Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

Đồ án tốt nghiệp Tập hợp chi phí và tính giá thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (455.45 KB, 73 trang )

Đồ án tốt nghiệp
Tập hợp chi phí và
tính giá thành
Mục lục
Lời nói đầu
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển như vũ bão, đất nước đang trên đà
phát triển theo con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì càng cần nhiều các doanh
nghiệp, các công ty. Để quản lý được phải nhờ sự điều hành của Nhà nước và kế toán với tư
cách là công cụ quản lý ngày càng được khai thác tối đa sức mạnh và sự uyển chuyển của nó
nhằm điều chỉnh vĩ mô và kiểm soát sự vận hành của nền kinh tế trong hiện thực phong phú
và đa chiều. Mặt khác, kế toán còn là công cụ không thể thiếu được trong hệ thống các công
cụ quản lý vốn, tài sản và mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời nó
là nguồn cung cấp thông tin đáng tin cậy để Nhà nước điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế.
Giá thành sản phẩm cũng như phạm trù kinh tế khác của sản xuất có vai trò to lớn
trong quản lý và sản xuất. Nó là nhân tố tác động trực tiếp đến giá cả hàng hoá, để tiến hành
hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì không thể không kế hoạch hoá hạch toán mọi chi phí
sao cho đạt lợi nhuận cao nhất với chi phí thấp nhất. Vì vậy, hạch toán chi phí sản xuất và
tính giá thành đúng đủ, chính xác, kịp thời là nhân tố quan trọng trong quyết định doanh lợi
cho công ty.
Bước sang một thế kỷ mới - thế kỷ XXI - thế kỷ của nhân loại phát triển của khoa
học kỹ thuật đất nước lại càng phải đổi mới và các công trình kiến trúc hạ tầng ngày lại xây
dựng nhiều. Công ty Thạch Bàn qua nhiều giai đoạn phát triển đã đứng vững được trong nền
kinh tế thị trường đầy tính cạnh tranh này. Sản phẩm của Công ty không chỉ được biết đến ở
trong nước mà còn ngoài nước. Để Công ty lớn mạnh và phát triển như hiện nay là nhờ có
sự thay đổi cơ chế quản lý. Để thâm nhập sản phẩm của mình ra ngoài thị trường với chất
lượng tốt, giá thành hạ và đem lại hiệu quả kinh tế cao thì tập hợp chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm đã thực sự trở thành khâu trung tâm và quan trọng cho toàn bộ công tác
kế toán ở Công ty.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc tập hợp chi phí và tính giá thành cũng
như hiểu được mục đích kinh doanh của các công ty là gì và thực tế ở Công ty Thạch Bàn
em đã mạnh dạn đi tìm hiểu vấn đề này. Đây là yêu cầu khách quan và có tính thời sự cấp


bách và đặc biệt có ý nghĩa khi sản xuất của các doanh nghiệp đã gắn chặt với cơ chế thị
trường.
Em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình chỉ bảo giúp đỡ của thầy cô giáo và phòng
Tài chính - Kế toán của Công ty Thạch Bàn đã giúp em hoàn thành báo cáo này.
Nội dung, kết cấu đề tài gồm:
Phần I: Cơ sở lý luận về tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm.
Phần II: Thực trạng công tác tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm gạch ốp lát Granit tại Công ty Thạch Bàn.
Phần III: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm gạch ốp lát Granit tại Công ty Thạch Bàn.
Phần I
Cơ sở lý luận tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh
nghiệp sản xuất
I. Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất
1. Chi phí sản xuất:
1.1. Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ
các chi phí về lao động sống và lao động vật hoá cần thiết mà doanh nghiệp bỏ ra có liên
quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp cần phải có các yếu tố cơ bản về
chi phí và chi phí lao động, chi phí về vật tư lao động và đối tượng lao động. Sự tham gia
của các yếu tố sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có sự khác nhau và nó hình thành các
khoản chi phí tương ứng.
Chi phí sản xuất gắn liền với sử dụng tài sản, vật tư, lao động, tiền vốn. Vì thế, quản
lý chi phí sản xuất thực chất là việc quản lý, việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm các loại tài sản,
vật tư... của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, chi phí sản xuất là
cơ sở tạo nên giá thành sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn thành nên quản lý chặt chẽ chi phí
sản xuất là mục tiêu hạ giá thành sản phẩm.
Như vậy, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, nền kinh tế hàng hoá thì biểu hiện
bằng tiền của những hao phí lao động vật hoá và lao động sống cần thiết của doanh nghiệp

phải chi ra trong một kỳ để tiến hành sản xuất kinh doanh được gọi là chi phí sản xuất. Nội
dung của nó bao gồm các yếu tố như: chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp,
chi phí sản xuất chung, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.
Do đó, việc tập hợp chi phí sản xuất cần phải được tiến hành trong những khoảng
thời gian nhất định không phân biệt sản phẩm đã hoàn thành hay chưa. Để quản lý chi phí
sản xuất và giá thành sản phẩm được chặt chẽ, làm cơ sở cho việc phân tích quá trình phát
sinh chi phí sản xuất hình thành giá thành sản phẩm cũng như kết cấu tỷ trọng của chi phí
sản xuất, người ta cần tiến hành phân loại chi phí sản xuất theo một số tiêu thức khác nhau.
2. Phân loại chi phí sản xuất.
Phân loại chi phí sản xuất là một yêu cầu tất yếu để hạch toán chính xác chi phí sản
xuất, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất kinh doanh có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau và
tuỳ thuộc vào mục đích yêu cầu quản lý. Tuy nhiên, về mặt hạch toán chi phí sản xuất
thường được phân theo các tiêu thức khác nhau.
2.1. Phân loại theo yếu tố chi phí
Theo quy định hiện hành, toàn bộ chi phí được chi thành 7 yếu tố chi phí sau:
- Yếu tố nguyên liệu, vật liệu
- Yếu tố nhiên liệu, động lực
- Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương
- Yếu tố BHXH, BHYT, KDCĐ
- Yếu tố khấu hao tài sản cố định
- Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài
- Yếu tố chi phí bằng tiền khác.
2.2. Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm.
Để thuận lợi cho việc tính giá thành toàn bộ chi phí được phân theo khoản mục, cách
phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng.
Giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) ở Việt Nam bao gồm 3 khoản mục chi phí: - Chi
phí nguyên, vật liệu trực tiếp
- Chi phí nhân công trực tiếp
- Chi phí sản xuất chung.

Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ (giá thành đầy đủ) thì chỉ tiêu giá thành
còn bao gồm khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng.
2.3. Phân loại theo cách thức kết chuyển chi phí.
Toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí
thời kỳ.
- Chi phí sản phẩm: Là những chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra
hoặc được mua.
- Chi phí thời kỳ: Là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ. Nó không phải là
một phần giá trị sản phẩm được sản xuất ra hoặc được mua nên được xem là các phí tổn cần
được khấu trừ ra từ lợi tức của thời kỳ mà chúng phát sinh (bao gồm chi phí bán hàng và chi
phí quản lý doanh nghiệp).
2.4. Phân loại theo quan hệ của chi phí và khối lượng công việc sản phẩm hoàn
thành.
Để việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí thuận tiện đồng thời làm căn cứ để ra các
quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được phân theo quan hệ với khối
lượng công việc hoàn thành. Theo cách này chi phí được chia thành biến phí và định phí.
- Biến phí: Là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với công việc hoàn thành
(chẳng hạn chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công trực tiếp). Tuy nhiên, các chi phí biến
đổi nếu tính trên một đơn vị sản phẩm lại có tính cố định.
- Định phí: Là những chi phí không đổi về tổng số, về tỷ lệ so với công việc hoàn
thành (chẳng hạn chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh
doanh...). Các chi phí này nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu như số
lượng sản phẩm thay đổi.
II. Giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống
và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm lao vụ, dịch vụ đã hoàn
thành.
1. Phân loại giá thành
Giá thành kế hoạch căn cứ vào thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành, giá
thành kế hoạch được tính trước khi sản xuất kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế của kỳ

trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch.
- Giá thành thực tế sản phẩm, dịch vụ là toàn bộ hao phí, của các yếu tố dùng để tạo
ra sản phẩm, dịch vụ trong đó bao gồm quản lý NVLTT, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí
sản xuất chung tính cho sản phẩm dịch vụ hoàn thành
Giá thành sản phẩm sản xuất được tính:
Giá thành
sản xuất thực tế
của sản phẩm
= Chi phí sản
xuất sản phẩm dở
dang đầu kỳ
+ Chi phí sản
xuất phát sinh
trong kỳ
- Chi phí sản
xuất sản phẩm dở
dang cuối kỳ.
- Giá thành định mức: Là giá thành được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản
phẩm và được xây dựng trên cơ sở xác định mức chi phí hiện hành tại thời điểm nhất định
trong kỳ kế hoạch thường vào ngày đầu tháng, giá thành định mức có thể thay đổi do giá
thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được
trong quá trình sản xuất sản phẩm.
- Giá thành toàn bộ: là chi phí thực tế của số sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ và chi phí
bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp của một số sản phẩm dịch vụ đó.
Công thức tính:
Giá thành toàn
bộ
= Giá thành sản xuất
thực tế của sản phẩm
+ Chi phí bán hàng

phân bổ cho sản
+ Chi phí QLDN
phân bổ cho sản
dịch vụ đã tiêu thụ phẩm, dịch vụ đã tiêu
thụ
phẩm, dịch vụ đã
tiêu thụ
2. ý nghĩa của chỉ tiêu giá thành.
Giá thành là một phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hoá, đó là một phạm trù
kinh tế khách quan, đồng thời có đặc tính chủ quan trong một giới hạn nhất định. Giá thành
còn là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh
và quản lý kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Để xem xét việc quản lý giá thành, người ta
căn cứ chỉ tiêu mức hạ giá thành và tỷ lệ hạ giá thành. Thông qua hai chỉ tiêu này có thể thấy
được trình độ sử dụng hợp lý, tiết kiệm chi phí nguyên vật liệu, khả năng tận dụng công suất
máy móc thiết bị sản xuất và mức độ trang bị áp dụng kỹ thuật sản xuất tiên tiến kết quả của
việc sử dụng hợp lý sức lao động, tăng năng suất lao động và trình độ quản lý kinh tế - tài
chính, trình độ hạch toán của doanh nghiệp.
3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Về thực chất chi phí sản xuất và giá thành là hai mặt khác nhau của quá trình sản
xuất. Tất cả những khoản chi phí phát sinh và chi phí tính trước có liên quan đến khối lượng
sản phẩm, lao vụ dịch vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói
cách khác, giá thành sản phẩm là biểu toàn bộ khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra ở bất kể
kỳ nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ.
Sơ đồ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
A B
CPSX dở dang
đầu kỳ
CPSX phát sinh trong kỳ
Tổng giá thành sản phẩm
hoàn thành

CPSX dở dang cuối kỳ
C D
Qua sơ đồ ta thấy: AC = AB + BD - CD
Tổng giá thành sản
phẩm
= CPSX dở dang đầu
kỳ
+ Chi phí sản xuất
phát sinh trong kỳ
- Chi phí sản xuất dở
dang cuối kỳ
Khi giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản xuất
không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí phát sinh trong
kỳ.
4. ý nghĩa của công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
Hạch toán chi phí sản xuất là một hình thức quản lý kinh tế có kế hoạch của doanh
nghiệp. Nó đòi hỏi phải dùng đến tiền tệ để đo lường, đánh giá kết quả hoạt động kinh tế,
phải bù đắp được những chi phí bỏ ra bằng chính doanh thu của mình trên cơ sở tiết kiệm
vốn và đảm bảo có lãi. Hạch toán kinh tế thúc đẩy tiết kiệm thời gian lao động, đảm bảo tích
luỹ, tạo điều kiện cho việc mở rộng không ngừng tái sản xuất mở rộng trên cơ sở áp dụng
khoa học công nghệ tiên tiến nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng cao và nâng cao phúc lợi
cho người lao động.
5. Nhiệm vụ kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Để đáp ứng được những yêu cầu quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm,
kế toán phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Xác định đúng đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá
thành sản phẩm.
- Tổ chức kế toán tập hợp các chi phí sản xuất theo đúng đối tượng đã xác định và
phương pháp kế toán tập hợp chi phí thích hợp. - Xác định chính xác chi phí về sản phẩm
làm dở cuối kỳ.

- Thực hiện tính giá thành sản phẩm kịp thời, chính xác theo đúng đối tượng tính giá
thành và phương pháp tính giá thành hợp lý.
-- Thực hiện phân tích tình hình thực hiện định mức, dự toán chi phí sản xuất, tình
hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm để có những kiến nghị đề suất cho lãnh đạo
doanh nghiệp ra các quyết định thích hợp trước mắt cũng như lâu dài đối với sự phát triển
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
III. Đối tượng, phương pháp hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
1. Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất:
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất ở doanh nghiệp được xác định tuỳ thuộc vào
đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, vào yêu cầu của công tác quản lý giá
thành... Bởi thế, đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là mới phát sinh chi phí như
phân xưởng, tổ, đội sản xuất, giai đoạn công nghệ hoặc có thể là đối tượng chịu chi phí như
chi tiết, bộ phận sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng... Như vậy, xác định đối tượng
hạch toán chi phí sản xuất là việc xác định giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định
nơi chi phí phát sinh và nơi chịu chi phí. Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là
công việc đầu tiên, định hướng cho toàn bộ công tác tập hợp chi phí sản xuất sau này. Trên
cơ sở xác định đúng, thích hợp đối tượng tập hợp chi phí sản xuất mà tổ chức ghi chép ban
đầu, tổ chức bộ sổ kế toán phù hợp để từ đó phân công công tác rõ ràng cho nhân viên kế
toán theo dõi việc thực hiện công tác của mình theo đúng chế độ quy định. Có nhiều phương
pháp hạch toán chi phí sản xuất khác nhau tuỳ theo đối tượng hạch toán ở từng doanh
nghiệp. Trong thực tế thường áp dụng một số phương pháp hạch toán chi phí sau:
- Hạch toán chi phí theo sản phẩm
- Hạch toán chi phí theo chi tiết hoặc bộ phận sản phẩm
- Hạch toán chi phí theo nhóm sản phẩm - Hạch toán chi phí theo đơn đặt hàng.
2. Đối tượng và phương pháp tính giá thành sản phẩm.
2.1. Đối tượng tính giá thành:
Việc xác định đối tượng tính giá thành được dựa trên các cơ sở sau:
* Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất:
- Với sản xuất giản đơn, đối tượng tính giá thành là sản phẩm cuối cùng.
- Với sản xuất phức tạp, đối tượng tính giá thành là bán thành phần ở từng bước chế

