Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ KHU VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.32 KB, 34 trang )

TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ QUẢN LÝ THUẾ KHU
VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THUẾ
1.1.1. Khái niệm - bản chất, đặc điểm của thuế
- Khái niệm - bản chất:
Thuế là một phạm trù kinh tế tài chính mang tính khách quan, đồng thời
cũng là một phạm trù lịch sử – thuế ra đời, tồn tại, phát triển cùng với sự ra đời,
tồn tại và phát triển của Nhà nước. Trong thời kỳ Cộng sản nguyên thuỷ, khi
điều kiện lao động của con người còn thô sơ, con người lao động đủ để duy trì
sự sống của mình, chưa có Nhà nước lúc đó xã hội chưa biết thuế là gì. Cùng
với sự phát triển của sản xuất xã hội, xã hội loài người có sự phân chia thành
giai cấp và đấu tranh giữa các giai cấp, Nhà nước ra đời. Để duy trì bộ máy Nhà
nước, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế, quốc phòng – an ninh .., đòi hỏi Nhà
nước phải có nguồn tài chính để chi tiêu. Nguồn tài chính này có được là do sự
đóng góp của mọi thành viên trong xã hội và sự đóng góp này mang tính bắt
buộc. Theo Ph.Ăngghen: “Để duy trì quyền lực công cộng cần phải có sự đóng
góp của những người công dân cho Nhà nước, đó thuế má” (14, tr.552). Với tiến
trình phát triển của xã hội loài người, Nhà nước xuất hiện, thuế cũng từ đó ra
đời, tồn tại và phát triển
Lịch sử phát triển của xã hội loài người cho thấy, một khi Nhà nước chỉ
làm nhiệm vụ quản lý hành chính đơn thuần thì nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ở
chừng mực nhất định, xã hội ngày càng phát triển hơn nên Nhà nước có thêm
nhiệm vụ điều hành, quản lý nền kinh tế thì chi tiêu của Nhà nước ngày càng
nhiều hơn. Đến khi Nhà nước đảm nhận thêm công việc chăm lo đời sống, văn
hoá, xã hội của cộng đồng thì thuế lại được động viên càng lớn với nhiều sắc
thuế và ở tất cả mọi hoạt động trong nền kinh tế
Như vậy, khi vai trò, nhiệm vụ của Nhà nước ngày càng được mở
rộng, đòi hỏi nguồn tài chính phục vụ cho việc chi tiêu ngày càng tăng lên.
Điều đó, không thể thiếu sự đóng góp của người dân và các tổ chức kinh tế,
đó là thuế.
Theo phân tích trên, thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước


và thuế ra đời khi hoạt động lao động sản xuất của xã hội loài người tạo ra sản
phẩm thặng dư. Với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, sự chuyển dịch giá
trị sản phẩm thặng dư từ thành phần kinh tế này sang thành phần kinh tế khác,
từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác rất đa dạng và phức tạp. Cho nên, đứng trên
giác độ toàn xã hội, đòi hỏi phải có hệ thống thuế để điều tiết thoả đang số sản
phẩm thặng dư xã hội tạo ra sao cho hợp lý và công bằng.Vì vậy, khi xã hội
càng văn minh thì thuế khoá lại càng đa dạng và phát triển.
Tóm lại, quá trình phát triển của Nhà nước và thuế cho chúng ta thấy,
thuế và Nhà nước là hai phạm trù gắn bó hữu cơ với nhau. Nhà nước tồn tại tất
yếu phải có thuế. Thuế là cơ sở vật chất đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của
Nhà nước.
Trên các sách báo kinh tế, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất tuyệt
đối khái niệm về thuế. Nhìn chung các quan điểm của các nhà kinh tế đưa ra
mới nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế, do đó chưa phản ánh đầy
đủ bản chất chung của phạm trù này. Chẳng hạn, theo các nhà kinh điển thì thuế
được quan niệm rất đơn giản: “Thuế khoá là cái vú sữa của Chính phủ” [13,
tr317].
Sau này khái niệm về thuế được bổ sung và hoàn thiện hơn. Trong cuốn
Từ điển Kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass và Bryan Lowes cho
rằng: “Thuế là một biện pháp của Chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn
nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc chi tiêu
hàng hoá và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản”.
Một định nghĩa về thuế tương đối hoàn chỉnh được nêu lên trong cuốn
“Economics” của hai nhà kinh tế Mỹ như sau:
Thuế nhà nước là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc
hàng hoá, dịch vụ) của các Công ty và các hộ gia đình cho Chính phủ, mà
trong sự trao đổi đó họ không nhận được một cách trực tiếp hàng hoá
hoặc dịch vụ nào cả, khoản nộp thuế đó không phải là tiền phạt mà toà
án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật” [31, tr.10].
Ở nước ta cũng chưa có một định nghĩa thống nhất về thuế. Theo

