Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Hạ tầng xanh cho đô thị thích ứng với hạn hán - Trường hợp tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (543.47 KB, 5 trang )

QuY hOạCh

& tC gi

Hạ tầng xanH cHo đô tHò tHícH ứng với Hạn Hán

trường hợp tỉnh ninh thuận, Việt nam

nguYễn QuC Vinh
Khoa Kỹ thuật Xây dựng, Đại học Bách khoa, Đại học Quốc gia TP.HCM, Việt Nam

T

he emerging concepts of sustainability, resilience have been studied during the past decades. Basing on the eclogocal science, a city
is considered as ecological-social systems. Of which, urban spaces must naturally be planned, taking advantage of ecosystem services
in order to self-organise and balance with local extreme wearther events, moving towards sustainability. Many researches proved that
the most moderate and flexible spaces are Green Infrastructure (GI) [1]. This study selected the case of capital city Phan Rang – Thap Cham
(PR-TC) - the most urbanized area of Ninh Thuan province (NT), in the center of Vietnam, which has been known as one of the coastal cities
that are affected by CC, drought, storms, flash floods, and sea level rise - to examine its GI’s structure and adaptive possibility. Maps and
figures are extracted from Normalised Difference Vegetation Index (NDVI) of remote sensing image. Results illustrates that green spaces in
PR-TC are very potential to become a flexible and adaptive GI, towards drought resilience and sustainability.
Key words: sustainability, adaptive, resilience, green space, green infrastructure.

Trong những thập kỷ qua, các khái niệm bền
vững (sustainability), phục hồi (resilience)
được rất nhiều học giả nghiên cứu. Theo nền
tảng khoa học sinh thái này, đô thò (ĐT) được
xem là một hệ thống hợp nhất giữa tự nhiên
và xã hội. Theo đó, không gian đô thò (KGĐT)
cần được quy hoạch dựa trên nền tảng của
tự nhiên, tận dụng được các chức năng sinh


thái để có thể tự điều tiết và cân bằng với các
điều kiện khí hậu khắc nghiệt tại đòa phương,
hướng đến phát triển bền vững. Nhiều nghiên
cứu chứng minh rằng không gian trung hòa
và linh hoạt nhất để đô thò đạt được điều này
chính là Hạ tầng xanh (HTX) [1]. Nghiên cứu
này chọn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm
(PR-TC) - khu vực đô thò hóa cao nhất tại tỉnh
56

SË 100 . 2019

Ninh Thuận, ven biển miền Trung, vốn được
xem là một thành phố ven biển chòu nhiều tác
động lớn của biến đổi khí hậu (BĐKH), hạn hán,
bão, lũ quét, xâm ngập mặn và nước biển dâng
- để khảo sát cấu trúc và khả năng thích ứng
của HTX. Hình ảnh và số liệu được chiết xuất
từ chỉ số thực vật chuẩn hóa (Normalinsed
Difference Vegetation Index - NDVI) của hình
ảnh viễn thám. Kết quả cho thấy không gian
xanh tại PR-TC rất có tiềm năng để phát triển
thành mạng lưới HTX linh hoạt và thích ứng,
hướng tới phục hồi với hạn hán và phát triển
bền vững.
Từ khóa: bền vững, thích ứng, phục hồi, không gian xanh, hạ
tầng xanh.


