Tải bản đầy đủ (.docx) (157 trang)

Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới theo quy định của pháp luật việt nam và các điều ước quốc tế liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.3 KB, 157 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỨA THỊ HỒNG

BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN
HIỆU HÀNG HOÁ TẠI BIÊN GIỚI THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ CÁC ĐIỀU ƯỚC
QUỐC TẾ LIÊN QUAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỨA THỊ HỒNG

BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN
HIỆU HÀNG HOÁ TẠI BIÊN GIỚI THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ CÁC ĐIỀU ƯỚC
QUỐC TẾ LIÊN QUAN

Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. GVC NGUYỄN LAN NGUYÊN


Hà Nội – 2012


MỤC LỤ

MỞ ĐẦU
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ TẠI BIÊN GIỚI
1.1

Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa

1.2
1.3

Bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn h
Đặc điểm của việc bảo vệ quyền SH
hàng hóa tại biên giới
Vai trò của việc bảo vệ quyền SHTT
hóa tại biên giới
Cơ sở pháp lý của việc bảo vệ quyề
hàng hóa tại biên giới

1.4
1.5
1.5.1

Điều ước quốc tế

1.5.2


Pháp luật quốc gia

Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ
TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ TẠI BIÊN GIỚI THEO
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM
2.1

Pháp luật quốc tế

2.1.1

Công ước Paris về bảo hộ quyền SH

2.1.2

Hiệp định TRIPs

2.1.3

Luật mẫu về bảo vệ quyền SHTT củ

2.1.4

Các điều ước quốc tế trong khuôn k

2.1.4.1

Hiệp định khung ASEAN về hợp tá


2.1.4.2

Kế hoạch cộng đồng kinh tế ASEAN

2.1.4.3

Hiệp định đối tác kinh tế ASEAN –

2.1.4.4

Hiệp định thương mại tự do ASEAN

2.1.5

Các điều ước quốc tế song phương

2.1.5.1

Hiệp định thương mại Việt – Mỹ

2.1.5.2

Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam

2.1.5.3

Hiệp định Việt Nam – Thụy Sỹ về b


trong lĩnh vực SHTT

2.2

Pháp luật một số quốc gia điển hìn

2.2.1

Pháp luật của Mỹ

2.2.2

Pháp luật của Nhật

2.2.3

Pháp luật của Hàn Quốc

2.2.4

Pháp luật của Trung Quốc

2.2.5.

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

2.3.5.1

Về quy định pháp luật

2.3.5.2


Về thực tiễn áp dụng

2.3.

Pháp luật Việt Nam

2.3.1

Phạm vi kiểm soát biên giới

2.3.2
2.3.3

Thẩm quyền của cơ quan Hải quan
Xử lý các hành vi xâm phạm quyề
hàng hóa tại biên giới
2.3.4
Các quy trình nghiệp vụ của Hải q
đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên
2.3.4.1
Quy trình tiếp nhận, xử lý đơn yêu
yêu cầu tạm dừng làm thủ tục Hải
2.3.4.2
Quy trình nghiệp vụ bảo vệ quyền
hoá tại biên giới của cơ quan Hải q
Chương 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ
TẠI BIÊN GIỚI VIỆT NAM
3.1


Thực trạng áp dụng pháp luật tại V

3.1.1
3.1.2

Xây dựng pháp luật
Đăng ký kiểm tra, giám sát hàng h
SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa
Cơ quan Hải quan phối hợp với cá
thể quyền, hợp tác quốc tế về bảo v
hiệu hàng hoá tại biên giới
Thực trạng xâm phạm quyền SHTT
tại biên giới và thực tiễn đấu tranh

3.1.3

3.1.4
3.2.

Những tồn tại và nguyên nhân


3.2.1.
3.2.2.
3.2.3.
3.2.4.
3.2.5.
3.3.
3.4.


Các quy định pháp luật còn nhiều bất c
Kết quả bắt giữ và xử lý vi phạm chưa
lực và năng lực thực tế của cơ quan Hả
Cơ chế phối hợp giữa cơ quan Hải qua
quan chưa thường xuyên và sâu rộng, h
Công tác phối hợp giữa cơ quan Hải qu
SHTT còn hạn chế, chưa thật sự thiết t
Nhận thức của xã hội về công tác bảo v
nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới còn hạ
Dự báo tình hình xâm phạm quyền SH
hàng hoá tại biên giới Việt Nam
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu q
SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại b

3.4.1.