một số nhà nghiên cứu: Thuế là hình thức động viên, phân phối và phân
phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo pháp luật của Nhà
nước quy định, nhằm đáp ứng những khoản chi tiêu cần thiết của Nhà
nước. Đó là khoản thu của Nhà nước đối với các tổ chức (chủ yếu là tổ
chức kinh tế) và mọi thành viên trong xã hội; khoản thu này mang tính bắt
buộc không hoàn trả trực tiếp [11, tr.1].
Gần đây, trong một số công trình nghiên cứu về thuế, các nhà kinh tế cho
rằng, để vạch rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa phải nêu bật các khía
cạnh sau đây: Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ
giữa Nhà nước với pháp nhân và thể nhân; những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ
này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc
chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh Nhà nước, xét theo
khía cạnh luật pháp thuế là khoản nộp cho Nhà nước được pháp luật quy định
theo mức thu và thời hạn nhất định.
Kết hợp những hạt nhân hợp lý của những quan niệm về thuế kể trên
có thể nêu lên khái niệm tổng quát về thuế như sau: Thuế là một khoản
chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho Nhà nước
theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, nhằm sử dụng cho mục
đích công cộng [31, tr.11].
- Đặc điểm của thuế:
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong vốn có của
thuế. Những thuộc tính đó có tính ổn định qua từng giai đoạn phát triển. Nghiên
cứu về thuế người ta thấy nó có những đặc điểm riêng để phân biệt với các công
cụ tài chính khác.
+ Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp trong
xã hội cho Nhà nước mang tính bắt buộc phi hình sự:
Tính bắt buộc phi hình sự là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế, nó
phân biệt thuế với các hình thức huy động tài chính khác của NSNN. Đặc
điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ, được
hình thành một cách khách quan và có một ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc

động viên mang tính chất bắt buộc của Nhà nước mà kết quả của quá trình đó
là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho Nhà nước
mà không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác trực tiếp
cho người nộp thuế.
Tính chất cưỡng chế bắt buộc của việc chuyển giao thu nhập bắt nguồn từ
những lý do sau:
Thứ nhất: hình thức chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn
với lợi ích cụ thể của người nộp thuế, do đó không thể sử dụng phương pháp tự
nguyện trong việc chuyển giao. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công cộng, Nhà
nước tất yếu phải sử dụng quyền lực chính trị để bắt buộc mọi đối tượng có thu
nhập phải chuyển giao.
Thứ hai: trong xã hội văn minh nhu cầu của các thành viên cộng đồng về
hàng hoá công cộng ngày càng tăng cao. Để duy trì hoạt động đó thì thu nhập về
hàng hoá công cộng từ những người thụ hưởng phải bù đắp đủ các chi phí bỏ ra.
Nhưng hàng hoá công cộng lại có tính chất đặc biệt, nó không thể phân bổ theo
“khẩu phần” để sử dụng và người thụ hưởng cũng không muốn sử dụng theo
“khẩu phần”. Mặt khác, hàng hoá công cộng không có tính cạnh tranh và không
thể đem trao đổi trực tiếp trên thị trường để bù đắp các chi phí. Chính vì vậy
trong việc cung cấp hàng hoá công cộng đã xuất hiện những “người ăn không”,
nghĩa là không ai tự nguyện trả tiền cho việc thụ hưởng hàng hoá công cộng. Do
đó, để đảm bảo cung cấp hàng hoá công cộng, Nhà nước chỉ có thể sử dụng
phương pháp thuế để buộc “người ăn không” phải chuyển giao thu nhập từ khu
vực tư sang khu vực công.
Tuy nhiên, tính bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là
hành động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có
biểu hiện phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ
của người công dân.
Từ đặc điểm này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính
khác của NSNN như: lệ phí, công trái hoặc hình thức phạt bằng tiền. Hình thức
phạt bằng tiền cũng là hình thức bắt buộc, song việc phạt tiền chỉ xảy ra đối với

