Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Kinh nghiệm quốc tế xây dựng hạ tầng khung để phát triển các đô thị vệ tinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.47 KB, 4 trang )

KINH NGHIỆM QUỐC TẾ XÂY DỰNG HẠ TẦNG KHUNG

ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC ĐÔ THỊ VỆ TINH
PGS.TS. V THò VINH
Nguyên Tổng thư ký Hiệp hội các đô thò Việt Nam

DIỄN ĐÀN

T

heo quy hoạch, không gian đô thò Hà Nội phát triển theo mô hình chùm đô thò gồm đô
thò trung tâm, 5 đô thò vệ tinh (Hòa Lạc, Sơn Tây, Xuân Mai, Phú Xuyên, Phú Minh và
Sóc Sơn) và các thò trấn được kết nối bằng hệ thống giao thông đường vành đai kết
hợp các trục hướng tâm, có kết nối với mạng lưới giao thông vùng và quốc gia

Kết nối đô thò vệ tinh và đô thò trung tâm

Hà Nội sau khi mở rộng đã có diện tích hơn 3.344km2, trở thành một trong 17 thủ đô có
diện tích rộng nhất trên thế giới và là một trong 12 đô thò lòch sử có hàng ngàn năm tuổi.
Với bản quy hoạch khẳng đònh thêm lần nữa sự lựa chọn mô hình cấu trúc mới: chùm đô
thò, các nhà quy hoạch muốn tạo điều kiện để Hà Nội có tiềm năng phát triển hạ tầng kỹ
thuật và môi trường.
Tuy nhiên, ngay trong sự lựa chọn mô hình chùm đô thò này cũng “tiềm ẩn” đầy rẫy những
thách thức rất lớn cho Hà Nội. Đó là hệ thống cơ sở hạ tầng để kết nối giữa đô thò vệ tinh với
đô thò trung tâm. Một thách thức nữa là vấn đề về dân số và phân bố dân cư của Hà Nội trong
tương lai. Sau khi Hà Nội mở rộng đến nay có khoảng 6,6 triệu dân (số liệu tính đến hết năm
2010), dự kiến đến 2020 có khoảng 7,9 triệu và 2030 là khoảng 9,2 triệu. Với dân số như trên
và việc phát triển theo chùm đô thò thì thách thức lớn nhất là việc phân bổ dân số. Bởi vì trong
nội thành đô thò trung tâm từ nay đến năm 2030 sẽ là 4,5 triệu dân, còn lại là phát triển dân
cư các đô thò vệ tinh. Nhiều đô thò dân số sẽ tăng gấp 10 lần hiện nay, vậy làm thế nào để kết
nối đô thò vệ tinh với trung tâm, làm thế nào để tạo sức hút để tăng dân số ở đô thò vệ tinh và



24

SË 95+96 . 2018


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
sinh thái chứ không quá tập trung ở đô thò trung tâm?
Phải lựa chọn cái gì để tạo được tốc độ phát triển cho
Hà Nội, cả giai đoạn từ năm 2006 đến nay tốc độ
phát triển gần 11%, nhưng quy hoạch phải đảm bảo
Hà Nội luôn dẫn đầu cả nước, đạt từ 11-12%. Để đạt
được mục tiêu đó Hà Nội phải dựa vào kinh tế trí thức,
khu công nghệ cao bố trí thế nào… Đây là những bài
toán khó”.
Theo các chuyên gia kinh tế, muốn thu hút nhà đầu
tư đến các khu đô thò vệ tinh thì cần phải có hệ thống
giao thông thuận lợi. Hiện nay, phát triển thành phố
vệ tinh là một xu hướng chung mà các đô thò lớn nước
ta đang hướng tới. Xét về một khía cạnh, nó có thể
giải quyết rất nhiều vấn đề về ô nhiễm môi trường, ùn
tắc giao thông, hay nói cách khác là hậu quả tất yếu
của quá trình đô thò hóa.
Mô hình phát triển đô thò vệ tinh được hiểu trong học
thuật về đô thò của phương Tây là việc phát triển các
thành phố nhỏ và trung bình xung quanh một thành
phố trung tâm và chúng được liên kết với thành phố
trung tâm bằng một hệ thống giao thông công cộng
hoàn thiện. Hệ thống giao thông này sẽ cho phép
nhiều người dân sống tại các đô thò vệ tinh có thể di