Hoàn thiện khung pháp lý

3.4.2.
3.4.3.

Nâng cao năng lực thực thi của cơ quan
Ứng dụng công nghệ thông tin trong ho
Hải quan về SHTT
Củng cố tổ chức bộ máy chuyên trách
quan Hải quan
Tăng cường phối hợp với các cơ quan
quan thực thi
Hợp tác với chủ thể quyền trong công t
đối với nhãn hiệu hàng hoá


3.4.4.
3.4.5.
3.4.6.
3.4.7.
3.4.8.

Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nhận
Tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ
hiệu hàng hóa tại biên giới quốc gia

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Bộ máy bảo vệ quyền SHTT của Hải quan Việt Nam
Phụ lục 2: Số lượng đơn đăng ký giám sát nhãn hiệu tại cơ quan Hải
quan (giai đoạn 2007 – 2011)
Phụ lục 3: Số liệu bắt giữ vi phạm quyền SHTT về nhãn hiệu của cơ
quan Hải quan (giai đoạn 2007 – 2011)


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á
RMB: Nhân dân tệ
SHCN: Sở hữu công nghiệp
SHTT: Sở hữu trí tuệ
TRIPs: Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền Sở hữu
trí tuệ.
USD: Đô la Mỹ

WCO: Tổ chức Hải quan thế giới
WTO: Tổ chức Thương mại thế giới
XK, NK: Xuất khẩu, Nhập khẩu
XNK: Xuất nhập khẩu


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, SHTT là một công cụ đắc lực để phát
triển kinh tế - xã hội của các quốc gia. Thực tế cho thấy, nhiều công ty, doanh
nghiệp đã rất thành công nhờ khai thác có hiệu quả quyền SHTT. Xu thế này đã
khẳng định tài sản trí tuệ và quyền sở hữu tài sản trí tuệ ngày càng trở nên quan
trọng. Thực tế này đã đặt ra yêu cầu phải gia tăng mối quan tâm tới vấn đề SHTT
cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn cho mỗi quốc gia nếu muốn hội nhập
thành công.
Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế (song phương và đa phương) về
bảo vệ quyền SHTT. Hiện nay, chúng ta đã là thành viên của các Điều ước quốc tế
quan trọng như Công ước Paris về bảo hộ SHCN, Hiệp ước hợp tác sáng chế
(PCT), Công ước Benre về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật… đặc biệt
là Hiệp định TRIPs khi nước ta gia nhập WTO năm 2005 là những cơ sở pháp lý
quan trọng để Việt Nam thực hiện các nghĩa vụ của mình trong thương mại quốc
tế.
Là một trong những đối tượng quan trọng của quyền SHTT, nhãn hiệu hàng
hoá đóng một vai trò rất quan trọng đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
XK, NK của các doanh nghiệp. Thông qua nhãn hiệu hàng hoá, doanh nghiệp có
thể được người tiêu dùng biết đến và sử dụng các sản phẩm do mình sản xuất ra,
từ đó đáp ứng yêu cầu mở rộng thị trường hàng hoá ra khu vực và thế giới.
Trong hoạt động XNK hàng hoá, cơ quan Hải quan đóng một vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu tại biên giới. Với chức
năng là cơ quan “gác cửa nền kinh tế đất nước”, thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,

giám sát, kiểm soát về Hải quan đối với hàng hoá XK, NK, phương tiện xuất
cảnh, nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam. Trên phương diện khách quan và chủ quan,
Hải quan Việt Nam là cơ quan có đủ năng lực và điều kiện nhất để thực thi