người nộp phạt khi có hành vi vi phạm luật lệ làm phương hại đến lợi ích Nhà
nước hoặc cộng đồng. Hình thức phí, lệ phí, công trái nói chung mang tính tự
nguyện và có tính chất đối giá. Tính bắt buộc của phí và lệ phí chỉ xảy ra khi
người trả phí, lệ phí thụ hưởng trực tiếp những dịch vụ do Nhà nước cung cấp.
+ Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính hoàn
trả trực tiếp:
Tính không hoàn trả trực tiếp của thuế được biểu hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, sự chuyển giao thu nhập thông qua thuế không mang tính chất
đối giá, nghĩa là mức thuế mà các tầng lớp xã hội chuyển giao cho Nhà nước
không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thụ hưởng những dịch vụ
hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp. Người nộp thuế cũng không có
quyền đòi hỏi Nhà nước phải cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng trực tiếp
cho mình mới phát sinh khoản chuyển giao thu nhập cho Nhà nước; mặt khác
mức độ cung cấp dịch vụ công cộng của Nhà nước cũng không nhất thiết ngang
bằng mức độ chuyển giao. Mức chuyển giao thu nhập nhiều hay ít chỉ căn cứ
vào kết quả hoạt động kinh tế và mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội cũng như
nhu cầu tài chính cung của Nhà nước.
Thứ hai, khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không được
hoàn trả trực tiếp có nghĩa là người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được một
phần các dịch vụ công cộng mà Nhà nước cung cấp chung cho cả cộng đồng,
giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết tương đồng với khoản tiền thuế mà họ
nộp cho Nhà nước. Đặc điểm này giúp ta phân biệt sự khác nhau giữa thuế và
các khoản phí, lệ phí.
+ Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế được quy định trước
bằng luật pháp:
Đặc điểm này một mặt thể hiện tính pháp lý cao của thuế, mặt khác phản
ánh sự chuyển giao thu nhập không mang tính chất tuỳ tiện mà dựa trên những
cơ sở pháp luật nhất định và đã được xác định trước trong các luật thuế, pháp
lệnh thuế, đó là: đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế phải nộp,
thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác.

+ Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chịu sự ảnh
hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong những thời kỳ nhất
định:
Yếu tố kinh tế tác động đến thuế thường là mức độ tăng trưởng của nền
kinh tế quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, giá cả thị trường (trong nước
và quốc tế), sự biến động của NSNN, ….
Yếu tố chính trị, xã hội tác động đến thuế thường là thể chế chính trị của
Nhà nước, tâm lý, tập quán của tầng lớp dân cư, truyền thống văn hoá, xã hội
của dân tộc…
Do thuế chịu sự ràng buộc của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội nên
người ta thường nói đến thuế mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội tổng hợp.
+ Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chỉ được
giới hạn trong phạm vi biên giới quốc gia với quyền lực pháp lý của Nhà
nước đối với con người và tài sản:
Các đạo luật về thuế chỉ có tác dụng điều tiết các hoạt động kinh tế và
sự chuyển giao thu nhập trong khuôn khổ biên giới của mỗi quốc gia, nơi
mà quyền lực pháp lý của nhà nước được duy trì. Điều này cũng có nghĩa
là, trong các hoạt động kinh tế quốc tế, các giao dịch diễn ra ở nước ngoài
phải chịu sự chi phối của luật pháp nói chung, những quy định về thuế nói
riêng của nước ngoài. Chính vì điều này, trong quá trình hội nhập quốc tế,
các quốc gia phải xây dựng hệ thống thuế theo hướng phù hợp với thông lệ
quốc tế để tạo thuận lợi cho các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước.
Tóm lại, những đặc điểm cơ bản trên đây của thuế đã phản ánh bản
chất và nội dung bên trong của thuế. Từ những đặc điểm đó, giúp chúng ta
phân biệt thuế với các hình thức động viên khác của NSNN trên nhiều
phương diện khác nhau.
1.1.2. Vai trò của thuế
+ Thuế là công cụ chủ yếu huy động tập trung nguồn lực cho Nhà nước:
Bất kỳ một chế độ Nhà nước nào muốn tồn tại và phát triển đều phải
tạo cho mình một nền tài chính quốc gia vững chắc và lành mạnh, trong đó

