình đi lên chủ nghĩa xã hội, đó cũng là thay đổi căn bản làm cơ sở cho sự thay
đổi các chế định khác của Hiến pháp.
Khác với Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 quy định đờng lối đối ngoại
rộng mở. Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nớc trên thế giới trên cơ sở tôn
trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi.

Nh vậy, qua phân tích chính thể, chế độ chính trị của 4 bản Hiến pháp, ta có
thể thấy tính kế thừa và sự phát triển trong quy định về tính chất của nhà nớc từ
chế độ dân chủ cộng hoà với các hình thức dân chủ rộng rãi trong Hiến pháp
1946, lên dân chủ nhân dân theo Hiến pháp 1959, và Hiến pháp 1980 và 1992 là
dân chủ xã hội chủ nghĩa.
3.1.2. Về các quyền tự do, dân chủ của công dân
Theo sự phát triển của xã hội, các quyền tự do, dân chủ của công dân đợc
bảo đảm theo theo hớng ngày càng đợc mở rộng trở thành một chế định cơ bản lần
lợt bao quát tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.
Một trong ba nguyên tắc đợc ghi nhận trong lời nói đầu của Hiến pháp
1946 là "đảm bảo các quyền tự do dân chủ". Về phơng diện này, Hiến pháp 1946
thực sự là một Hiến pháp điển hình với các quy định mang lại các quyền tự do,
dân chủ cho công dân. Hiến pháp đã giành hẳn một chơng và đặt nó ở vị trí trang
trọng (Chơng II) để quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân. Toàn bộ Hiến
pháp 1946 có 70 điều thì đã có 18 điều quy định các quyền tự do dân chủ của
công dân, thể hiện bản chất thật sự dân chủ và là một nền dân chủ rộng rãi của
chế độ mới. Trong lĩnh vực này, di sản mà Hiến pháp 1946 để lại cho các Hiến
pháp sau là rất lớn. Cả ba Hiến pháp sau đều dành hẳn một chơng và đặt ở vị trí
trang trọng để quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân với phạm vi
ngày càng đợc mở rộng. Chỉ xét riêng số lợng điều ở mỗi Hiến pháp cũng ngày
càng lớn hơn: ở Hiến pháp 1959 có 21 điều; ở Hiến pháp 1980 có 29 điều; ở Hiến
pháp 1992 đã lên tới 34 điều.
Đơng nhiên, ở mỗi Hiến pháp sau, các quyền tự do dân chủ của công dân
không phải là sự lặp lại các quy định của Hiến pháp trớc, kể cả Hiến pháp 1946. ở
các bản Hiến pháp sau, quyền tự do dân chủ của công dân luôn đợc hoàn chỉnh
theo hớng mở rộng về số lợng và làm phong phú nội dung của các quyền phù hợp
với bớc đi của từng giai đoạn lịch sử trong sự kế thừa và phát triển. Sự kế thừa
không đồng nghĩa với việc sao chép nguyên xi những cái đã qua, cái đi trớc, mà
sự kế thừa đúng đắn phải đợc đặt trong sự vận động, phát triển.
So với Hiến pháp 1946, ở Hiến pháp 1959 đã hoàn chỉnh một bớc chế định

quyền tự do dân chủ nói riêng, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân nói chung
thể hiện sự phát triển theo các hớng sau đây: thứ nhất, nếu nh ở Hiến pháp 1946 đ-
ợc thể hiện một cách cô đọng, ngắn gọn thì ở Hiến pháp 1959 đợc diễn giải theo
cả chiều rộng và chiều sâu; thứ hai, ở Hiến pháp sau phản ánh giai đoạn và trình
độ phát triển mới cả về vật chất lẫn trình độ t duy, nhận thức đã bổ sung nhiều
quyền mới mà ở Hiến pháp 1946 cha cho phép ghi nhận hoặc cha có nhu cầu ghi
nhận trong đạo luật cơ bản; thứ ba, có những quyền và nghĩa vụ mà ở Hiến pháp
1946 đợc phản ánh ở nhiều điều khoản thì ở Hiến pháp 1959 đã tập trung vào một
số điều hạn chế.
Các hớng phát triển trên cơ sở kế thừa cũng đợc lập lại ở 2 Hiến pháp sau
(1980 và 1992). Và nh trên đã chỉ rõ, về phạm vi ở hai Hiến pháp này, chế định
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ngày càng đợc mở rộng, đã có nhiều
quyền mới đợc bổ sung. Không chỉ dừng lại ở phạm vi, quy định thêm những
quyền mới mà các Hiến pháp sau bao giờ cũng có sự bổ sung làm sâu sắc, phong
phú thêm các quyền đã đợc quy định ở Hiến pháp trớc. Một nét mới khác ở Hiến
pháp 1980 so với Hiến pháp 1959 là quyền công dân đợc quan niệm trong nhiều
trờng hợp không chỉ liên quan đến từng cá nhân mà là cả một thế hệ, một lớp ng-
ời.
Khi nói đến Hiến pháp 1980, ta cần thấy rõ hoàn cảnh trong nớc và quốc tế
khi Hiến pháp đợc ban hành mà nó đã in đậm trong toàn bộ nội dung của Hiến
pháp, đặc biệt đối với Chơng "quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân". Đó là việc
Hiến pháp đã thể chế hoá cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp mà
không lâu sau khi Hiến pháp có hiệu lực nó đã sớm bộc lộ tính chất chủ quan,
nóng vội, duy ý chí muốn tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội mà bỏ qua
giai đoạn quá độ.
Chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ở Hiến pháp 1992, đơng
nhiên là kế thừa và phát triển của nhiều quy định của Hiến pháp 1980. Tuy nhiên,
nói một cách khách quan, đã có một sự điều chỉnh lớn các quy định của Hiến
pháp 1980. Đồng thời, ở Hiến pháp 1992 một số quyền lần đầu tiên đợc ghi nhận.
So với Hiến pháp 1946, chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân

theo Hiến pháp 1992 đã có những nét tơng đồng hay nói cụ thể hơn là đã có sự trở
lại với những quy định của Hiến pháp 1946. Qua đó, càng thấy rõ sự kế thừa, phát
triển trong cái biện chứng của nó.
Một quy định rất mới, rất đặc sắc của Hiến pháp 1992 về chế định quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân là lần đầu tiên khái niệm quyền con ngời (nhân
quyền) đợc trang trọng ghi nhận trong Hiến pháp. Điều này đa chế định này lên
mặt bằng ngang với nhiều Hiến pháp của các nớc. Và chúng hoàn toàn không đối
lập, mâu thuẫn với các quyền cơ bản của công dân vốn đã đợc các Hiến pháp Việt
Nam ghi nhận, mở rộng, phát triển. Vì theo quan niệm của các nhà lập hiến Việt
Nam, quyền con ngời về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội... đợc thể
hiện ở các quyền công dân và đợc quy định trong Hiến pháp và luật.
3.1.3. Về cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nớc
Các Hiến pháp đều thể hiện một định hớng nhất quán về xác lập một mô
hình tổ chức quyền lực nhà nớc, ấn định một bộ máy nhà nớc phù hợp với yêu cầu
và nhiệm vụ, tình hình của từng giai đoạn phát triển. Nhng luôn luôn nhất quán
với một nguyên tắc đã đợc định ra trong Hiến pháp 1946, đó là nguyên tắc: "Thực
hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân". Có thể nói, cả 4 Hiến
pháp Việt Nam đều dành sự quan tâm đặc biệt cho vấn đề thiết lập, xác định cơ
cấu, tổ chức bộ máy nhà nớc. Tuy định hớng tổ chức quyền lực nhà nớc luôn thể
hiện bản chất nhân dân, dân tộc, giai cấp một cách quyện chặt vào nhau trong sự
kế thừa và phát triển. Nhng ra đời trong những hoàn cảnh khác nhau với sứ mệnh,
chức năng, nhiệm vụ lịch sử phù hợp với từng giai đoạn. Đồng thời, việc tổ chức
quyền lực nhà nớc cũng phản ánh nhận thức, quan niệm mang tính phổ biến của
từng thời kỳ lịch sử. Cho nên, vấn đề cơ cấu tổ chức thực hiện quyền lực nhà nớc
cũng có những nét riêng biệt qua mỗi bản Hiến pháp.
Về Quốc hội, Hiến pháp 1959 đã kế thừa, phát triển các quy định của Hiến
pháp 1946 khi quy định: "Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nớc cao nhất của n-
ớc Việt Nam dân chủ cộng hoà". Về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, nếu Hiến
pháp 1946 chỉ quy định một cách ngắn gọn, súc tích thì Hiến pháp 1959 và các
Hiến pháp sau này đều có quy định chi tiết cụ thể và có sự mở rộng về phạm vi.