1


có hiệu quả công tác bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới.
Tuy nhiên thực tế hiện nay, cơ quan Hải quan các cấp còn gặp nhiều vướng mắc
cần làm rõ cả về lý luận và thực tiễn.
Bảo vệ quyền SHTT tại biên giới do cơ quan Hải quan thực hiện đang là vấn
đề mới được triển khai thực hiện. Do đó, cần phải nghiên cứu một cách chuyên
sâu về lý luận khoa học đối với các vấn đề liên quan, giúp các nhà hoạch định
chính sách cũng như các nhà làm luật và các cơ quan thực thi có cơ sở triển khai
thực hiện có hiệu quả trên thực tế.
Việc xâm phạm các đối tượng quyền SHTT diễn ra phổ biến và nhiều nhất là
nhãn hiệu hàng hoá ở tất các các khâu trong dây chuyền cung ứng thương mại. Do
vậy, việc bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá đang là một vấn đề cấp
bách được cộng đồng các doanh nghiệp cũng như các cơ quan thực thi pháp luật
đặc biệt quan tâm. Đặc biệt là khi lưu lượng hàng hoá XNK ngày càng gia tăng,
đòi hỏi cơ quan Hải quan phải nỗ lực thực hiện đồng bộ các biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm.
Cơ quan Hải quan là cơ quan chủ quản được giao nhiệm vụ thực thi quyền
SHTT tại biên giới bước đầu đã đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, kết
quả đạt được còn hạn chế, thực tiễn áp dụng còn nhiều vướng mắc chưa đáp ứng
được yêu cầu đặt ra. Do vậy, cần phải nghiên cứu, đánh giá một cách tổng thể thực
trạng bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới để có giải pháp
khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả công tác công tác này trên thực tế.
Xuất phát từ những vướng mắc, bất cập cả về mặt lý luận và thực tiễn nêu
trên, tác giả đã chọn đề tài “Bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại

biên giới theo quy định của pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế liên
quan” làm đề tài nghiên cứu luận văn cao học của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua, mặc dù đã có nhưng rất ít bài viết, đề tài nghiên cứu về
các vấn đề liên quan đến bảo hộ và thực thi quyền SHCN trong lĩnh vực Hải quan
như đề tài “Hoàn thiện các giải pháp thực thi SHCN đối với hàng hoá XNK
ở Việt Nam của Vũ Ngọc Anh (2001), đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành Hải
quan năm 2001. Tuy nhiên, đề tài trên nghiên cứu theo quy định của Luật Hải
quan năm 2001 và các văn bản dưới luật về SHTT trước đây đã hết hiệu lực thi
hành. Nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn đề cập tại đề tài đã không còn phù hợp
với tình hình thực tiễn hiện nay. Một số bài viết liên quan được đăng tải rải rác
trên báo, tạp chí. Nhưng đối tượng nghiên cứu của đề tài, các bài viết trên là toàn
bộ các đối tượng của quyền SHCN, không đi sâu nghiên cứu một đối tượng quyền
SHTT nào cụ thể.
Mặc dù, hàng hoá XNK có vi phạm quyền SHTT chủ yếu là vi phạm đối với
nhãn hiệu. Nhưng hiện nay chưa có một công trình khoa học nào đi sâu nghiên
cứu một cách tổng thể vấn đề bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại
biên giới quốc gia, từ đó đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công
tác phòng ngừa, đấu tranh và xử lý các vi phạm về SHTT đối với nhãn hiệu hàng
hoá tại biên giới. Vì vậy, đề tài ““Bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá
tại biên giới theo quy định của pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế liên
quan” là vấn đề tương đối mới mẻ và có nhiều khía cạnh để khai thác.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu


Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ các quy định của pháp
luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng
hoá tại biên giới; pháp luật và kinh nghiệm thực thi pháp luật của một số quốc gia
điển hình trên thế giới để từ đó rút ra một số bài học cho Việt Nam.