tạo hay thành phẩm ở bước chế tạo cuối cùng.
* Loại hình sản xuất: Đơn chiếc, sản xuất hàng loạt nhỏ hay sản xuất hàng loạt với
khối lượng lớn.
- Với sản xuất đơn chiếc và sản xuất hàng loạt nhỏ, đối tượng tính giá thành sản
phẩm của từng đơn.
- Điều kiện sản xuất hàng loạt khối lượng lớn, đối tượng tính giá thành có thể là sản
phẩm cuối cùng hay bán thành phẩm ở từng bước chế tạo.
* Yêu cầu và trình độ quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh.
- Với trình độ cao, có thể chi tiết đối tượng tính giá thành ở các góc độ khác nhau.
- Với trình độ thấp, đối tượng tính giá thành có thể bị hạn chế và thu hẹp lại. Nếu đặc
điểm của doanh nghiệp cùng một quy trình sản xuất, cùng một loại vật liệu nhưng sản xuất
ra nhiều loại sản phẩm khác nhau thì đối tượng tính giá thành có thể quy về một loại sản
phẩm gốc (sản phẩm tiêu chuẩn) để sau đó tính ra giá thành các loại sản phẩm khác. Đối
tượng tính giá thành là sản phẩm, bán thành phẩm, công việc hoặc lao vụ nhất định đòi hỏi
phải xác định tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm. Đơn vị giá thành của từng loại
sản phẩm, lao vụ, dịch vụ phải thống nhất và phù hợp với thị trường.
2.2. Phương pháp tính giá thành sản phẩm.
Phương pháp tính giá thành là một phương pháp hay hệ thống phương pháp được sử
dụng để tính tổng giá thành sản phẩm và giá thành đơn vị sản phẩm.
* Phương pháp trực tiếp (còn gọi là phương pháp giản đơn): Phương pháp này được
áp dụng trong các doanh nghiệp thuộc loại h ình sản xuất giản đơn, số lượng mặt hàng ít, sản
xuất và khối lượng lớn và chu kỳ sản xuất ngắn như các nhà máy điện, nước, các doanh
nghiệp khai thác (quặng, than, gỗ).
Giá thành sản phẩm theo phương pháp này được tính
Tổng giá thành
sản phẩm
= Tổng chi phí sản xuất
thực tế phát sinh trong kỳ
+ Chênh lệch giá trị
SPDD đầu kỳ so với cuối

kỳ
Giá thành đơn vị sản phẩm =
* Phương pháp tổng cộng chi phí: Được áp dụng đối với các doanh nghiệp mà quá
trình sản xuất sản phẩm được thực hiện ở nhiều bộ phận sản xuất, nhiều giai đoạn công
nghệ, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là các bộ phận, chi tiết sản phẩm hoặc giai đoạn
công nghệ hay bộ phận sản xuất. Giá thành sản phẩm được xác định bằng cách cộng chi phí
sản xuất của các bộ phận, chi tiết sản phẩm hay tổng chi phí sản xuất của các giai đoạn, bộ
phận sản xuất tạo nên thành phẩm.
Giá thành sản phẩm = Z1 + Z2 + .... + Zn
Phương pháp tổng cộng chi phí được áp dụng phổ biến trong các doanh nghiệp khai
thác, dệt nhuộm, cơ khí chế tạo, may mặc...
* Phương pháp hệ số:
Phương pháp này được áp dụng trong những doanh nghiệp mà trong cùng một quá
trình sản xuất cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng đồng thời thu
được nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm mà
phải tập trung cho cả quá trình sản xuất. Theo phương pháp này, trước hết kế toán căn cứ
vào hệ số quy đổi để quy các loại sản phẩm về sản phẩm gốc, rồi từ đó đưa vào tổng chi phí
liên quan đến giá thành sản phẩm đã được tập hợp để tính giá thành sản phẩm gốc và giá
thành từng loại sản phẩm.
Giá thành đơn vị sản phẩm gốc =
Giá thành đơn vị sản
phẩm từng loại
= Giá thành đơn vị sản
phẩm gốc
x Hệ số quy đổi từng
loại sản phẩm
Trong đó:
Số lượng sản phẩm quy đổi =
Tổng giá thành sản
xuất của các loại sản

phẩm
= Giá trị sản phẩm
dở dang đầu kỳ
+ Tổng chi phí phát
sinh trong kỳ
- Giá trị sản phẩm
dở dang cuối kỳ
* Phương pháp tỷ lệ: Được áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản
phẩm có quy cách, phẩm chất khác nhau như may mặc, dệt kim, đóng giầy, cơ khí chế tạo
(dụng cụ, phụ tùng...). Để giảm bớt khối lượng hạch toán, kế toán thường tiến hành tập hợp
chi phí sản xuất theo nhóm sản phẩm cùng loại. Căn cứ vào tỷ lệ chi phí giữa chi phí sản
xuất thực tế với chi phí sản xuất kế hoạch (hoặc định mức), kế toán sẽ tính ra tổng giá thành
và giá thành đơn vị sản phẩm từng loại.
Giá thành thực tế
đơn vị sản phẩm từng loại
= Giá thành kế hoạch
(hoặc định mức) đơn vị
sản phẩm từng loại
x Tỷ lệ
chi phí
Trong đó:
Tỷ lệ chi phí = x 100
Tổng giá thành thực
tế từng loại sản phẩm
= Giá thành thực tế đơn
vị sản phẩm từng loại
x Số lượng sản phẩm
từng loại
* Phương pháp loại trừ sản phẩm phụ:
Đối với các doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, bên cạnh các sản

phẩm chính còn có thể thu được các sản phẩm phụ (các doanh nghiệp chế biến đường, rượu,
bia...) để tính giá trị sản phẩm chính, kế toán phải loại trừ giá trị sản phẩm phụ ra khỏi tổng
chi phí sản xuất sản phẩm. Giá trị sản phẩm phụ có thể xác định theo nhiều phương pháp
như giá có thể sử dụng được, giá ước tính, giá kế hoạch, giá nguyên liệu ban đầu...
Tổng
giá thành sản
phẩm chính
= Giá trị
sản phẩm chính
dở dang đầu kỳ
+ Tổng chi
phí phát sinh
trong kỳ
- Giá trị
sản phẩm phụ
thu hồi
- Giá trị
sản phẩm chính
dở dang cuối
kỳ.
* Phương pháp liên hợp: Là phương pháp áp dụng trong những doanh nghiệp có tổ
chức sản xuất, tính chất quy trình công nghệ và tính chất sản phẩm làm ra đòi hỏi việc tính
giá thành phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như doanh nghiệp sản xuất hoá chất,
dệt kim, đóng giầy, may mặc...
Trên thực tế, kế toán có thể kết hợp phương pháp trực tiếp với tổng cộng chi phí,
tổng cộng chi phí với tỷ lệ, hệ số với loại trừ sản phẩm phụ. ..
* Phương pháp tính giá thành phân bước
Tính giá thành phân bước theo phương án hạch toán có bán thành phẩm: Phương án
hạch toán này thường được áp dụng ở các doanh nghiệp có yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ
cao hoặc bán thành phẩm ra ngoài. Đặc điểm của phương án hạch toán này là khi tập hợp chi

phí sản xuất của các giai đoạn công nghệ, giá trị bán thành phẩm của các bước trước chuyển
sang bước sau được tính theo giá thành thực tế và được phản ánh theo từng khoản mục chi
phí gọi là kết chuyển tuần tự. Trình tự tập hợp chi phí và tính giá thành theo phương án này
có thể phản ánh qua sơ đồ sau:
+ Có tính giá thành bán thành phẩm
Sơ đồ
+ Phương án không có bán thành phẩm
Theo phương án này, kế toán không cần tính giá thành bán thành phẩm trong từng
giai đoạn mà chỉ tính giá thành thành phẩm hoàn thành bằng cách tổng cộng chi phí nguyên
vật liệu chính và các chi phí chế biến khác trong giai đoạn công nghệ.
Có thể phản ánh phương án này qua sơ đồ sau:
Chi phí nguyên vật liệu chính cho thành phẩm
Chi phí bước 1 tính cho thành phẩm
Chi phí bước 2 tính cho thành phẩm
Chi phí bước... tính cho thành phẩm
Tổng
giá
th nhà
sản
phẩm
Chi phí bước n tính cho thành phẩm
4. Các hình thức sổ sách:
Với mỗi doanh nghiệp thì có một hình thức tổ chức sổ kế toán riêng phù hợp với đặc
điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. ở Việt Nam hiện nay áp dụng cho các doanh
nghiệp 1 trong 4 hình thức sổ kế toán sau: * Hình thức Nhật ký chung: Đặc trưng cơ bản của
hình thức này là theo trình tự thời gian phát sinh và định khoản kế toán của nghiệp vụ đó.
Sau đó lấy số liệu từ Nhật ký chung để ghi vào sổ cái theo từng nghiệp vụ phát sinh. Hình
thức này gồm các loại sổ kế toán chủ yếu sau:
- Sổ Nhật ký chung
- Sổ Cái