Quy h oπc h &


t∏c gi∂

I Giới thiệu tổng quan

hồi, khung Sendai có nhận đònh: khả năng của một thành phố đối
mặt với các mối nguy hiểm để chống lại, hấp thụ, thích nghi và phục
hồi sau tác động của mối nguy đó [9]. S. Meerow miêu tả khả năng
thích ứng của ĐT là khả năng duy trì hoặc nhanh chóng trở lại các
chức năng mong muốn, thích ứng với thay đổi và chuyển biến các
hệ thống giới hạn khả năng thích ứng hiện tại hoặc tương lai[10].
Trong quy hoạch, một số học giả cho rằng quy hoạch không gian
đóng vai trò quan trọng để thúc đẩy khả năng phục hồi của ĐT[11].
Một nghiên cứu cho thấy với một cấu trúc phù hợp, ĐT có thể giảm
thiểu các mối nguy hiểm từ bên ngoài, thông qua các chỉ số đánh
giá khả năng thích ứng[11]. Một số nghiên cứu khác đề xuất giữ vài
khu vực trong thành phố không phát triển như: không gian mở,
không gian xanh, không gian mặt nước… như một mô hình đa dạng
sinh học, là một phần của chiến lược thích ứng thông qua “các điều
kiện nuôi dưỡng để thích ứng và đổi mới sau xáo trộn” [12]. Hơn nữa,
tăng cường không gian xanh ĐT được xem là một phương pháp
tiếp cận có thể giảm thiểu hiện tượng đảo nhiệt đô thò (ĐNĐT)[13],
đa dạng sinh học và tăng khả năng chống chòu rủi ro hạn hán [14].

Trong bối cảnh của Ninh Thuận nói chung và PR-TC nói riêng,
khô hạn, nóng bức là một trong những điều kiện đầy thách thức
và tác động nhiều đến đời sống người dân, cản trở và hạn chế vai
trò hỗ trợ của hệ sinh thái. Nguyên nhân chủ yếu do sự gia tăng
không gian xây dựng - hay mặt không thấm (MKT)[2], không gian
xanh thấp và thiếu kết nối. Nhiều nghiên cứu về quá trình đô thò

hóa (ĐTH) đã nhận đònh có sự tương quan nghòch giữa nhiệt độ
với không gian xanh, và tương quan thuận với MKT[2][3]. Bên cạnh
đó, nhiệt độ cao cũng được xem là một trong những hậu quả của
hạn hoặc liên quan đến hạn, và được dùng làm chỉ số để đánh giá
mức độ hạn[4][5]. Như vậy, không gian xanh được xem là một trong
những yếu tố cốt lõi để giải quyết thách thức về điều kiện nóng
và khô hạn tại PR-TC. Bài báo gồm ba phần: (i) Các khái niệm
về ĐT phục hồi và HTX ĐT, (ii) Các bài học kinh nghiệm về triển
khai mạng lưới HTX trên thế giới, (iii) Bối cảnh khu vực nghiên cứu
và kết quả đánh giá. Dựa vào kết quả hình ảnh và số liệu từ công
nghệ viễn thám và GIS, hình ảnh Google, một đánh giá bước đầu
về quy mô và tính kết nối được thực hiện: PR-TC có nhiều tiềm
năng để phát triển thành ĐT thích ứng do có diện tích thực phủ
cao, nhưng được phân bổ rải rác thiếu tập trung và thiếu kết nối,
đặc biệt là thiếu kết nối với thủy hệ trên đòa bàn thành phố.

II.2 Hạ tầng xanh đô thò
Cảnh quan tự nhiên
Theo quan điểm của Victor Gruen, cảnh quan đô thò (cityscape)
là môi trường đô thò (MTĐT) gồm công trình, MKT và hạ tầng kỹ
thuật, còn cảnh quan tự nhiên (landscape) là môi trường tự nhiên
(MTTN) mà cảnh quan thiên nhiên chiếm ưu thế. Như vậy hai cảnh
quan này hoàn toàn khác biệt về mặt ý nghóa.