chuyển vào đô thò trung tâm hằng ngày dễ dàng.
Giữa thành phố trung tâm và các đô thò vệ tinh thường
là các vành đai xanh. Các thành phố trung tâm theo
mô hình đô thò vệ tinh thường bò giới hạn khu vực phát
triển (không thể mở rộng hơn) để không biến thành
một đại đô thò khổng lồ. Mô hình đô thò vệ tinh có thể
nói ra đời vào cuối thế kỷ 19 cùng với ý tưởng “thành
phố vườn” của Ebenezer Howard. Tác giả, một nhà
hoạt động xã hội, nhận thấy cuộc sống tại các thành
phố công nghiệp của nước Anh trở nên tồi tệ do ô
nhiễm và mật độ dân số cao. Ông đề xuất xây dựng
các thành phố chỉ khoảng 30 ngàn dân nằm trên các
trục đường sắt nối với thành phố trung tâm và cách ly
với các thành phố này bởi vành đai xanh. Ý tưởng này
đã có ảnh hưởng trên thế giới trong lónh vực phát triển
đô thò. Dù vậy, cũng chỉ có 2 “thành phố vườn” thực sự
được xây dựng tại nước Anh. (Xem hình 1)
Thử xem một vài ví dụ ở Canada, thành phố Toronto
với 5 triệu dân thực ra là một vùng đô thò gồm có 5
thành phố, trong đó bản thân Toronto chỉ có 2 triệu
dân.
Thành phố Vancouver với 2 triệu dân thực ra là một
vùng đô thò có 10 thành phố độc lập, trong đó bản
thân Vancouver chỉ có 500 ngàn dân.
New York, Tokyo hay Manila đều là những vùng đô
thò như vậy.

Hình 1

Trở lại mô hình đô thò vệ tinh, bạn sẽ ngạc nhiên

khi biết rằng ở Mỹ chỉ có 1 vùng đô thò duy nhất
thực hiện mô hình này (và thành công) là Portland
tại bang Oregon.
Tại Canada thì có thể nói Vancouver và Ottawa đi theo
mô hình này. Mặc dù những thành phố tôi vừa nêu tên
đều trở thành những tấm gương trong quy hoạch đô
thò ở Bắc Mỹ, chúng có những điều kiện nhất đònh
cũng như phải trả giá đắt cho mô hình mà chúng theo
đuổi để thành công. Vancouver và Portland là những
nơi mà người dân đặc biệt trân trọng vấn đề bảo vệ
môi trường và dễ dàng hơn các nơi khác trong việc hy
sinh các quyền lợi kinh tế để đạt được một môi trường
sống tốt hơn. Ottawa là thủ đô của Canada và có một
tỉ lệ lớn văn phòng và người lao động liên quan đến
chính phủ liên bang, tức là họ “dễ bảo” hơn trong việc
thực thi một mô hình và dễ chấp nhận hy sinh quyền
lợi kinh tế.
Chi phí hạ tầng (xây hệ thống giao thông công cộng
cấp vùng) và giá đất tăng. Thử tưởng tượng mà xem,
người ta sẽ đặt ra ranh giới phát triển cho các thành
phố trung tâm (growth boundary) khiến cho diện tích
đô thò không thể mở rộng, khiến giá đất tăng và cuộc
sống trở nên đắt đỏ hơn, rồi thành phố trở nên kém
hấp dẫn đối với người dân và doanh nghiệp để kết
quả cuối cùng là phát triển kinh tế bò tác động.
Chi phí để xây dựng hệ thống tàu điện/metro nối các

SË 95+96 . 2018

25



≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

thành phố vệ tinh với thành phố trung tâm là rất tốn kém và các hệ thống này kém hiệu
quả do phải chạy qua các vành đai xanh vốn không có hoặc không có nhiều người sinh
sống (tức là có những đoạn đường không ra tiền trực tiếp).
Chưa kể mô hình đô thò vệ tinh cần có một khung pháp lý để quản lí toàn bộ vùng đô thò
này và đảm bảo các thành phố vệ tinh không mâu thuẫn với nhau hay với đô thò trung tâm
về quyền lợi.
Về lý thuyết, có thể nói, đây là mô hình rất tốt. Tuy nhiên, mô hình đô thò vệ tinh, cũng
như mọi mô hình quy hoạch khác, không hoàn hảo và không dễ dàng để thành hiện thực.
Trước hết, mô hình đô thò vệ tinh đặt ra một giới hạn phát triển (growth boundary) bằng
vành đai xanh đối với đô thò trung tâm.
Khi đó, sẽ dẫn đến một loạt phát sinh như gia tăng áp lực giá đất trong đô thò trung tâm
chẳng hạn, dẫn đến tăng chi phí cho các nhà đầu tư, giảm năng lực cạnh tranh, nhưng lại
tăng gánh nặng cho cư dân trong xây cất nhà ở.
Tiếp theo, các đô thò vệ tinh khi phát triển ra ngoại vi của thành phố trung tâm và cách ly
với thành phố trung tâm bởi một mảng xanh sẽ dẫn đến chi phí hạ tầng rất lớn để kết nối
trung tâm với vệ tinh.
Hãy tưởng tượng hệ thống hạ tầng đó phải đi qua dải vành đai cây xanh dài hàng cây số,
thậm chí, hàng chục kilomet, ít người sử dụng. Hiện tượng đó được gọi là nhảy cóc (leap
frog), tức là phải nhảy qua một mảng xanh để phát triển tiếp, rất kém hiệu quả về hạ tầng.
Tại Mỹ, chỉ có một trong số vài thành phố ít ỏi áp dụng mô hình này thành công là Portland,
bang Oregon. Tuy nhiên, cái giá mà dân chúng ở đây phải trả là giá nhà đất tăng rất nhanh
trong một thời gian ngắn. Do áp lực phát triển, vừa rồi, họ đổi luật, lùi hành lang xanh để
có đủ đất cho phát triển.