- Các sổ, Thẻ kế toán chi tiết.
* Hình thức Nhật ký - Sổ cái: Theo hình thức này các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
được kết hợp ghi chép theo trình tự thời gian và theo nội dung kinh tế trên cơ sở Nhật ký -
Sổ cái. Căn cứ để ghi Nhật ký - Sổ cái là chứng từ gốc hay bảng tổng hợp chứng từ gốc.
Hình thức này gồm các loại sổ kế toán sau:
- Sổ Nhật ký - Sổ cái
- Các sổ, thẻ kế toán chi tiết.
* Hình thức chứng từ - ghi sổ: Là hình thức sổ kế toán tổng hợp giữa ghi sổ theo thời
gian trên sổ Đăng ký chứng từ Ghi sổ.
- Chứng từ ghi sổ được đánh số hiệu liên tục trong từng tháng hoặc cả năm (theo số
thứ tự trong sổ Đăng ký chứng từ ghi sổ), và có chứng từ gốc đính kèm phải được kế toán
trưởng duyệt trước khi ghi sổ kế toán. Bao gồm:
- Sổ đăng ký chứng từ ghi sổ
- Sổ cái
- Các sổ, thẻ kế toán chi tiết.
* Hình thức Nhật ký - Chứng từ: là hình thức tổ chức sổ kế toán chung để tập hợp và
hệ thống hoá các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo bên Có của các tài khoản kết hợp với việc
phân tích các nghiệp vụ theo bên Nợ của các tài khoản đối ứng. Hình thức này bao gồm:
- Nhật ký chứng từ
- Bảng kê (số 4, 5, 6 và Nhật ký chứng từ số 07)
- Sổ cái
- Sổ, thẻ kế toán chi tiết. 3. Phương pháp tập hợp chi phí
3.1. Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp thực hiện
kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên.
a. Hạch toán chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ,
nhiên liệu... được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm.
Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập
hợp chi phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất hoặc sản phẩm, loại sản phẩm lao
vụ...) thì hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó.

Tiêu thức phân bổ thường được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ
số, heo trọng lượng, số lượng sản phẩm...
Chi phí vật liệu phân
bổ cho từng đối tượng
= Tổng chi phí vật liệu
phân bổ
x Tỷ lệ (hay hệ số
phân bổ)
Tỷ lệ (hay hệ số phân bổ) =
* Tài khoản sử dụng:
Để theo dõi các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, kế toán sử dụng TK 621 -
Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp.
Tài khoản này được mở chi tiêu theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ
phận sản xuất).
Bên Nợ: Giá trị nguyên, vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm hay thực
hiện lao vụ, dịch vụ.
Bên có: - Giá trị nguyên, vật liệu xuất dùng không hết nhập kho hay chuyển kỳ sau.
- Kết chuyển chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp vào TK 154 - Chi phí sản xuất kinh
doanh dở dang.
TK 621 không có số dư cuối kỳ.
* Phương pháp hạch toán
- Xuất kho nguyên vật liệu, nhiên liệu sử dụng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm
hay thực hiện lao vụ, dịch vụ. Nợ TK 621 (chi tiết theo từng đối tượng)
Có TK 152 (chi tiết vật liệu): giá trị thực tế xuất dùng theo từng loại.
- Trường hợp niên vật liệu về không nhập kho mà xuất dùng trực tiếp cho sản xuất
sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ. Căn cứ vào giá thực tế xuất dùng, kế toán ghi:
Nợ TK 621
Nợ TK 133: Thuế VAT được khấu trừ
Có TK 331, 111, 112: Vật liệu mua ngoài
Có TK 411: Vật liệu nhận cấp phát, nhận liên doanh

Có TK 154: Vật liệu tự sản xuất hay thuê ngoài, gia công
Có TK khác (311, 336, 338): Vật liệu vay, mượn.
- Giá trị vật liệu xuất dùng không hết nhập lại kho hay chuyển kỳ sau:
Nợ TK 152 Có TK 621
- Giá trị vật liệu còn lại kỳ trước nhập lại kho mà để lại bộ phận sử dụng sẽ được kế
toán ghi vào đầu kỳ sau bằng bút toán:
Nợ TK 621
Có TK 152
- Cuối kỳ kết chuyển chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp cho từng đối tượng tính giá
thành:
Nợ TK 621
Có TK 152
- Cuối kỳ kết chuyển chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp cho từng đối tượng tính giá
thành:
Nợ TK 154 Có TK 621
2. Hạch toán chi phí nhân công trực tiếp (CNCTT)
Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản thù lao lao động phải trả (gồm tiền lương
chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương) cho công nhân trực tiếp sản xuất,
chế tạo sản phẩm hay trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ. Ngoài ra, CPNCTT còn bao
gồm các khoản đóng góp cho các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn do
người sử dụng lao động chịu và tính vào chi phí kinh doanh theo một tỷ lệ nhất định với số
tiền lương phát sinh của công nhân trực tiếp sản xuất.
* Tài khoản sử dụng: Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng tài
khoản 622 - Chi phí nhân công trực tiếp
Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí
Bên Nợ: Tập hợp chi phí nhân công trực tiếp sản xuất sản phẩm, thực hiện lao vụ
dịch vụ theo từng đối tượng.
Bên Có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản tính giá thành
TK 622 - cuối kỳ không có số dư
* Phương pháp hạch toán

- Tính ra tổng số tiền công, tiền lương và phụ cấp phải trả trực tiếp cho công nhân
sản xuất sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ trong kỳ.
Nợ TK 622 Có TK 334
Sơ đồ kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp
kiểm kê định kỳ
Sơ đồ kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm theo phương pháp kê khai
thường xuyên
- Trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định (phần tính vào chi phí 19%0
Nợ TK 622
Có TK 338 (3382, 3383, 3384)
- Với những doanh nghiệp sản xuất mang tính chất thời vụ, phần tiền lương tính vào
chi phí và các khoản tiền lương tính trước của công nhân sản xuất (ngừng sản xuất theo kế
hoạch)
Nợ TK 622 Có TK 335
- Cuối kỳ, kết chuyển CPNCTT vào tài khoản tính giá thành theo từng đối tượng tập
hợp chi phí:
Nợ TK 154
Có TK 622
3. Hạch toán chi phí sản xuất chung:
Chi phí sản xuất chung là những chi phí cần thiết còn lại để sản xuất sản phẩm sau
CPNVLTT và CPNCTT. Đây là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng, bộ phận
sản xuất của doanh nghiệp. Để theo dõi các khoản chi phí sản xuất chung, kế toán sử dụng
TK 627 - Chi phí sản xuất chung. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng phân xưởng, bộ
phận sản xuất dịch vụ.
Bên Nợ: Tập hợp chi phí sản xuất chung thực tế phát sinh trong kỳ.
Bên Có: Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất
- Kết chuyển (hoặc phân bổ) chi phí sản xuất chung vào chi phí sản phẩm hay lao vụ,
dịch vụ.
TK 627 cuối kỳ không có số dư và được chi tiết thành 6 tiểu khoản tuỳ thuộc vào
yếu tố chi phí sau:

6271 - Chi phí nhân viên phân xưởng
6272 - Chi phí vật liệu
6273 - Chi phí dụng cụ sản xuất
6274 - Chi phí khấu hao TSCĐ
6277 - Chi phí dịch vụ mua ngoài
6278 - Chi phí bằng tiền khác.
* Phương pháp hạch toán:
- Tính ra tiền lương phải trả cho nhân viên phân xưởng
Nợ TK 627 (6271)
Có TK 338 (3382, 3383, 3384)
- Chi phí vật liệu dùng chung phân xưởng
Nợ TK 627 (6272)
Có TK 152
- Chi phí công cụ, dụng cụ sản xuất dùng cho các bộ phận, phân xưởng
Nợ TK 627 (6273)
Có TK 153
- Trích khấu hao TSCĐ của phân xưởng
Nợ TK 627 (6274)
Có TK 214
- Chi phí dịch vụ mua ngoài (điện, nước, điện thoại, sửa chữa nhỏ...)
Nợ TK 627 (6277)
Nợ TK 133: Thuế VAT được khấu trừ
Có TK 111, 112, 331: Giá trị mua ngoài
- Các chi phí phải trả (trích trước) khác tính vào chi phí sản xuất chung trong kỳ (chi
phí sửa chữa TSCĐ, chi phí ngừng sản xuất theo kế hoạch...), giá trị công cụ nhỏ
Nợ TK 627
Có TK 335: Chi tiết chi phí phải trả
Có TK 142: Chi tiết chi phí trả trước
- Các chi phí bằng tiền khác (tiếp tân, hội nghị...)
Nợ TK 627 (6278)

Có TK lq (111, 112)
- Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất chung
Nợ TK lq (111, 112)
Có TK 627
- Cuối kỳ, tiến hành phân bổ chi phí sản xuất chung theo tiêu thức phù hợp cho các
đối tượng chịu chi phí.
Nợ TK 154
Có TK 627
* Phân bổ chi phí sản xuất chung
Do chi phí sản xuất chung có liên quan đến nhiều loại sản phẩm, lao vụ, dịch vụ
trong phân xưởng nên cần thiết phải phân bổ khoản chi phí này cho từng đối tượng (sản
phẩm, lao vụ, dịch vụ) theo tiêu thức phù hợp. Trong thực tế, các tiêu thức được sử dụng
phổ biến để phân bổ chi phí sản xuất chung như phân bổ theo định mức, theo tiền lương
công nhân sản xuất.
Công thức phân bổ
Mức chi phí sản xuất chung phân bổ cho từng đối tượng = x Tổng chi phí sản xuất
chung cần phân bổ
4. Tổng chi phí sản xuất, kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang
4.1. Tổng chi phí sản xuất
* Tài khoản sử dụng
Việc tổng hợp toàn bộ chi phí sản xuất sản phẩm được tiến hành trên tài khoản 154 -
"Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang". Tài khoản này được mở chi tiết theo từng ngành sản
xuất, từng nơi phát sinh chi phí hay loại sản phẩm, loại lao vụ, dịch vụ... của các bộ phận sản
xuất kinh doanh chính, sản xuất kinh doanh phụ (kể cả thuê ngoài gia công chế iến).
Nội dung phản ánh của TK 154 như sau:
Bên Nợ: Tập hợp các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ (chi phí NVLTT, chi phí
NCTT, chi phí sản xuất chung).
Bên Có: - Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất
- Giá thành sản xuất thực tế (hay chi phí thực tê) của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ hoàn
thành.

Dư Nợ: Chi phí thực tế của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ dở dang chưa hoàn thành.
* Phương pháp hạch toán
- Cuối kỳ, kết chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (chi tiết theo từng đối tượng,
phân xưởng, sản phẩm, lao vụ, dịch vụ...)
Nợ TK 154 Có TK 621
- Cuối kỳ kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp (chi tiết theo đối tượng)
Nợ TK 154
Có TK 622
- Phân bổ (hoặc kết chuyển) chi phí sản xuất chung cho từng sản phẩm, lao vụ, dịch
vụ (chi tiết theo từng đối tượng)
Nợ TK 154
Có TK 627
Đồng thời phản ánh các bút toán ghi giảm chi phí
- Các khoản ghi giảm chi phí sản xuất (vật tư, sản phẩm thiếu hụt trên dây chuyền
sản xuất, sản phẩm hỏng trên dây chuyền không sửa chữa được), vật tư xuất dùng không hết,
phế liệu thu hồi...)
Nợ TK lq (152, 138, 334, 111, 112, 154...)
Có TK 154 (chi tiết đối tượng)
- Giá thành thực tế sản phẩm lao vụ, dịch vụ hoàn thành
Nợ TK 155: Nhập kho thành phẩm
Nợ TK 157: Gửi bán không qua kho
Nợ TK 632: Bán trực tiếp không qua kho
Nợ TK 152, 153
Có TK 154
4.2. Kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang:
Sản phẩm dở dang là những sản phẩm chưa kết thúc giai đoạn chế biến còn đang
nằm trong quá trình sản xuất. Để tính được giá thành sản phẩm, doanh nghiệp cần thiết phải
tiến hành kiểm kê và đánh giá sản phẩm dở dang tại các bộ phận, phân xưởng hoặc dây
chuyền sản xuất. Tuỳ theo đặc điểm tổ chức sản xuất, quy trình công nghệ và tính chất của
sản phẩm, doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp đánh giá sản phẩm dở

dang sau:
- Đánh giá sản phẩm dở dang dựa theo chi phí kế hoạch hoặc định mức. Căn cứ vào
mức độ hoàn thành và chi phí định mức (hoặc kế hoạch) cho từng khâu công việc để xác
định sản phẩm dở dang cuối kỳ là bao nhiêu. Phương pháp này thường được áp dụng với
bán thành phẩm. - Phương pháp ước tính theo sản lượng tương đương:
Theo phương pháp này, người ta căn cứ vào mức độ hoàn thành của sản phẩm dở để
ước tính nó đạt bao nhiêu % so với sản phẩm hoàn thành. Để đảm bảo tính chính xác của
việc đánh giá, phương pháp này chỉ nên áp dụng để tính các chi phí chế biến, còn các chi phí
nguyên vật liệu trực tiếp phải xác định theo số thực tế đã dùng.
- Phương pháp xác định giá trị sản phẩm dở dang theo 50% theo chi phí chế biến.
Thường được áp dụng đối với những loại sản phẩm mà chi phí chế biến chiếm tỷ trọng thấp
trong tổng chi phí:
Giá trị sản
phẩm dở dang
= Giá trị NVL chính nằm
trong SPDD (theo định mức)
x 50% chi phí chế biến
so với thành phẩm
Phương pháp tính theo chi phí vật liệu chính tiêu hao nằm trong sản phẩm dở dang.
Theo phương pháp này, giá trị sản phẩm dở dang chỉ bao gồm giá trị vật liệu chính tiêu hao
nằm trong sản phẩm dở còn chi phí chế biến nằm hết trong thành phẩm hoàn thành trong kỳ.
Phương pháp tính theo chi phí vật liệu trực tiếp hay chi phí trực tiếp. Theo phương
pháp này, giá trị sản phẩm dở dang chỉ bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (nguyên vật
liệu và nhân công trực tiếp) mà không tính đến các chi phí khác.
5. Các hình thức sổ sách
Phần II: Thực trạng công tác tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm gạch ốp lát Grant tại Công ty Thạch Bàn
Đặc điểm hoạt động chung của Công ty
Tên gọi: Công ty Thạch Bàn
Ngày thành lập: 15/02/1959