Với áp lực về môi trường ngày một tăng tại các khu vực ĐT, các
học giả đã tập trung nghiên cứu về tính bền vững và khả năng
thích nghi, phục hồi của nó. Những khái niệm này đều dựa trên
nền tảng của khoa học sinh thái, theo đó một thành phố về cơ
bản được xem như là một hệ sinh thái - xã hội phức hợp. Đặc biệt,
khái niệm phục hồi nhấn mạnh rằng hệ sinh thái ĐT phải trải qua

bốn giai đoạn từ hình thành đến khai thác, duy trì, thay đổi và tái tổ
chức, để có thể trở lại trạng thái ổn đònh sau các tấn công gây xáo
trộn từ bên ngoài. Để đạt được điều đó, ĐT phải được quy hoạch
và thiết kế chú trọng vào vai trò và chức năng của các không gian
tự nhiên, vốn có khả năng linh hoạt cao giúp tăng cường khả năng
thích ứng với những biến động của điều kiện khí hậu (ĐKKH) đòa
phương, và BĐKH. Cùng với các khái niệm ĐT bền vững và phục
hồi, khái niệm HTX dựa trên những quan điểm cơ bản của khoa
học sinh thái, cung cấp những nguyên tắc cơ bản, là công cụ quy
hoạch thích ứng, phục hồi và bền vững hữu hiệu, thu hút quan sự
tâm lớn của giới quy hoạch và quản trò ĐT.

II Đô thò phục hồi và hạ tầng xanh đô thò

II.1 Thích ứng và đô thò thích ứng với hạn hán
Khái niệm thích ứng xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1973, đề cập
đến các hệ thống và khả năng đối phó với các tấn công và xáo trộn
từ bên ngoài khi vẫn giữ nguyên cấu trúc và chức năng cũ[6]. Sau
đó, các học giả lại diễn giải nó theo chu trình thích nghi (adaptive
cycle) trải qua bốn giai đoạn: (i) tăng trưởng và khai thác, (ii) duy trì,
(iii) sụp đổ hoặc phóng thích, (iv) thay đổi và tái cấu trúc [7].
Giới quy hoạch ĐT bắt đầu quan tâm đến khái niệm này vào cuối
những năm 1990. Theo đó, thành phố được xem là một hệ thống
sinh thái tự nhiên - xã hội (SES), được hỗ trợ bởi các vai trò của tự
nhiên, gồm: (i) cung cấp thực phẩm và nước, (ii) điều tiết lũ lụt, hạn
hán và bệnh tật, (iii) hỗ trợ hình thành đất và chu kỳ dinh dưỡng, và
(iv) mang lại giá trò văn hóa như giải trí, tinh thần, tôn giáo và các
lợi ích phi vật thể khác [8]. Trong số nhiều đònh nghóa về ĐT phục

Vậy cảnh quan ĐT và cảnh quan tự nhiên có thể tích hợp trong

MTĐT. Trong cuốn sách “Design with Nature” xuất bản năm 1969,
Mc Harg đã đề xuất nhiều nguyên tắc sinh thái để quy hoạch và
thiết kế ĐT[15]. Nhưng trong một thời gian dài, do nhiều lý do, sinh
thái chỉ được sử dụng hạn chế theo ngữ nghóa của cái gọi là “môi
trường” (environment), vốn được cho rằng là cái gì đó “tự nhiên” mà
không thuộc về thành phố. Nhưng chắc chắn rằng các môi trường
kinh tế, xã hội, văn hóa đều được bao bọc bởi MTTN.
Từ công viên tới hạ tầng xanh đô thò
Công viên: Là một loại cảnh quan tự nhiên trong lòng ĐT. Quy mô
khác vai trò sẽ khác[16].
Công viên nhỏ - công viên đô thò. Thường chỉ để gợi về hoặc đại
diện cho tự nhiên ở vài chức năng nào đó, do chúng không có quá
trình tiến hóa tự điều chỉnh, cũng không là những hệ sinh thái thích
ứng hướng đến phát triển bền vững. Nó như là một biểu tượng từ
chính tư duy sinh thái của người thiết kế (Designer Ecology) hơn là
thiết kế mang tính sinh thái (Ecological Design). Chúng chỉ được
xem là một thành phần của tự nhiên khi chúng được kết nối với
những công viên với quy mô tương tự về mặt chức năng, thông qua
một mạng lưới HTX đủ mạnh.
Công viên lớn: Là những hệ sinh thái phức hợp. Nó có khả năng
phục hồi khi cần phải thích ứng để thay đổi. Thường có quy mô lớn
hơn nhiều so với những công viên ĐT cả về sự đa dạng sinh học.
Nên chúng có thể cùng với mạng lưới HTX, với hệ sinh thái điều tiết
rất hiệu quả các ĐKKH tại đòa phương.