3


Đồng thời, Luận văn còn nghiên cứu sâu thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam
thông qua hoạt động thực tiễn của cơ quan Hải quan để làm sáng tỏ các quy định
pháp luật Việt Nam.
Thông qua việc phân tích, luận giải và đánh giá về pháp luật và thực tiễn áp
dụng của Việt Nam, luận văn đã chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của những
hạn chế trong việc áp dụng vào thực tế các quy định pháp luật Việt Nam. Từ đó
đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của Luận văn là vấn đề bảo vệ quyền SHTT
đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới quốc gia theo quy định của pháp luật Việt
Nam và pháp luật quốc tế, kinh nghiệm của một số quốc gia điển hình trên thế
giới. Hoạt động thực tiễn của Hải quan Việt Nam về bảo vệ quyền SHTT đối với
nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới để có đánh giá một cách tổng thể, toàn diện về
vấn đề này.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các điều ước quốc tế điều chỉnh trực tiếp vấn
đề thực thi quyền SHTT tại biên giới, các tài liệu nghiên cứu, tài liệu nghiệp vụ
của WTO, WCO và các quy định pháp luật của Việt Nam, pháp luật và kinh
nghiệm của một số quốc gia điển hình trên thế giới liên quan đến việc bảo vệ
quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới của cơ quan Hải quan.

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1.

Nguồn tư liệu

Để hoàn thành luận văn, tác giả đã sưu tầm và sử dụng các thông tin từ nhiều
nguồn khác nhau tại kho dữ liệu của Tổng cục Hải quan, Cục Điều tra

4


chống buôn lậu - Tổng cục Hải quan, Cục SHTT, các bài báo, tạp chí liên quan và
các tài liệu thu thập qua mạng Internet.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về phát
triển kinh tế, cải cách hành chính và hiện đại hoá ngành Hải quan. Tác giả đã dựa
trên các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Các phương pháp chủ yếu được sử dụng để nghiên cứu là: phương pháp phân
tích tổng hợp, phương pháp lịch sử, kết hợp với các phương pháp đối chiếu so
sánh, thống kê, quy nạp để rút ra bản chất của các sự vật, hiện tượng thuộc đối
tượng nghiên cứu.
5. Đóng góp của luận văn
Về khoa học, Luận văn đã đi sâu phân tích, đánh giá các quy định của pháp
luật quốc tế và pháp luật Việt Nam liên quan đến công tác bảo vệ quyền SHTT đối
với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới, việc tuân thủ các điều ước quốc tế của pháp
luật Việt Nam. Thực trạng tình hình của Việt Nam về công tác này nhằm làm rõ cơ
sở khoa học, thực tiễn của việc hoàn thiện các quy định pháp lý và nâng cao năng
lực của Hải quan Việt Nam về bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu tại biên giới.
Về thực tiễn, việc “bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên

giới theo quy định của pháp luật Việt Nam và các Điều ước quốc tế liên quan” là
công trình khoa học đầu tiên trong lĩnh vực này. Luận văn nghiên cứu một cách
toàn diện về các khía cạnh pháp lý của công tác bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn
hiệu hàng hoá tại biên giới. Trên cơ sở kinh nghiệm thực thi pháp luật của một số
quốc gia điển hình trên thế giới, các văn bản pháp luật quốc tế và pháp luật quốc
gia liên quan cũng như thực tiễn công tác này tại Việt Nam, đề tài nghiên cứu đã
chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật và thực tế thực thi

5


pháp luật của Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục nhằm hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam, nâng cao hiệu quả công tác này của Hải quan Việt
Nam trên thực tế.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục kèm
theo, Luận văn bao gồm 03 chương với cấu trúc như sau:
Chương 1: Lý luận chung về bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng
hoá tại biên giới.
Chương 2: Các quy định về bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa
tại biên giới theo pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền SHTT đối với
nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới Việt Nam.

6


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỐI VỚI
NHÃN HIỆU HÀNG HOÁ TẠI BIÊN GIỚI