Trụ sở: Xã Thạch Bàn - Gia lâm - Hà Nội
Hình thức sở hữu: Doanh nghiệp Nhà nước Hình thức hoạt động: Hạch toán độc lập
Lĩnh vực kinh doanh: Sản xuất kinh doanh, vật liệu xây dựng và xây lắp
Tổng số công nhân viên (2000): 400
Chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp Niên độ kế toán: từ 01/01/2000 -
31/12/2000
Đơn vị sử dụng tiền tệ trong ghi chép kế toán: đồng Việt Nam.
Hình thức sổ kế toán áp dụng: Nhật ký chung.
I. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật và tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh tại
Công ty Thạch Bàn có ảnh hưởng đến công tác hệ thống chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm.
1. Tìm hiểu sự ra đời và phát triển của Công ty Thạch Bàn
Công ty Thạch Bàn là doanh nghiệp nhà nước hoạt động sản xuất kinh doanh hạch
toán độc lập, tiền thân là "Công trường gạch Thạch Bàn" thuộc "Công ty sản xuất vật liệu
kiến trúc Hà Nội" được UBHC thành phố Hà Nội ra quyết định thành lập vào ngày
15/02/1959, được thành lập theo quyết định số 498/BKT ngày 05/6/1969 của Bộ Kiến trúc
và sau đó là quyết định số 100A/BXD - TCLĐ ngày 24/3/1993 của Bộ Xây dựng, là đơn vị
thành viên của Tổng Công ty Thuỷ tinh và Gốm xây dựng.
Sau hơn 40 năm hoạt động Công ty đã phát triển qua các giai đoạn:
1. Những ngày đầu thành lập: từ tháng 2 năm 1959 đến tháng 7 năm 1964, trong nền
kinh tế tập trung, với công nghệ sản xuất gạch ngói đất sét nung là tạo hình thủ công, phơi
cáng che phên nứa - nung đốt lò đứng 3-4 vạn viên/mẻ và sản lượng toàn xí nghiệp chỉ đạt
3-4 sau tăng lên 8 -9 triệu viên/năm.
2. Trưởng thành qua thời kỳ chống Mỹ: Từ tháng 8 năm 1968 đến cuối năm 1985
trong nền kinh tế tập trung, với công nghệ sản xuất gạch ngói đất sét nung là hệ máy gia
công chế tạo hình FG5, hệ máy có hút chân không Tiệp Khắc - sấy tunel kiểu cũ 10 hầm -
nung đốt lò đứng cải tiến 8-10 vạn viên/mẻ và sản lượng toàn xí nghiệp tăng từ 14 đến 23
triệu viên/năm.
Vững vàng trước thử thách của nền kinh tế thị trường: từ đầu năm 1985 đến tháng 3
năm 1991, trong nền kinh tế thị trường, với công nghệ sản xuất gạch ngói đất sét nung là hệ

máy gia công chế biến tạo hình FG5, hệ máy có hút chân không Bungari - sấy tunel kiểu cũ
10 hầm - nung đốt lò đứng cải tiến 8-10 vạn viên/mẻ và sản lượng toàn xí nghiệp đạt 14-16
triệu viên/năm.
4. Đầu tư và phát triển (từ tháng 4 năm 1991 đến tháng 12 năm 1994): Trong nền
kinh tế thị trường, với công nghệ sản xuất gạch ngói đất sét nung là bộ máy gia công chế
biến tạo hình có hút chân không Bungari - sấy tunel kiểu cũ - nung đốt lò tunel công suất 20-
25 triệu viên/năm, xí nghiệp đã tăng sản lượng từ 25 lên 30 triệu viên/năm. Tháng 4/1993,
Bộ trưởng Bộ xây dựng quyết định tách xí nghiệp gạch ngói Thạch Bàn ra khỏi liên hợp các
xí nghiệp gạch ngói sành sứ thành đơn vị trực thuộc Bộ. Ngày 20 tháng 7 năm 1994, để phù
hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Bộ trưởng Bộ xây dựng
ra quyết định số 480/BXD - TCLĐ đổi tên xí nghiệp gạch ngói Thạch Bàn thành Công ty
Thạch Bàn. Trong thời gian này, Công ty đã bước đầu tham gia công tác xây lắp và chuyển
giao công nghệ sản xuất gạch ngói đất sét nung bằng lò tunel 5 vươn lên tầm cao mới (từ
tháng 01 năm 1995 đến nay, tháng 9/1999):
- Công ty đã phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế thị trường.
- Với công nghệ sản xuất gạch ngói đất sét nung là tạo hình có hút chân không
Bunrari - sấy tunel kiểu mới - nung đốt lò tunel công suất 20-25 triệu viên/năm.




Phần II
Thực trạng công tác tổ chức hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
gạch ốp lát Granit tại Công ty Thạch Bàn.
Đặc điểm hoạt động chung của công ty
Tên gọi: Công ty Thạch Bàn Ngày thành lập: 15/02/1959
Trụ sở: xã Thạch Bàn - Gia Lâm - Hà Nội Hình thức sở hữu: Doanh nghiệp Nhà nước
Hành thức hoạt động: Hạch toán độc lập
Lĩnh vực kinh doanh: Sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng và xây lắp
Tổng số công nhân viên (2000): 4000

Chế độ kế toán áp dụng tại Doanh nghiệp
Niên độ kế toán| từ 01/01/2000 - 31/12/2000
Đơn vị sử dụng tiền tệ trong ghi chép kế toán: Đồng Việt Nam
Hình thức sổ kế toán áp dụng: Nhật ký chung
I. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật và tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh
tại Công ty Thạch Bàn có ảnh hưởng đến công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm.
1. Tìm hiểu sự ra đời và phát triển của Công ty Thạch Bàn
Công ty Thạch Bàn là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng Công ty Thuỷ tinh và
gốm xây dựng được thành lập theo quyết định số 100A/BXD-TCLĐ ngày 24/3/1993 của Bộ
trưởng Bộ Xây dựng.
Công ty có trụ sở đóng tại: Xã Thạch Bàn - Gia Lâm - Hà Nội
Ngành nghề sản xuất kinh doanh chủ yếu: Sản xuất vật liệu xây dựng, vật liệu trang trí
nội thất, xây lắp và chuyển giao công nghệ các công trình vật liệu xây dựng (gạch gốm sứ),
xây dựng các công trình dân dụng, kinh doanh vật tư thiết bị phục vụ ngành xây dựng, sản
xuất vật liệu xây dựng.
Cũng như hầu hết các đơn vị kinh tế quốc doanh, Công ty đã có một quá trình phát
triển không ngừng để tồn tại và khẳng định vai trò của mình. Tiền thân của Công ty là "Công
trường gạch Thạch Bàn được thành lập từ 15/2/1959 thuộc Công ty Kiến trúc Hà Nội, sản
xuất hoàn toàn thủ công, sản lượng thấp từ 2-3 triệu viên sản phẩm /năm.
Sau hơn 40 năm hoạt động Công ty đã phát triển qua các giai đoạn:
1. Những ngày đầu thành lập: từ tháng 2/1959 đến đầu tháng 7/1964, trong nền kinh
tế tập trung, với công nghệ sản xuất gạch ngói đất sét nung là tạo hình thủ công, phơi cáng
che phên nứa, cung đốt lò đứng 3-4 vạn viên/mẻ và sản lượng toàn xí nghiệp chỉ đạt 3-4 sau
tăng lên 8-9 triệu viên/năm.
2. Trưởng thành qua thời kỳ chống Mỹ: từ tháng 8 năm 1968 đến cuối năm 1985
trong nền kinh tế tập trung, với công nghệ sản xuất gạch ngói đất sét nung là hệ máy gia
công chế biến tạo hình EG5, hệ máy có hút chân không Tiệp Khắc - sấy tunel kiểu cũ 10
hầm nung đốt lò đứng 8-10 vạn viên/ mẻ và sản lượng toàn xí nghiệp tăng từ 14 đến 23 triệu
viên/năm.