SË 100 . 2019

57



Quy h oπch &

Hạ tầng xanh đô thò. Về mặt không gian là
những không gian mở, mặt nước, công viên
trung tâm, rừng, hành lang xanh, cây lề
đường, và kể cả những không gian mở tại
vùng nông thôn.
Kết nối các công viên lớn nhỏ trong ĐT
tạo thành mạng lưới HTX sẽ mang lại
nhiều lợi ích cho MTĐT. Nó hỗ trợ các quá
trình sinh lý của tự nhiên như: thủy văn, đa
dạng sinh học, kết nối các dòng thông tin,
vật chất… Ngoài ra, với những ĐT tọa lạc
tại các vùng có ĐKKH khô hạn như PRTC, không gian xanh còn giúp giảm nhiệt
độ, giảm hiện tượng ĐNĐT, giảm nhu cầu
sử dụng nước, trung hòa sự phân hóa về
không gian và nâng cao khả năng thích
ứng[1][3]. Nhìn chung, những điểm cần lưu
ý trong quy hoạch hệ thống HTX: “tiếp cận
đa cấp độ”, “cấu trúc mô hình cảnh quan”
và “tính kết nối”.

III Bài học kinh nghiệm về ứng
dụng mạng lưới hạ tầng xanh

Những bài học kinh nghiệm dưới đây về
việc triển khai HTX tại nhiều cấp, được thu
thập từ các châu lục khác nhau trên thế
giới (châu Á, châu Âu và châu Mỹ), cho
thấy sự đa dạng về đòa lý, bối cảnh nhưng

đònh hướng chung vẫn là phát triển phù
hợp, thích nghi với điều kiện tự nhiên của
đòa phương[1].
Thành phố Taizhou, Trung Quốc: HTX
cấp ĐT. Thành phố có dân số 5.5 triệu
dân, diện tích 1.000km2
ĐT chòu ảnh hưởng của ngập lụt thường
xuyên. Hiện đang chòu nhiều áp lực từ quá
trình ĐTH và phát triển hạ tầng. Để giải
quyết vấn đề này, Kongian Yu - kiến trúc
sư cảnh quan của ĐH Beijing đã quy hoạch
thành phố dựa trên hạ tầng sinh thái nhằm
hỗ trợ cho các chức năng của tự nhiên: vô
sinh (abiotic), hữu sinh (biotic) và văn hóa
(cultural). Quy hoạch giới hạn sự phát triển
tràn lan thiếu kiểm soát của ĐT, với tên gọi
“các hình mẫu an toàn” (security patterns):
(i) tối thiểu, (ii) trung bình, và (iii) tối đa.
Sản phẩm này gồm bộ hướng dẫn sinh thái
cảnh quan về: (i) tiếp cận đa cấp độ, (ii) mối
liên hệ và quá trình của hình mẫu, và (iii)
sự kết nối, đặc biệt với các mạng lưới thủy
văn đa năng. Những hướng dẫn quy hoạch
HTX với đề xuất quan điểm không gian rất
rõ ràng cũng bao gồm trong sản phẩm này.