nguồn tài chính chủ yếu được động viên từ thuế và phí ở nội bộ nền kinh tế
quốc dân.
“Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN”. Ở nước ta từ khi có các luật
thuế ra đời, nguồn thu từ thuế ngày càng tăng lên, ngày càng chiếm tỷ
trọng cao trong tổng số thu ngân sách, năm 1990 đạt 86%; năm 1997 đạt
87%, năm 1998 đạt 88%,đến nay khoảng 90% [23, tr.10]. Vai trò của thuế
thực sự được nâng lên và thể hiện rõ trong quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh
tế
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý và điều
tiết của Nhà nước, thuế được áp dụng thống nhất đối với các thành phần
kinh tế không phân biệt kinh tế Nhà nước và KTNQD, nó bao quát và điều
tiết các hoạt động kinh doanh, mọi nguồn thu nhập, mọi tài nguyên thiên
thiên và mọi hoạt động tiêu dùng trong xã hội.
Chính sách động viên về thuế có tác dụng bồi dưỡng nguồn thu vững
chắc, lâu dài cho NSNN. Cơ chế thuế suất không nên quá phức tạp, quá
cao mà cần nghiên cứu và tính toán dựa trên những căn cứ khoa học và sự
phát triển của nền kinh tế sẽ phù hợp hơn với khả năng đóng góp của đối
tượng nộp thuế, đảm bảo nguồn thu ngân sách được ổn định thường xuyên.
Thuế suất được điều chỉnh giảm có thể sẽ dẫn đến phát sinh lo lắng không
đảm bảo nguồn thu cho ngân sách. Nhưng trên thực tế nếu hệ thống thuế
hợp lý, thuế suất ở mức vừa phải thì sẽ tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ
của mọi tầng lớp nhân dân, đối tượng nộp thuế thấy mức thuế hợp lý sẽ tự
nguyện khai báo nộp thuế tốt hơn. Diện thu thuế được mở rộng, diện miễn
giảm thu hẹp, vừa được lòng dân vừa đảm bảo nhiệm vụ thu theo kế hoạch.
Tỷ lệ động viên về thuế cần tính toán khoa học, đầy đủ mọi khoản đóng
góp cho NSNN, bao gồm mọi khoản thuế, phí và lệ phí. Cần khắc phục
tình trạng các ngành, các địa phương tuỳ tiện đặt ra các khoản thu trái với
quy định của Nhà nước.
Thuế tạo nguồn thu cho NSNN, nhưng nguồn thu đó được hình thành
trên cơ sở nền kinh tế tăng trưởng và đạt hiệu quả cao. Đây là vấn đề luôn

được các quốc gia quan tâm đúng mức trong quá trình hoạch định chính
sách và tổ chức quản lý thu thuế.
+ Thuế là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Thuế là công cụ chủ yếu của Nhà nước dùng để quản lý điều tiết vĩ
mô nền kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá,
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Một chính sách thuế đặt ra không
chỉ đơn thuần tạo nguồn thu cho NSNN, mà quan trọng hơn là thực hiện
chức năng quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển sang nền kinh tế
thị trường. Cùng với sự kích thích sản xuất phát triển, cơ chế thị trường
cũng là môi trường làm nảy sinh những khuyết tật vốn có của nó. Vì vậy,
để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
quản lý của Nhà nước, Nhà nước phải sử dụng các công cụ kinh tế, tron
đó đặc biệt là công cụ thuế nhằm tạo lập các cân đối vĩ mô, điều tiết thị
trường, đảm bảo sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội.
Sự điều tiết của Nhà nước thông qua thuế gồm hai mặt: khuyến khích
và hạn chế. Điều đó được thể hiện ra trong việc xây dựng cơ cấu các loại
thuế và mối quan hệ giữa chúng cũng như việc xác định thuế suất, chế độ
miễn - giảm thuế phù hợp với điều kiện thực tế. Khuyến khích đối với
những ngành nghề những hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ cho đại
đa số quần chúng nhân dân thì áp dụng thuế suất thấp. Hạn chế, thu hẹp
những ngành nghề không có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế, cho nhu
cầu tiêu dùng của nhân dân hoặc những ngành nghề ảnh hưởng đến thuần
phong mỹ tục, đến sức khoẻ của nhân dân thì áp dụng thuế suất cao. Trong
nền kinh tế thị trường, các thành phần tự do lựa chon ngành nghề nào
mang lại lợi nhuận cao nhất mà không tính đến hậu quả để lại sau quá trình
sản xuất kinh doanh. Nhà nước dùng công cụ thuế để điều chỉnh và hướng
các hoạt động sản xuất kinh doanh đi vào con đường phát triển có hiệu quả
mang lại nhiều lợi ích cho quốc kế dân sinh.