3. Vững vàng trước thử thách của nền kinh tế thị trường: từ đầu năm 1985 đến
tháng 3 năm 1991, trong nền kinh tế thị trường, với công nghệ sản xuất gạch ngói đất sét
nung là hệ máy gia công chế biến tạo hình EG5, hệ máy có hút chân không Bungaria-sấy
tunel kiểu cũ 10 hầm - nung đốt lò cải tiến 8-10 vạn viên/mẻ và sản lượng toàn xí nghiệp chỉ
đạt 14-16 triệu viên/năm.
4. Đầu tư và phát triển (từ tháng 4 năm 1991 đến tháng 12 năm 1994): Trong nền
kinh tế thị trường, với công nghệ sản xuất gạch ngói đất sét nung là hệ máy gia công chế
biến tạo hình có hút chân không Bungaria - sấy tunel kiểu mới - nung đốt lò tunel công suất
20-25 triệu viên/năm, Xí nghiệp đã tăng sản lượng từ 25 lên 30 triệu viên/năm. Tháng
4/1993, Bộ Xây dựng quyết định tách Xí nghiệp gạch ngói Thạch Bàn ra khỏi liên hiệp các
Xí nghiệp gạch ngói sành sứ thành đơn vị trực thuộc Bộ. Ngày 30 tháng 7 năm 1994, để phù
hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, Bộ trưởng Bộ Xây dựng
ra quyết định số 480/BXD-TCLĐ đổi tên Xí nghiệp Gạch ngói Thạch Bàn thành Công ty
Thạch Bàn. Trong thời gian này, Công ty đã bước đầu tham gia công tác xây lắp và chuyển
giao công nghệ sản xuất gạch ngói đất sét nung bằng lò tunel.
5. Vươn lên tầm cao mới (từ tháng 01 năm 1995 đến nay, đến tháng 9 năm 1999):
- Công ty đã phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế thị trường.
- Với công nghệ sản xuất gạch ngói đất sét nung là hệ máy gia công chế biến tạo hình
có hút chân không Bungaria- sấy tunel kiểu mới - nung đốt lò tunel công suất 20-25 triệu
viên/năm. Qua nhiều sáng kiến như lắp quạt đẩy lò nung tunel, pha than vào gạch mộc, làm
nguội nhanh, Công ty đã tăng sản lượng từ 30 lên 38 triệu viên/năm.
- Từ năm 1993 đến năm 1999, Công ty đã tham gia công tác xây lắp và chuyển giao
công nghệ sản xuất gạch ngói đất sét nung bằng lò tunel được 33 nhà máy, góp phần thay
đổi tận gốc nghề làm gạch ở Việt Nam.
- Tháng 8 năm 1995, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 4265/KTN phê duyệt
dự án đầu tư xây dựng Nhà máy gốm Granit nhân tạo của Công ty Thạch Bàn, với tổng số
vốn đầu tư hơn 100 tỷ đồng Việt Nam. Ngày 21 tháng 11 năm 1996, mẻ sản phẩm Granit
đầu tiên của Công ty ra lò. Đến nay, sau khi tách dây chuyền sản xuất gạch ngói đất sét nung
thành công ty cổ phần, doanh thu của công ty đã đạt trên 100 tỷ VNĐ, sản lượng
1.000.000m2/năm. Công ty đang triển khai lắp đặt dây chuyền 2 nhà máy Granit, đưa sản

lượng toàn công ty lên 2.000.000m2/năm vào cuối năm 2000. Hiện nay, sản phẩm granit của
công ty đã được tiêu thụ trên toàn quốc, với 3 chi nhánh ở 3 miền, hơn 800 đại lý và bước
đầu xuất khẩu sang Hàn Quốc, Ucraina, Lào.
Để phù hợp với các chính sách kinh tế xã hội và đứng vững trong nền kinh tế thị
trường những năm gần đây Công ty đã đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh:
- Sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng, vật liệu trang trí nội thất và vật tư thiết bị
phục vụ ngành xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng.
- Thi công xây lắp các công trình dân dụng và công nghiệp (gạch, ngói, gốm, sứ)
- Tư vấn xây dựng các công trình vật liệu xây dựng (gạch, gốm, sứ); tư vấn sử dụng
máy móc thiết bị sản xuất gồm sứ và tổ chức chuyển giao công nghệ sản xuất các sản phẩm
gốm sứ.
- Các ngành nghề kinh doanh khác theo quy định của pháp luật.
Là một trong những đơn vị hàng đầu của ngành sản xuất vật liệu xây dựng Việt Nam,
Công ty luôn chú trọng đầu tư nâng cao kỹ thuật công nghệ cho dây chuyền sản xuất gạch ốp
lát granit đạt chất lượng cao nhất, thoả mãn những nhu cầu tôn chỉ "chữ tín với khách hàng".
Để thực hiện tốt chỉ tiêu đó, Công ty quyết định xây dựng và áp dụng có hiệu quả cải
tiến liên tục "Hệ thống quản lý chất lượng" theo tiêu chuẩn ISO 9002.
Biểu 1: Một số chỉ tiêu về kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu Năm Doanh thu Lợi nhuận Tiền lương bq Nộp NS nhà
nước
1998 110.004 250 0,961531 2256
1999 118.116 479 1,031657 7289
2000 135.428,82 6834 1,524000 8881,20
2. Đặc điểm quy trình sản xuất sản phẩm gạch ốp lát granit
Nguyên vật liệu chính để sản xuất gạch granit là đất sét, Caolin, Fenspat, Đôlomit
được khai thác chủ yếu ở trong nước. Có một số loại vật liệu phụ công ty phải nhập từ nước
ngoài như bi nghiền, quả lô, đĩa vát cạnh, đá mài. Nguyên vật liệu xuất kho vật tư cho sản
xuất được đưa tới nhà máy bắt đầu quá trình sản xuất sản phẩm. Nguyên liệu sau khi gia
công được chuyển lên dây chuyền sản xuất qua hệ máy nghiền bi, bể hồ, sấy phun, lò nung.

Sản phẩm sau khi nung được nhập kho bán thành phẩm nhà máy. Căn cứ vào kế hoạch sản
xuất trong kỳ một số sản phẩm sau nung qua hệ máy lựa chọn một phần được đóng hộp (sản
phẩm thường), một phần được chuyển tới dây chuyền vát cạnh, mài bóng để tiếp tục gia
công thành sản phẩm vát cạnh, còn sản phẩm mài bóng ngoài vát cạnh còn được mài bóng
bề mặt nhờ đá mài, quả lô kim cương. Sản phẩm vát cạnh, bài bóng sau khi gia công cũng
được đóng hộp. Sản phẩm đóng hộp sau khi được bộ phận KCS kiểm tra chất lượng, đóng
dấu mới được nhập kho thành phẩm.
Sơ đồ quy trình công nghệ sản xuất gạch ốp lát granit nhân tạo
Sơ đồ 1
Nguyên vật
liệu
S ng rungà
Sấy phem Kết chứa
S ng rung(qua à
khử từ)
Nạp liệu Nghiền bi Bể chứa có khuấy
chậm
Si lô đơn m uà
Si lô đa m uà
Máy ép
Sấy đứng
Tráng men,
engobe
Trộn hai trục
Máy lựa chọn
Lò nung
Sấy tunel
Xe goòng
Sản phẩm đạt
tiêu chuẩnđóng

gói
Máy vát cạnh,
m i bóngà
Nhập kho
th nh phà ẩm
3) Đặc điểm về tổ chức bộ máy quản lý hoạt động sản xuất của Công ty Thạch Bàn
Công tác quản lý là khâu quan trọng để duy trì hoạt động của bất kỳ một doanh nghiệp
nào. Nó thật sự cần thiết và không thể thiếu được trong sự vận hành mọi hoạt động, đảm bảo
giám sát chặt chẽ tình hình sản xuất của doanh nghiệp. Bộ máy quản lý tại Công ty là một
đội ngũ cán bộ có năng lực giữ vai trò chủ chốt điều hành toàn bộ hoạt động của Công ty
một cách năng động và có hiệu quả.
Sau khi cổ phần Nhà máy gạch ngói Thạch Bàn, Công ty Thạch Bàn gồm có 4 nhà
máy (xí nghiệp) thành viên: Nhà máy gạch ốp lát granit: Xí nghiệp kinh doanh, xí nghiệp
xây lắp và tư vấn xây dựng; phân xưởng cơ điện. Mỗi đơn vị có nhiệm vụ khác nhau: Nhà
máy gạch ốp lát granit chuyên sản xuất gạch granit cao cấp, xí nghiệp kinh doanh chuyên
tiêu thụ sản phẩm gạch granit và kinh doanh các mặt hàng vật liệu xây dựng khác. Xí nghiệp
xây lắp chuyên thực hiện các công việc xây dựng trong và ngoài công ty, phân xưởng cơ
điện chuyên lắp đặt, sửa chữa thiết bị điện cho toàn Công ty, chủ yếu phục vụ cho sản xuất ở
nhà máy gạch granit.
Do đặc điểm Công ty Thạch Bàn gồm có 4 đơn vị thành viên nên việc tổ chức quản lý
sản xuất kinh doanh cũng mang nhiều nét đặc trưng so với các doanh nghiệp khác. Công ty
hiện nay có hơn 300 cán bộ công nhân viên trong đó nhà máy gạch granit chiếm khoảng 200
người, bậc thợ trung bình của công nhân sản xuất là 5, 6, 7. Đội ngũ quản lý tại công ty có
trên 90 người trong đó hơn 80% kỹ sư, cử nhân các ngành nghề.
Để đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả công ty tổ chức bộ máy gọn nhẹ theo chế
độ một thủ trưởng. Đứng đầu là giám đốc công ty - người có quyền hành cao nhất, chịu mọi
trách nhiệm với Nhà nước và tập thể cán bộ công nhân viên về mọi mặt trong lĩnh vực sản
xuất kinh doanh. Giúp việc cho giám đốc là 1 phó giám đốc, 1 trợ lý giám đốc cùng hệ thống
các phòng, ban khác. Nhà máy là bộ phận trực tiếp tham gia chế tạo sản phẩm.
Hiện nay, công ty có 4 phòng chức năng giúp việc giám đốc, mỗi phòng, ban chức