26


SË 95+96 . 2018


Nhiều thành phố khác tại Mỹ lại cho phát
triển tràn lan, thay vì mô hình đô thò vệ tinh,
như Los Angeles và Houston, nhằm giảm
giá đất, thu hút đầu tư và đảm bảo nhu cầu
nhà ở cho dân chúng.
Có một thành phố ở Cana là Calgary,
lại đi theo hướng ngược lại, tức là không
xây dựng đô thò vệ tinh. Thành phố này
rất thành công trong phát triển kinh tế ở
Canada thông qua mô hình thành phố đơn
(uni-city concept), mà không có đô thò vệ
tinh và giới hạn phát triển.

Hạ tầng khung là gì:
Hạ tầng kỹ thuật khung:
là hệ thống các công
trình hạ tầng kỹ thuật
chính cấp đô thò, bao
gồm các trục giao
thông, tuyến truyền
tải năng lượng, tuyến
truyền dẫn cấp nước,
tuyến cống thoát nước,
tuyến thông tin viễn
thông và các công trình
đầu mối kỹ thuật.


Nhờ vậy, mặc dù chỉ đứng thứ năm về dân
số (một triệu dân) tại Canada, Calgary là
nơi tập trung nhiều thứ hai nước này các
tập đoàn lớn (chỉ sau Toronto, thành phố
năm triệu dân) và có chất lượng sống hàng
đầu Bắc Mỹ nhờ giảm chi phí hạ tầng, thuế
thấp và giá đất rẻ.
Tại Việt Nam, mô hình thành phố vệ tinh
không phải bây giờ mới đặt ra nhưng chưa
bao giờ thực hiện được. Và, như chúng
ta đã và đang chứng kiến, Hà Nội và
TP.HCM vẫn ngày một phình to và phát
triển tràn lan.
Hãy thử tưởng tượng, khi quy hoạch được
phê duyệt và đi vào triển khai, chúng ta sẽ
phải đối mặt với nhiều thách thức kinh tế
và xã hội.

Trước hết, chúng ta sẽ phải xây dựng nhiều
cây cầu vượt sông Hồng, kết nối các đô thò
mới ở Gia Lâm, Đông Anh và Sóc Sơn với
chi phí không dưới 200 – 300 triệu USD
cho mỗi cây cầu. Thủ đô Seoul của Hàn
Quốc xây dựng 26 cây cầu vượt sông Hàn
mà vẫn không giải quyết được ách tắc giao
thông trên mỗi cây cầu.
Ngoài ra, chúng ta sẽ phải xây dựng hệ
thống đường sắt kết nối đô thò trung tâm với
5 đô thò vệ tinh cách xa hàng chục kilomet
với chi phí không dưới 10 triệu USD/km.

Chúng ta sẽ phải kiểm soát quá trình đô
thò hóa trong hành lang xanh của các làng
nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp nằm
gần các trục đường giao thông chính.
Di dời những làng cổ này ra khỏi vành đai
xanh sẽ là một xáo trộn quá lớn về kinh tế xã hội, trong khi bảo tồn những làng này lại
cần những chính sách đặc biệt để đảm bảo
vành đai xanh không tự biến thành vành
đai đô thò.
Mặc khác, những đô thò vệ tinh của Hà Nội
chủ yếu nằm về phía Tây thành phố, nhưng
dòng nhập cư chủ yếu sẽ lại đến từ những
tỉnh đồng bằng sông Hồng ở phía Đông,
cũng như chòu áp lực phát triển các khu đô
thò và công nghiệp phía Đông trên những
trục đường hướng ra cảng biển.

SË 95+96 . 2018

27



×