1.1. Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa
Nhãn hiệu hàng hoá đã có từ thời cổ đại, thậm chí từ lúc con người còn tự
cung cấp những gì họ cần cho bản thân nhiều hơn là mua chúng từ những người
thợ thủ công. Thời đó, có những thương gia sáng tạo đã biết bán hàng hoá ra bên
ngoài vùng sinh sống của họ và thậm chí có khi tới những vùng rất xa xôi. Cách
đây 3000 năm, những người thợ thủ công Ấn Độ đã từng chạm khắc chữ ký của
mình trên các tác phẩm nghệ thuật trước khi gửi hàng tới Iran. Các nhà sản xuất
Trung Quốc đã bán hàng hoá mang nhãn hiệu của mình tại Địa Trung Hải từ 2000
năm trước và cùng thời gian đó hàng ngàn nhãn hiệu đồ gốm La Mã khác nhau đã
được sử dụng, kể cả nhãn hiệu FORTIS mà sau này đã trở nên nổi tiếng đến nỗi bị
sao chép và làm giả. Nhờ việc kinh doanh phát đạt thời Trung cổ mà việc sử dụng
các dấu hiệu để phân biệt hàng hoá của các thương gia và các nhà sản xuất đã khá
phát triển. Tuy vậy, tầm quan trọng về mặt kinh tế của chúng vẫn còn hạn chế. [29,
tr.65]
Công nghiệp hoá và sự phát triển của hệ thống kinh tế thị trường cho phép các
nhà sản xuất và các thương gia cạnh tranh đưa đến người tiêu dùng sự lựa chọn đa
dạng cho hàng hoá cùng chủng loại. Thường nếu không có sự khác biệt rõ ràng
đối với người tiêu dùng, chúng thường chỉ khác nhau về chất lượng, giá cả và các
đặc tính khác. Rõ ràng người tiêu dùng cần được hướng dẫn, giúp họ suy xét các
lựa chọn và đi đến quyết định lựa chọn cho riêng mình trong số các hàng hoá cạnh
tranh. Do vậy, hàng hoá cần phải được đặt tên. Phương tiện để đặt tên hàng hoá
trên thị trường chính là nhãn hiệu hàng hoá.[29, tr.66]
Bằng việc giúp người tiêu dùng có quyết định lựa chọn giữa những hàng hoá
đa dạng được chào bán trên thị trường, nhãn hiệu hàng hoá khuyến khích chủ sở

7


hữu các nhãn hiệu duy trì và nâng cao chất lượng các sản phẩm bán ra dưới nhãn
hiệu đó, để đáp ứng sự mong đợi của người tiêu dùng và không ngừng nâng cao

uy tín của mình trên thị thường đối với các sản phẩm do mình sản xuất ra. Bởi
vậy, nhãn hiệu hàng hoá “thưởng công” cho những người sản xuất hàng hoá chất
lượng cao có nguồn thu nhập một cách ổn định và kết cục là nhãn hiệu hàng hoá
kích thích và thúc đẩy sự phát triển kinh tế. [29, tr.66]
Theo cách tiếp cận được lựa chọn tại Mục 1(1) của Luật Mẫu WIPO về nhãn
hiệu thì một nhãn hiệu hàng hoá là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt
hàng hoá của doanh nghiệp này với hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh [10].
Cho đến nay đã có khá nhiều các điều ước quốc tế song phương và đa phương
điều chỉnh các vấn đề liên quan đến nhãn hiệu. Trong số này, có thể kể đến một số
điều ước quốc tế có nhiều thành viên tham gia như Công ước Paris 1883 về bảo hộ
SHCN, Hệ thống đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa Madrid, Hiệp định TRIPs.
Tuy nhiên Công ước Paris, Hệ thống Madrid chưa đưa ra được khái niệm về nhãn
hiệu. Riêng Hiệp định TRIPs đã có quy định về khái niệm nhãn hiệu như sau:
“Bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt
hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các
doanh nghiệp khác đều có thể làm nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ,
kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình học và tổ hợp các mầu sắc
cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó phải có khả năng được đăng ký làm
nhãn hiệu” [35, 15].
Châu Âu bao gồm nhiều các quốc gia khác nhau nên có sự khác nhau trong
luật về nhãn hiệu của các quốc gia thành viên. Do sự khác nhau này và sự ảnh
hưởng của nó đến thị trường chung Châu Âu nên cần thiết phải có sự điều chỉnh
hài hoà ở cấp độ cộng đồng. Định nghĩa về nhãn hiệu được quy định ở Điều 2 Chỉ
thị 89/104 và Điều 4 Quy định 40/94 của Cộng đồng chung Châu Âu (EC) như
sau:

8


“Một nhãn hiệu cộng đồng có thể gồm bất kỳ dấu hiệu nào được trình bày

một cách rõ ràng và chi tiết (represented graphically), đặc biệt là các từ, bao gồm
tên riêng, các phác hoạ hình ảnh, chữ viết, chữ số, hình dáng của hàng hoá hoặc
của bao bì sản phẩm, với điều kiện là những dấu hiệu đó phải có khả năng phân
biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của chủ thể kinh doanh này với hàng hoá, dịch vụ của
các chủ thể kinh doanh khác”.
Luật nhãn hiệu Hoa Kỳ được điều chỉnh bằng đạo luật Lanham. Khác với
Việt Nam và Châu Âu, Lanham Act định nghĩa riêng biệt hai loại nhãn hiệu: nhãn
hiệu hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ. Nhãn hiệu hàng hoá được giải thích như sau:
“Thuật ngữ nhãn hiệu hàng hóa bao gồm bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng hay
hình vẽ hoặc sự kết hợp giữa chúng mà:
(1) được sử dụng bởi một người, hoặc
(2)

được một người có ý định chân thành là sử dụng nó trong thương mại và

xin đăng ký theo quy định tại luật này để xác định và phân biệt hàng hoá của
người đó, bao gồm cả các hàng hóa đặc chủng, với hàng hoá được sản xuất hoặc
được bán bởi những người khác và chỉ ra nguồn gốc của hàng hoá thậm chí cả
khi không xác định được nguồn gốc đó.”[57].
Việt Nam là một thành viên của nhiều điều ước quốc tế về nhãn hiệu bao
gồm Công ước Pari về SHCN và Hệ thống đăng ký nhãn hiệu quốc tế (Thoả ước
Madrid và Nghị định thư Madrid), Hiệp định TRIPs. Trước khi có Luật SHTT,
quyền SHTT ở Việt Nam được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau
như Bộ luật Dân sự, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn, thậm chí bởi rất nhiều
các quyết định của Cục SHTT. Luật SHTT năm 2005 là một đạo luật chuyên
ngành đầu tiên của Việt Nam về SHTT trên cơ sở pháp điển hoá các quy định của
pháp luật về SHTT đã được ban hành trước đó. Luật SHTT 2005 của Việt Nam
không có điều khoản cụ thể nào về định nghĩa nhãn hiệu mà khái niệm

9



nhãn hiệu được quy định trong phần giải thích từ ngữ. Theo đó, “nhãn hiệu là dấu
hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”
[13, 4]. Tuy nhiên, không phải bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt cũng có
thể trở thành nhãn hiệu vì điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ được
quy định tại Luật SHTT như sau:
“Nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1- Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh,
kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc
nhiều mầu sắc;
2- Có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với
hàng hoá, dịch vụ của chủ thể khác.”[13, 72].
Nếu theo quy định tại Điều 4 Luật SHTT 2005, đã được sửa đổi bổ sung năm
2009 thì được hiểu rằng dấu hiệu chỉ cần đáp ứng chức năng phân biệt là đủ để
được đăng ký nhãn hiệu, trong khi Luật SHTT Việt Nam chỉ chấp nhận các dấu
hiệu nhìn thấy được.
Như vậy, một nhãn hiệu có thể được bảo hộ nếu đáp ứng được hai điều kiện.
Thứ nhất, dấu hiệu phải “nhìn thấy được”. Quy định này hẹp hơn quy định của
TRIPs “bất kỳ dấu hiệu nào”. Điều này có nghĩa rằng, các dấu hiệu như âm thanh,
mùi vị… không thể được đăng ký là nhãn hiệu theo quy định của pháp luật SHTT
Việt Nam. Thứ hai, “khả năng phân biệt” là điều kiện bắt buộc của nhãn hiệu. Đây
cũng là chức năng chính của nhãn hiệu. Đặc điểm này là đặc điểm chung của nhãn
hiệu và do đó, nó giống với các điều ước quốc tế cũng như luật về nhãn hiệu của
các nước trên thế giới.
Nói tóm lại, “khả năng phân biệt” luôn luôn là đặc điểm cơ bản của nhãn
hiệu. Cả luật Việt Nam, luật Châu Âu và luật Hoa Kỳ đều không có điều khoản
định nghĩa nhãn hiệu. Khái niệm nhãn hiệu được hiểu qua các điều khoản khác,
chẳng hạn như quy định ở phần giải thích thuật ngữ (Việt Nam, Hoa Kỳ), hay