58

SË 100 . 2019


t∏c gi∂

Vành đai thủy tại Staten, thành phố New
York: HTX cấp khu vực. Dân số thấp, sinh
thái tự nhiên ít bò xâm phạm.
Những năm 80, chính quyền tích hợp quản
lý nguồn nước với vùng ngập rộng 4.000ha.
Quy hoạch gồm 2 thành phần cơ bản tách
biệt: hệ thống cống thoát và thu nước mưa.
Hệ thống nước mưa được xem là một ví dụ
về HTX hợp nhất giữa thu nước mưa đa
năng và các vùng ngập vào quy hoạch hạ
tầng ĐT một cách hoàn chỉnh.
Tiêu chí xanh tại thành phố Berlin: HTX
cấp công trình. Thuộc khu vực khá biệt lập
như một hòn đảo đô thò.
Theo chương trình này, mỗi khu đất phải
giảm thiểu được tác động của chính nó tại
khu vực. Mục tiêu chính là chống lại việc
“rò rỉ” nước, quy đònh các công trình xây
mới hoặc cải tạo phải đạt tiêu chí xanh.
“Xanh” nhằm vào các chức năng: giảm bốc
hơi, giữ hoặc thấm nước mặt, loại bỏ tạp
chất, bụi, tái tạo thổ nhưỡng và gia tăng
môi trường sống cho thực vật và động vật.

IV Bối cảnh khu vực nghiên cứu
và kết quả

IV.1 Bối cảnh tỉnh Ninh Thuận và thành phố

Phan Rang – Tháp Chàm
Ninh Thuận là một tỉnh ven biển vùng
Duyên hải Nam Trung bộ Việt Nam, tọa
lạc tại: 11o18’14” đến 12o 09’15” độ vó Bắc,
108o 09’08” đến 109o 14’25” độ kinh Đông.
Thủy văn: tổng diện tích các lưu vực sông
là 3.092km2, gồm 46 sông, suối và 04
tầng chứa nước chính, trong đó lưu vực
sông Dinh chiếm phần lớn diện tích với
3.000km2, các lưu vực còn lại chiếm 92km2.
Khí tượng: khô (75% - 77%), nóng (26oC 27oC) và gió mạnh (2,3m/s - 5 m/s mạnh
nhất là 25m/s) và tốc độ bốc hơi cao.
Khí hậu cực đoan: xen kẽ giữa hạn hán và
lũ lụt. Tuy nhiên lũ lụt giảm nhiều nhờ việc
quy hoạch và xây dựng nhiều hồ chứa, đập
và đê trên đòa bàn.
Không gian tỉnh được chia thành ba tiểu
vùng khí hậu. Khu vực ven biển (III) có mức
độ hạn hán tồi tệ nhất với lượng mưa trung
bình khoảng 500 - 700 mm/năm, khu vực
nghiên cứu - thành phố PR-TC - thuộc tiểu
vùng này. Khu vực đồng bằng (II) cũng bò

Hình 1: Vò trí thành phố PR-TC trong tiểu
vùng khí hậu.
(Nguồn: tác giả)

hạn hán với lượng mưa từ 750 đến 1.200
mm/năm. Khu vực miền núi (I) có lượng
mưa 1.000 - 1.700 mm/năm.

IV.2 Không gian xanh và mặt nước tại
Ninh Thuận và thành phố Phan Rang –
Tháp Chàm
Nền tảng giúp tăng cường năng lực thích
ứng của MTĐT với các rủi ro từ thiên tai,
từ BĐKH chính là cách thức tổ chức không
gian mở, không gian xanh, không gian mặt
nước và các không gian xây dựng trong
ĐT[12], vốn liên quan chặt chẽ với nhiệt độ[3].
Các yếu tố trên sẽ được tiến hành khảo
sát, phân tích và đánh giá tại 02 cấp độ:
lưu vực sông Dinh và thành phố PR-TC.
Cấp độ lưu vực
Các bản đồ đánh giá điều kiện tự nhiên lưu
vực sông Dinh gồm: bản đồ đòa hình, bản đồ
mạng lưới thủy văn, bản đồ phân bố nhiệt
độ bề mặt (Land Surface Temperature LST) được thu thập từ nhiều nguồn khác
nhau như ảnh viễn thám, GIS… để khảo sát
tổng thể về tỉnh Ninh Thuận (Hình 2).
02 loại mặt phủ quan trọng của mạng lưới
HTX là thực vật (dày - rừng hoặc cây trồng
lâu năm, và thưa - cây bụi, đồng cỏ, hoặc
đất nông nghiệp) và mặt nước được khảo
sát về quy mô và tính kết nối (Hình 3). Bản
đồ và số liệu được chiết xuất từ hình ảnh
viễn thám, dựa theo chỉ số thực vật chuẩn
hóa của Ninh Thuận (NDVI) tại thời điểm
11/4/2019 (Earth Explorer), bản đồ Google
(8/2019), và một số hình ảnh khảo sát trực
quan tại đòa điểm (9/2019).