Theo Hiến pháp 1959, Quốc hội có cơ quan thờng trực là Uỷ ban thờng vụ Quốc
hội, do Quốc hội bầu ra với những thẩm quyền rộng rãi, những thẩm quyền mà
theo Hiến pháp 1946 là do Chủ tịch nớc thực hiện.
Cũng nh quy định của Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 xác định Quốc hội
là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nớc cao nhất.
Về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ bản không có sự thay đổi. Nhng về cơ cấu
tổ chức của Quốc hội có sự thay đổi lớn. Nếu theo Hiến pháp 1959, Uỷ ban thờng
vụ Quốc hội là cơ quan thờng trực của Quốc hội thì theo Hiến pháp 1980, cơ quan
thờng trực của Quốc hội là Hội đồng Nhà nớc và cơ quan này đồng thời là Chủ
tịch tập thể của nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hội đồng Nhà nớc trên
thực tế thực hiện chức năng của Chủ tịch nớc và Uỷ ban thờng vụ Quốc hội theo
Hiến pháp 1959. Xuất hiện thiết chế Hội đồng Nhà nớc với hai vai trò nêu trên và
có quyền hạn hết sức rộng rãi hoàn toàn không phải ngẫn nhiên. Nó thể hiện và
phản ánh một quan niệm truyền thống trong lĩnh vực chính trị - pháp lý của các n-
ớc xã hội chủ nghĩa. Do tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nớc theo nguyên
tắc tập quyền và Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nớc tối cao. Cho nên, Nguyên
thủ quốc gia trong Nhà nớc xã hội chủ nghĩa không thể là một cá nhân nh quy
định theo Hiến pháp của các nớc t sản, mà chức năng này là do cơ quan đại diện
cao nhất của nhân dân - cơ quan quyền lực nhà nớc tối cao đảm nhận. Trong điều
kiện Quốc hội hoạt động không thờng xuyên thì phải do một tập thể, do một Hội
đồng hoặc Đoàn Chủ tịch thực hiện.
Tuy nhiên, khi đợc vận dụng để thể chế hoá bằng Hiến pháp 1980, chế định
Hội đồng Nhà nớc trong thực tế thi hành đã bộc lộ rất nhiều nhợc điểm. Theo
Hiến pháp 1959, khi Quốc hội họp thì bầu Chủ tịch đoàn để điều khiển cuộc họp.
Đây là quy định bất hợp lý khi mà Uỷ ban Thờng vụ Quốc hội có quyền triệu tập
và chuẩn bị cho kỳ họp của Quốc hội. Còn theo Hiến pháp 1980, Quốc hội bầu ra
Chủ tịch Quốc hội và Chủ tịch Quốc hội có quyền chủ toạ các phiên họp Quốc
hội. Trong khi đó, Hội đồng Nhà nớc là cơ quan cao nhất hoạt động thờng xuyên
của Quốc hội có quyền triệu tập và chuẩn bị các kỳ họp của Quốc hội, và Chủ tịch
Quốc hội không nhất thiết là thành viên, càng không phải là Chủ tịch Hội đồng

Nhà nớc. Đây là những quy định không khoa học và không hợp lý mà còn có phần
mâu thuẫn nhau. Khi Hội đồng Nhà nớc - cơ quan cao nhất hoạt động thờng
xuyên có quyền chuẩn bị và triệu tập kỳ họp Quốc hội lại không có quyền chủ toạ
kỳ họp.
Xét về phơng diện đại diện quốc gia, Hội đồng Nhà nớc là Chủ tịch tập thể
nên trong hoạt động thực tế sẽ không có đợc sự nhanh nhạy, linh hoạt trong các
quyết định của mình nh Chủ tịch nớc là cá nhân. Hơn nữa, hoạt động của Hội
đồng Nhà nớc lại thông qua Chủ tịch Hội đồng. Xét về mặt thực chất, đây cũng là
một quy định không hợp lý.
Theo Hiến pháp 1992, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội
về cơ bản giống Hiến pháp 1980. Tuy nhiên, có một số bổ sung về quyền hạn của
Quốc hội nh quyết định chơng trình xây dựng Luật, Pháp lệnh, quyết định trng
cầu dân ý. Về cơ cấu tổ chức của Quốc hội có một sự thay đổi lớn. Thể chế Hội
đồng Nhà nớc theo Hiến pháp 1980 đã đợc bãi bỏ và khôi phục lại chế định Uỷ
ban Thờng vụ Quốc hội và chế định Chủ tịch nớc nh Hiến pháp 1959. Theo Hiến
pháp 1992, Chủ tịch và các Phó chủ tịch Quốc hội do Quốc hội bầu ra đồng thời
là Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Uỷ ban thờng vụ Quốc hội, là cơ quan thờng trực
của Quốc hội.
Về Chủ tịch nớc, so với Hiến pháp 1946 thì đây là một chơng mới của
Hiến pháp 1959. Trong Hiến pháp 1946, Chủ tịch nớc là ngời đứng đầu Chính
phủ, nằm trong Chính phủ nên đợc quy định chung trong chơng "Chính phủ". Chủ
tịch nớc không chỉ thực hiện chức năng Nguyên thủ quốc gia mà còn là ngời đứng
đầu cơ quan hành pháp. Theo Hiến pháp 1959, chức danh Chủ tịch nớc và Phó
Chủ tịch nớc vẫn đợc kế thừa trong quy định của Hiến pháp. Nhng Chủ tịch nớc

×