10


trong điều khoản quy định về “Các dấu hiệu là nhãn hiệu” (Châu Âu). Các điều
khoản này thường liệt kê các dấu hiệu thông thường có khả năng đăng ký nhãn
hiệu. Mặc dù các quy định còn có những điểm khác nhau, song chúng đều giống
nhau ở cách tiếp cận khái niệm theo chức năng phân biệt.
Nhãn hiệu có nhiều chức năng, trong đó chức năng cơ bản nhất là tính phân
biệt. Pháp luật của cả Việt Nam, Châu Âu và Hoa Kỳ phù hợp với pháp luật quốc
tế đều dựa trên chức năng tính phân biệt để đưa ra khái niệm nhãn hiệu. Luật
SHTT Việt Nam không có điều khoản riêng về khái niệm nhãn hiệu, nhưng qua
các điều khoản cụ thể có thể hiểu nhãn hiệu là dấu hiệu có thể nhìn thấy được và
có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa,
dịch vụ của chủ thể khác. Luật Châu Âu và luật Hoa Kỳ quy định mở hơn đối với
các dấu hiệu có thể làm nhãn hiệu. Đó là bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân
biệt chứ không chỉ bó hẹp ở các dấu hiệu nhìn thấy được. Do đó, các dấu hiệu
không thông dụng (unusual) như mùi vị, âm thanh… cũng có khả năng được đăng
ký là nhãn hiệu.
Do đó, thay vì việc giải thích từ ngữ, Luật SHTT Việt Nam nên xây dựng
khái niệm nhãn hiệu để tránh các cách hiểu không thống nhất. Nếu theo quy định
tại Điều 4 Luật SHTT (giải thích từ ngữ) thì sẽ bị hiểu rằng dấu hiệu chỉ cần đáp
ứng chức năng phân biệt là đủ để được đăng ký nhãn hiệu, trong khi Luật SHTT
Việt Nam chỉ chấp nhận các dấu hiệu nhìn thấy được.
Hơn nữa, theo tác giả, Luật SHTT không nên chỉ quy định dấu hiệu nhìn
thấy được tức là qua thị giác mà nên quy định các dấu hiệu có khả năng phân biệt
được qua cả các giác quan khác như thính giác. Do đó, có thể xây dựng một khái
niệm về nhãn hiệu trong Luật SHTT Việt Nam như sau :
Bất kỳ dấu hiệu nào có khả năng phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ
chức, cá nhân khác nhau cho cùng một loại sản phẩm hàng hoá hoặc hàng hoá
trên cùng thị trường liên quan.


11


1.2. Bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới
Hiện nay, trên thực tế còn một số cơ quan chức năng và các tổ chức, cá nhân
liên quan mặc dù đã và đang tham gia vào các hoạt động bảo hộ quyền SHTT
nhưng vẫn chưa phân biệt được thế nào là bảo vệ quyền SHTT và thế nào là bảo
hộ quyền SHTT. Ở đây chúng ta cần phân biệt giữa ba khái niệm: bảo vệ quyền
SHTT, bảo hộ quyền SHTT và thực thi quyền SHTT.
Bảo hộ quyền SHTT bao gồm ba nội dung: ban hành các quy định pháp luật
về SHTT (xây dựng pháp luật), cấp văn bằng bảo hộ hoặc giấy chứng nhận đăng
ký cho các chủ thể khác nhau khi đáp ứng các yêu cầu theo quy định (xác lập
quyền) và thực hiện các phương thức, biện pháp khác nhau để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của các chủ thể quyền (bảo vệ quyền).
Thực thi quyền SHTT là việc triển khai thực hiện các quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể quyền SHTT trên thực tế thông qua các hoạt động bảo hộ
quyền.
Muốn nhận thức đúng và đầy đủ về hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với
nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới, trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là quyền
SHTT? Cho đến hiện nay, chưa có Điều ước quốc tế nào có định nghĩa cụ thể thế
nào là quyền SHTT.
Theo Luật SHTT của Việt Nam, quyền SHTT là quyền của tổ chức, cá nhân
đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác
giả, quyền SHCN và quyền đối với giống cây trồng. [13]
Trong đó, quyền SHCN là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu
dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương
mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền
chống cạnh tranh không làm mạnh.
Với các định nghĩa trên, nhãn hiệu hàng hoá là một trong những đối tượng