năng có nhiệm vụ cụ thể sau:
* Văn phòng công ty:
Chịu trách nhiệm các công việc sau:
+ Công tác hành chính
+ Công tác tổ chức lao động: Tuyển chọn, theo dõi, quản lý nhân sự toàn công ty đồng
thời giúp Giám đốc xét duyệt lương khối gián tiếp.
+ Công tác thư ký giám đốc, y tế và kiểm tra vệ sinh công nghiệp, bảo vệ tài sản và
giữ gìn an ninh trật tự trong công ty.
Ngoài ra văn phòng công ty còn chịu trách nhiệm quản lý quỹ tiền mặt
* Phòng tài kính - kế toán.
Có nhiệm vụ thu thập, xử lý và cung cấp các thông tin về tình hình tài chính và kết quả
kinh doanh của từng xí nghiệp, nhà máy cũng như của toàn công ty. Cụ thể:
- Lập kế hoạch tài chính đảm bảo cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Lập kế hoạch và biện pháp quản lý các nguồn vốn; kiểm tra, giám sát việc sử dụng
vốn đạt hiệu quả cao nhất trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
- Tổ chức hạch toán kế toán và phân tích các hoạt động kinh tế của công ty theo quy
định hiện hành của nhà nước.
- Kiểm tra giám sát việc tiêu thụ sản phẩm và hoạt động kinh doanh khác.
* Phòng kế hoạch - kỹ thuật - ban KCS
- Lập kế hoạch sản xuất kinh doanh tháng, quý, năm, kế hoạch phát triển của công ty
- Xây dựng các định mức vật tư, kỹ thuật, lao động, tiền lương đồng thời quản lý việc
thực hiện quy trình công nghệ, quy phạm kỹ thuật và các chỉ tiêu kỹ thuật trong sản xuất của
công ty. Ngoài ra phòng còn có nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ KH-Kế toán, cải tiến
kỹ thuật vào sản xuất. - Ban KCS: Quản lý chất lượng nguyên, nhiên vật liệu, thiết bị nhập
về công ty. Theo dõi, kiểm tra chất lượng bán thành phẩm, thành phẩm trước khi nhập kho.
* Phòng vật tư - vận tải có nhiệm vụ:
- Quản lý tài sản trong các kho của công ty đảm bảo khoa học chính xác và trung thực
- Khai thác và cung ứng toàn bộ vật tư, máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất kinh
doanh và xây lắp toàn công ty.
- Quản lý và chủ động khai thác có hiệu quả các phương tiện vận tải thuộc phòng quản

lý phục vụ hoạt động SXKD.
* Nhà máy gạch ốp lát granit
Là nơi trực tiếp tham gia chế tạo sản phẩm. Dưới nhà máy là các bộ phận, tổ sản xuất.
Phòng thí nghiệm là bộ phận trực tiếp thuộc Nhà máy, phục vụ sản xuất ở nhà máy.
Sơ đồ bộ máy tổ chức quản lý tại Công ty Thạch Bàn
Sơ đồ 2
Giám đốc
Phó giám đốc
Phòng thí nghiệm
XN xăy lắp Nh máy gà ạch ốp
lát Granít
Văn
phòng
Phòng
T i à
chính -
Kế toán
Phòng
kế
hoạch -
kỹ
thuật
Phòng
vật tư
vận tải
PX cơ điện
XN kinh doanh
Tổ gia
công
nguên

liệu
Tổ tạo
hình
Tổ lò
nung
Tổ m ià
Tổ cơ
điện
BP phục vụ:
- Nghiệp vụ
- Quản lý
-Bốc xếp…
Quan hệ chỉ
đạo
Quan hệ phối hợp
4) Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán, công tác kế toán tại Công ty Thạch Bàn
Do tính chất và đặc điểm sản xuất kinh doanh, tiêu thụ của một doanh nghiệp công
nghiệp nên bộ máy kế toán của công ty cũng phải tổ chức cho phù hợp với cơ chế kinh
doanh của mình.
Khi Nhà nước ban hành chế độ kế toán mới, Phòng Tài chính - kế toán công ty đã sớm
áp dụng và thực hiện tốt. Trong điều kiện hiện tại phải quản lý hoạt động của cả 4 đơn vị
thành viên, nghiệp vụ phát sinh nhiều và phức tạp nhưng phòng vẫn giữ được bố trí gọn nhẹ,
hợp lý, công việc được phân công cụ thể rõ ràng cho từng kế toán viên. Công ty cũng đã đưa
chương trình kế toán máy vào áp dụng nhằm giảm bớt khối lượng công việc tính toán, tiết
kiệm nhân lực trong phòng.
Với đội ngũ kế toán có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, nhiệt tình và có trách
nhiệm với công việc, phòng đã thực hiện công tác kế toán đáp ứng được yêu cầu ngày càng
cao của công ty. Công tác kế toán được tổ chức khá chặt chẽ và khoa học. Công ty áp dụng
tổ chức kế toán theo hình thức tập trung, tại các xí nghiệp, nhà máy không tổ chức bộ máy
kế toán riêng mà bố trí các nhân viên kinh tế chủ yếu làm nhiệm vụ thống kê. Mọi công việc

phân loại, tổng hợp được thực hiện tại phòng kế toán Công ty, kế toán căn cứ vào đó để xử
lý chứng từ và nhập vào máy tính theo yêu cầu của công tác kế toán.
Tại Công ty Thạch Bàn, đứng đầu bộ máy kế toán là kế toán trưởng trực tiếp quản lý
các nhân viên kế toán, chịu trách nhiệm trước ban lãnh đạo Công ty về công tác thu thập, xử
lý và cung cấp thong tin kinh tế. Dưới kế toán trưởng là các nhân viên kế toán khác. Phòng
gồm 5 người, mỗi người đảm đương một phần hành kế toán
Sơ đồ bộ máy kế toán tại Công ty Thạch Bàn
Sơ đồ 3
Kế toán trưởng
Kế toán
tiêu thụ
v à
ngân
h ng à
Kế toán
vật tư
Kế toán
tổng hợp
TSCĐ,
TL, chi
phí, giá
th nhà
Kế toán
tiêu thụ
th nh à
phẩm
Nhân viên kinh
tế nh máy à
gạch Granít
Kế toán

h ng hoá à
Nhân viên kinh
tế PX cơ điện
Nhân viên kinh
tế XN xây lắp
Nhân viên kinh
tế XN kinh
doanh
Kế toán miền
bắc
Kế toán miền
nam
Kế toán miền
trung

×