Trong điều kiện hiện nay, hệ thống thuế của Nhà nước Việt Nam thể
hiện rất rõ quan điểm khuyến khích các ngành nghề sản xuất hơn là các
hoạt động thương mại, dịch vụ. Sản xuất các mặt hàng thiết yếu được
khuyến khích hơn sản xuất các mặt hàng và dịch vụ khác. Để khuyến khích
các ngành nghề sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất sản phẩm thay thế hàng
nhập khẩu cần thiết khi trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được
hoặc sản xuất nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu hay đầu tư vào những vùng
có điều kiện kinh tế khó khăn, vùng không thuận lợi cho sức khoẻ, sinh
hoạt người dân,… Nhà nước thường áp dụng thuế ưu đãi để thúc đẩy kinh
tế phát triển một cách có hiệu quả, đồng bộ theo hướng có lợi cho quốc kế
dân sinh.
Hiện nay, Nhà nước ta sử dụng tổng hợp hệ thống chính sách thuế,
nhằm: khuyến khích mạnh mẽ các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi
thành phần kinh tế cạnh tranh lành mạnh trên cơ sở bình đẳng trước pháp
luật; góp phần thúc đẩy việc khai thác tư nguyên liệu trong nước, tranh thủ
vốn đầu tư nước ngoài để mở rộng sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá
đẩy mạnh xuất nhập khẩu đáp ứng yêu cầu tiêu dùng và tích luỹ; bào đảm
lợi ích; bảm đảm lợi ích giữa Nhà nước và xã hội, lợi ích của các bên hợp
tác, vừa đảm bảo sản xuất trong nước phát triển nâng cao đời sống của
người dân.
+ Thuế góp phần điều hoà thu nhập thực hiện công bằng xã hội trong
phân phối:
Theo Adam Smith, nền kinh tế thị trường tự do không có sự điều
chỉnh, can thiệp của Nhà nước, mà được điều tiết bởi “bàn tay vô hình”.
Đó là nền kinh tế tự điều chỉnh và hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, lịch
sử cũng cho thấy kinh tế thị trường tự do chứa đựng những mặt trái hay
những “khuyết tật” khó tránh khỏi. Nổi bật trong những “khuyết tật” đó là
vấn đề phân phối thu nhập. Trong điều kiện phân phối thu nhập của thị
trường tự do, một bộ phận dân cư sẽ giàu lên nhanh chóng, trong khi đó,
đại đa số lao động trở nên nghèo túng và đời sống càng khó khăn hơn.