Đánh giá - Nhận xét
Không gian xanh: (i) thực phủ dày (rừng, cây
lâu năm): chiếm tỉ lệ khá cao diện tích toàn
thành phố (23,01%), đa phần là các khu
vực chưa phát triển ĐT, phân tán tại khu
vực trung tâm, dày hơn ở phía Tây Bắc, (ii)
thực phủ thưa (cây bụi, đồng cỏ hoặc nông
nghiệp): chiếm tỉ lệ cao (55,38%), rải đều
trên đòa bàn.
Không gian mặt nước: chủ yếu là sông Dinh,
Đầm Nại và một số hồ điều tiết trong nội
thành.
Tính kết nối: (i) Quy mô: nhìn chung diện
tích không gian xanh khá cao do PR-TC
không phải là ĐT trọng điểm tại khu vực
miền Trung, và mới ĐTH từ những năm
1990. (ii) Kết nối: Theo bản đồ mạng lưới
thủy văn trên lưu vực sông Dinh (Hình 2b)
và thủy hệ (Hình 3c), dòng chảy có xu
hướng đổ từ Tây Bắc xuống Đông Nam
theo sông Dinh ra biển Đông. Nhưng sự
kết nối của không gian xanh với nhau và
với thủy hệ rất yếu (Hình 3a). Các trục giao
thông đối nội và đối ngoại phân hóa mạnh
không gian tự nhiên lưu vực[17]: tại PR-TC,
trục Quốc Lộ 1A theo hướng Tây NamĐông Bắc, các trục giao thông chính của
PR-TC theo hướng Đông Nam-Tây Bắc xé
không gian tự nhiên thành các tiểu vùng

nhỏ, thiếu kết nối.

Hình 3: Không gian mặt phủ thành phố
PR-TC. (a) Thực phủ dày, (b) Thực phủ thưa,
(c) Thủy hệ.
(Nguồn: Tác giả)

Nhìn chung, về quy mô, sự phân bổ diện
tích không gian xanh, mặt nước và không
gian mở trên toàn thành phố là khá cao. Về
tính kết nối, mặc dù có diện tích khá cao
nhưng lại được phân bố không đều, phân
tán và thiếu kết nối. Tuy nhiên, với thực
trạng này, PR-TC hoàn toàn có tiềm năng

Hình 2: Điều kiện tự nhiên lưu vực sông
Dinh, vùng tỉnh Ninh Thuận. (a) Bản đồ đòa
hình, (b) Bản đồ mạng lưới thủy văn, (c) Bản
đồ phân bố nhiệt độ. (Nguồn: Tác giả)
Cấp độ đô thò
SË 100 . 2019

59


để phát triển mạng lưới HTX thích ứng với hạn hán.