Tình trạng trên không chỉ liên quan đến vấn đề đạo đức, công bằng xã hội
mà còn tạo nên tình trạng lũng đoạn, độc quyền và lâu dài sẽ không thể
đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng được.
Trong thực tế, sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự đóng
góp của cộng đồng, của toàn xã hội. Chính vì vậy mà thành quả kinh tế đạt
được trong hiện tại và tương lai phải được phân phối trên cơ sở của cộng
đồng. Cho nên, cần có sự can thiệp của Nhà nước trong quá trình phân phối
thu nhập, sự phân phối này chủ yếu nhờ vào công cụ thuế để điều tiết. Nền
kinh tế của nước ta hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có
sự quản lý của Nhà nước, thì vai trò tạo sự bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế và người dân trong động viên điều tiết thuế và công bằng xã hội
ngày càng được nâng cao hơn, bao quát hơn.
Sự thành công trong việc đổi mới chính sách thuế của Nhà nước ta
trong những năm qua là: hệ thống thuế mới được áp dụng chung cho các
ngành nghề, hoạt động sản xuất kinh doanh, không phân biệt thành phần kinh
tế cũng như các tầng lớp nhân dân nhằm mục tiêu đảm bảo sự công bằng bình
đẳng trong điều tiết. Sự bình đẳng, công bằng thể hiện thông qua các chính
sách động viên như nhau giữa các thành phần kinh tế, chủ thể sản xuất kinh
doanh và mọi tầng lớp dân cư. Thông qua một hệ thống các sắc thuế, Nhà
nước điều chỉnh mức thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội, người có thu
nhập cao phải đóng thuế cao và ngược lại (thể hiện thông qua hoạt động tiêu
dùng chịu sự điều tiết của các sắc thuế gián thu và thuế thu nhập đối với
những người có thu nhập cao). Tổ chức và cá nhân kinh doanh có lợi nhuận
cao phải đóng góp thuế cao hơn những tổ chức và cá nhân kinh doanh có lợi
nhuận thấp (thể hiện ở sắc thuế TNDN).
1.2. KHU VỰC KTNQD VÀ QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI KTNQD
1.2.1. Đặc điểm của kinh tế NQD
Kinh tế thị trường hình thành và phát triển trên cơ sở của sở hữu tư
nhân và các loại hình kinh tế tư nhân là hình thức thống trị trong các nền
kinh tế thị trường tự do.

Cùng với sự gia tăng vai trò của nhà nước đối với đời sống kinh tế,
kinh tế thị trường tự do đã phát triển thành nền kinh tế hỗn hợp gồm hai
khu vực lớn: Kinh tế Nhà nước và kinh tế phi nhà nước hay như chúng ta
nói - KTNQD.
Khu vực kinh tế nhà nước dựa trên cơ sở của sở hữu nhà nước chủ
yếu thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ công cộng, mục tiêu cơ bản là
lợi ích chung của toàn xã hội - đảm bảo cho sự phát triển hiệu quả, công
bằn và ổn định cho toàn bộ nền kinh tế.
Khu vực KTNQD là khu vực kinh tế bao gồm các tổ chức, cá nhân
hoạt động kinh doanh bằng vốn của các tổ chức, của một số cá nhân góp
lại; hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường vì mục tiêu lợi nhuận.
Trong cơ cấu sản xuất xã hội, KTNQD được coi là một thực thể khách
quan, gồm các thành phần kinh tế được xác định tuỳ theo đặc điểm kinh tế
- xã hội và đường lối chính trị của mỗi Nhà nước trong từng giai đoạn khác
nhau như, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản
Nhà nước… KTNQD có nhiều đặc điểm riêng biệt, nhưng có thể khái quát
một số đặc điểm cơ bản sau:
+ Dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất là chủ yếu, được tổ
chức ở đủ loại quy mô lớn, vừa và nhỏ, nhưng đều do tư nhân quản lý và
phân phối lợi nhuận.
+ Số lượng cơ sở rất lớn, thường xuyên biến động, tuỳ thuộc vào tình
hình kinh doanh (chu kỳ kinh tế) và chính sách, chế độ của Nhà nước trong
từng thời kỳ.
+ Hoạt động trong hầu hết mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Ở các nước
phát triển, KTNQD bao gồm cả những tập đoàn kinh doanh xuyên quốc
gia, có ảnh hưởng không chỉ đối với nền kinh tế trong nước mà còn chi
phối nhiều lĩnh vực kinh tế – tài chính quốc tế.
+ Số thu hàng năm chiếm tỷ trọng quan trọng trong tổng số thu ngân sách
nhà nước (Tỷ trọng này khác nhau đối với các nước: ở các nước phát triển, thu
từ khu vực KTNQD là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, ngược lại, ở

các nền kinh tế đang phát triển, do khu vực KTNQD còn nhỏ bé, sự tham gia
của chúng vào tiến trình tăng trưởng cũng như thu ngân sách chỉ với mức khiêm
tốn hơn).
+ Mục tiêu của chủ doanh nghiệp trong khu vực KTNQD chính là lợi
nhuận. Do vậy một mặt, các cơ sở KTNQD cạnh tranh quyết liệt với nhau
trong kinh doanh; mặt khác, trong quan hệ với nhà nước, không ít cơ sở
luôn tìm mọi cách, mọi sơ hở của cơ quan thuế, cán bộ thuế, chính sách,
chế độ, để luồn lách, trốn thuế.
Các hình thức tồn tại phát triển của khu vực KTNQD rất đa dạng với
số lượng, ý thức trong việc thực hiện luật pháp với mức độ khác nhau, tuỳ
theo trình độ phát triển ở mỗi quốc gia. Song rõ ràng đây là một lĩnh vực
phức tạp trong quản lý thuế.
Sự phát triển ở khu vực KTNQD ở nước ta những năm qua đã tạo
thêm nhiều của cải vật chất cho xã hội, giải quyết việc làm cho người lao
động, góp phần không nhỏ vào sự ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế.
- Ưu nhược điểm của kinh tế NQD:
KTNQD có tiềm năng lớn về trí tuệ, kiến thức, tiền vốn, lao động,
sản phẩm, hợp tác, liên doanh, liên kết…
+ Tiềm năng quan trọng nhất của KTNQD là khả năng vô tận về trí
tuệ, sáng kiến cá nhân trong đội ngũ những người lao động, trong nhân
dân. Kinh nghiệm của các nước có nhiều thành công phát triển kinh tế
(Hồng Kông, Đài Loan, Singapo, Nhật Bản, Hàn Quốc…) cho thấy các
tiềm năng bên trong như đất đai, tiền vốn trong thời kỳ đầu của sự phát
triển ở các nước này đều rất hạn chế. Nhưng nhờ phát huy được trí tuệ,
sáng kiến cá nhân và đầu tư xây dựng kinh tế, đồng thời có sự quản lý
đúng đắn của Nhà nước,cho nên chỉ sau một thời gian không dài đã làm
nên những kỳ tích vĩ đại trong phát triển kinh tế.
Đối với nước ta, khi công cuộc đổi được triển khai từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI, nhiều sáng kiến cá nhân của quần chúng lao động,của nhân dân
đã và đang được phát huy cả trong lao động sản xuất cũng như trong việc tìm

tòi các hình thức kinh tế thích hợp, năng động, từng bước đáp ứng yêu cầu ngày
càng đa dạng và phong phú của thị trường.
+ Tiềm năng về kiến thức, kinh nghiệm quản lý, nâng cao tay nghề,
đặc biệt là phát huy kiến thức, bí quyết truyền thống được tích lũy qua
nhiều đời là nguồn tiềm năng vô cùng to lớn cho sự tăng trưởng kinh tế
nếu được khởi động với những chính sách, chủ trương thích hợp. Hiện nay
nguồn “chất xám” của KTNQD cũng rất đa dạng, có loại được Nhà nước
đào tạo trong các trường chính quy từ công nhân, kỹ sư, nhà kinh tế đến
các thạc sĩ, tiến sĩ, phó giáo sư, giáo sư… Có loại cá nhân tự bỏ tiền ra để
học lấy một nghề nhất định ở trong hoặc ngoài nước. Có loại do doanh
nghiệp NQD sau khi tuyển dụng lao động bỏ tiền đào tạo hoặc đào tạo lại.
+ Nguồn vốn trong khu vực KTNQD nối tiếp từ thế hệ này sang thế
hệ khác đã và đang được tích luỹ ngày càng lớn. Ở hầu hết các nước có
lịch sử phát triển kinh tế thị trường lâu đời, nguồn vốn đầu tư từ phía Nhà
nước không đáng kể (chiếm từ 13% - 30% tổng vốn đầu tư). Các nước đều
có chính sách thoả đáng để huy động nguồn lực to lớn từ nguồn vốn của
KTNQD. Nếu Chính phủ có chính sách đúng đắn, tạo môi trường thuận lợi,
tạo lòng tin trong nhân dân, nhất định họ sẽ sẵn sàng bỏ vốn đầu tư, mở
rộng sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tăng
trưởng mạnh mẽ.
+ KTNQD có tiềm năng lao động to lớn và góp phần đáng kể vào
việc giải quyết việc làm cho xã hội. Ở nước ta hàng năm bình quân có
khoảng 1,243 triệu người đến tuổi lao động, bao gồm: lực lượng thanh niên
đến tuổi lao động, số học sinh tốt nghiệp dạy nghề, trung học, cao đẳng,
đại học hoặc những người lao động thất nghiệp do sắp xếp lại biên chế
trong các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp hoặc do sắp xếp lại sản
xuất trong các ngành kinh tế quốc dân, những người bán thất nghiệp ở
nông thôn, thành thị. Đây là nguồn lao động rất dồi dào mà Nhà nước ta
chưa khai thác hết được. Nếu chỉ thông qua các doanh nghiệp Nhà nước thì
sẽ không thu hút được hết những người lao động. Thực tế trong những năm