V Kết luận

Thành phố - “SES”, là một hệ thống sinh thái - xã hội phức

hợp, không chỉ năng động mà còn tự tổ chức và chủ động
điều chỉnh để thích ứng với các tấn công từ bên ngoài như
thiên tai hoặc BĐKH, có thể hoặc không thể dự báo. Trường
hợp của PR-TC, một thành phố nghèo có mức độ khô hạn
và nóng bức nhất tại Việt Nam cũng có thể được đònh hướng
và phát triển để thích ứng với mọi hoàn cảnh. Từ các nhận
đònh về mối quan hệ giữa việc gia tăng nhiệt độ đô thò với
không gian xanh và MKT, bài báo tiến hành khảo sát thực
trạng không gian xanh, không gian mặt nước trên đòa bàn
thành phố để bước đầu đánh giá quy mô, cấu trúc và khả
năng kết nối của những không gian này. Kết quả cho thấy
PR-TC hoàn toàn có thể đònh hướng và phát triển thành ĐT
thích ứng với hạn hán. Nó sẽ là tiền đề để xây dựng hệ thống
nguyên tắc tổ chức mạng lưới HTX các cấp tại Ninh Thuận,
nâng cao khả năng thích ứng với ĐKKH nói chung và với hạn
hán nói riêng, hướng đến phát triển bền vững.

Conf., vol. 45, p. 00095, 2018.
[5] WMO and GWP, Handbook of drought indicators and indices, no.
1173. 2016.
[6] C. S. Holling, “Resilience and stability of ecological systems. Annual
Review of Ecology and Systematics,” 1973.
[7] C. S. Holling and L. H. Gunderson, “Resilience and adaptive cycles,”
Panarchy Underst. Transform. Hum. Nat. Syst., pp. 25–62, 2002.
[8] Millenium Ecosystem Assessment, Millenium Ecosystem Assessment:
ecosystems and human well-being. 2005.
[9] S. Framework and D. R. Reduction, “Sendai Framework for Disaster
Risk Reduction 2015-2030,” no. March, pp. 1–25, 2015.
[10] S. Meerow, J. P. Newell, and M. Stults, “Defining urban resilience: A
review,” Landsc. Urban Plan., vol. 147, pp. 38–49, 2016.

[11] Fleischhauer and M. Fleischhauer, “The role of spatial planning in
strengthening urban resilience,” Resil. Cities to Terror. other Threat. Proc.
NATO Adv. Res. Work. Urban Struct. Resil. under Multi-Hazard Threat.
Lessons 9/11 Res. Issues Futur. Work, pp. 273–298, 2008.
[12] N. M. Ni’mah and S. Lenonb, “Urban greenspace for resilient city in
the future: Case study of Yogyakarta City,” in IOP Conference Series: Earth
and Environmental Science, 2017, vol. 70, no. 1, pp. 0–8.
[13] Dissanayake, Morimoto, Ranagalage, and Murayama, “Land-Use/

60

Tài liệu Tham khảo:

Land-Cover Changes and Their Impact on Surface Urban Heat Islands:

[1] J. Ahern, “Green infrastructure for cities: the spatial dimension,” Cities

Case Study of Kandy City, Sri Lanka,” Climate, vol. 7, no. 8, p. 99, 2019.

Futur. Integr. Sustain. Water Landsc. Manag., no. May, pp. 267–283, 2007.

[14] N. D. Crossman, “Drought Resilience , Adaptation and Management

[2] T. T. Vân, “Nghiên cứu biến đổi nhiệt độ đô thò dưới tác động của quá

Policy (DRAMP) Framework,” Support. Tech. Guidel., no. July, p. 17, 2018.

trình đô thò hóa bằng phương pháp viễn thám và GIS, trường hợp khu vực

[15] I. McHarg, Design with nature. New York, USA: John Wiley & Sons,


thành phố Hồ Chí Minh,” 2011.

Inc, 1992.

[3] N. Q. Vinh, N. T. Khanh, and P. T. Anh, “The inter-relationships

[16] N. M. Lister, “Sustainable large park: Ecological design or design

between LST, NDVI, NDBI in Remote Sensing to Achieve Drought

ecology?,” in Large Park, 2007, pp. 35–57.

Resilience in Ninh Thuan, Vietnam,” 2019.

[17] Forman, R.T., and D.Sperling, “Road ecology: science and solutions,”

[4] W. Szalińska, I. Otop, and T. Tokarczyk, “Urban drought,” E3S Web

Choice Rev. Online, vol. 40, no. 11, pp. 40-6438-40–6438, 2003.

SË 100 . 2019



×