qua cho thấy, ở thời điểm cao nhất kinh tế Nhà nước chỉ thu hút khoảng 2
triệu lao động. Trong khi đó riêng kinh tế NQD trong công nghiệp và dịch
vụ năm 1992 đã thu hút trên 1,2 triệu lao động [5]. Chỉ thông qua KTNQD
với mọi hình thức, mọi quy mô, mọi loại ngành nghề, áp dụng nhiều
phương thức tổ chức, mọi quy mô, mọi loại ngành nghề, áp dụng nhiều
phương thức tổ chức, sử dụng một cách linh hoạt mọi loại lao động của xã
hội mới có thể tận dụng được các lực lượng dôi thừa.
Ở các nước Tây Âu, hơn 70% kết quả tăng trưởng của nền kinh tế là
do lao động tạo ra, 30% còn lại là do tiền vốn thiết bị. Đối với Việt Nam
có đội ngũ lao động đông đảo, nếu biết cách phát huy và khai thác thì đó là
một lợi thế lớn cho phát triển kinh tế.
Lao động của KTNQD ở Việt Nam còn có tiềm năng quan trọng
được bộc lộ rõ thông qua quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Trong
cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, bộ máy Nhà nước đã
bành trướng quá mức. Khi chuyển sang kinh tế thị trường định hướng
XHCN với cơ chế quản lý mới có sự quản lý của Nhà nước, chính khu vực
kinh tế Nhà nước đã là nguồn cung cấp nhân lực dồi dào cho KTNQD.
Theo tài liệu điều tra của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, đã
có 72% giám đố các Công ty trách nhiệm hữu hạn đã từng là công chức
Nhà nước, 10,4% giám đốc các Công ty này đã từng là giám đốc doanh
nghiệp Nhà nước. Đối với các doanh nghiệp tư nhân, 30% giám đốc đã
từng là cán bộ công chức Nhà nước. Khi chuyển sang lĩnh vực KTNQD,
không những họ đã sử dụng trình độ lành nghề trong kinh doanh mà còn có
vả vốn liếng tích luỹ được (bằng tiền trợ cấp thôi việc, bằng tiền hưu
trí…), thậm chí máy móc kỹ thuật từ nguồn thanh lý, giải thể của các
doanh nghiệp Nhà nước. Điều này có thể lý giải phần nào tình hình tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam trong khi một bộ phận lớn của kinh tế Nhà
nước bị thu hẹp, giải thể hoặc ngững do làm ăn thua lỗ, không thích ứng
được với cơ chế kinh tế mới [5].
+ KTNQD còn là môi trường thuận lợi để hợp tác kinh tế với nước

ngoài. Trong nền kinh tế mở hiện nay, sự giao lưu với các nước phát triển
mạnh về mọi mặt đó là một tất yếu khách quan. Đại hội Đảng lần thứ IX đã
xác định:
Phát triển đa dạng kinh tế Nhà nước dưới các hình thức liên doanh,
liên kết giữa kinh tế Nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước, ngoài
nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh; chú trọng
phát triển các hình thức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở
hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước, ngoài nước
[32, tr.99].
Tại các nước, liên doanh với nước ngoài chủ yếu là do KTNQD thực
hiện vì là khu vực năng động, làm ăn có hiệu quả, thích ứng nhanh với sự
biến động hoặc thay đổi của thị trường, của khách hàng. Trong khi đó ở
nước ta hiện nay, các liên doanh với nước ngoài chủ yếu là do kinh tế Nhà
nước thực hiện. Nhiều Việt Kiều về quê hương gặp không ít khó khăn
trong việc tìm đối tác liên doanh
+Sự đa dạng của KTNQD tạo ra nguồn sản phẩm đa dạng, phong phú
đáp ứng mọi nhu cầu tiêu dùng của xã hội ở mọi nơi, mọi thời điểm. Thực

×