của quyền SHTT nói chung và một trong những đối tượng của quyền SHCN nói

12


riêng. Như vậy, quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá là quyền của tổ chức, cá
nhân đối với nhãn hiệu do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.
Đối với tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu toàn diện đối với tài sản trí tuệ của
mình "nhãn hiệu hàng hoá", vừa là người sáng tạo ra đồng thời là người sở hữu nó
thì tổ chức, cá nhân đó có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối
với tài sản của mình. Theo quy định của Luật SHTT Việt Nam, chủ sở hữu nhãn
hiệu hàng hoá có các quyền tài sản sau đây:
-

Sử dụng, cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu của mình như: Gắn nhãn

hiệu được bảo hộ lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện kinh doanh, phương
tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh; lưu thông, chào bán,
quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hoá mang nhãn hiệu được bảo hộ; NK
hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.
-

Ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu của mình, trừ các trường hợp sau

đây:
+

Việc lưu thông, NK, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra thị

trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp, trừ sản phẩm không phải

do chính chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu
đưa ra thị trường nước ngoài.
+

Sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ nếu

nhãn hiệu đó đã đạt được sử bảo hộ một cách trung thực trước ngày nộp đơn đăng
ký chỉ dẫn địa lý đó.
Theo quy định chung, nội dung của quyền SHTT bao gồm quyền nhân thân
và quyền tài sản đối với các đối tượng quyền SHTT. Tuy nhiên, đối với nhãn hiệu
hàng hoá Luật SHTT không có quy định về quyền nhân thân đối với tác giả tạo ra
nhãn hiệu mà không phải là chủ sở hữu nhãn hiệu, người tạo ra nhãn hiệu trong
trường hợp này là người được chủ sở hữu nhãn hiệu thuê để thiết kế, pháp luật
không quy định cho họ có quyền nhân thân nào đối với nhãn hiệu do mình

13


tạo ra, họ chỉ được hưởng quyền tài sản là nhận tiền thù lao thiết kế từ người chủ
sở hữu nhãn hiệu.
Về căn cứ phát sinh, xác lập quyền SHTT đối với nhãn hiệu, quyền SHTT
đối với nhãn hiệu được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký theo quy định của pháp luật
quốc gia nơi đăng ký, được pháp luật công nhận và bảo vệ khi nhãn hiệu đó được
cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ, đối với nhãn hiệu đã được đăng ký
quốc tế chỉ được bảo hộ tại quốc gia đó khi được cơ quan có thẩm quyền tại quốc
gia đó công nhận.
Quyền SHTT được bảo vệ bằng các biện pháp hành chính, dân sự và hình sự.
Trong đó, chủ thể quyền có thể tự bảo vệ hoặc bằng hoạt động của cơ quan nhà
nước thông qua việc khởi kiện tại Toà án, hoặc gửi đơn yêu cầu xử lý xâm phạm

quyền SHTT tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như: Thanh tra chuyên
ngành, Cảnh sát kinh tế, Hải quan hoặc Quản lý thị trường. Hay nói một cách
khác, bảo vệ quyền SHTT là việc chủ thể quyền SHTT hoặc cơ quan có thẩm
quyền sử dụng các biện pháp cần thiết mà pháp luật cho phép để bảo đảm quyền
SHTT được thực thi trên thực tế.
Bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá được hiểu là Nhà nước và
chủ thể quyền SHTT của nhãn hiệu hàng hoá sử dụng các phương pháp pháp lý để
bảo vệ quyền sở hữu nhãn hiệu của mình, chống lại mọi sự xâm phạm để giữ
nguyên vẹn quyền sở hữu đối với nhãn hiệu đang được nhà nước bảo hộ.
Để hiểu rõ hơn thế nào là bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa tại
biên giới, chúng ta cần tìm hiểu khái niệm “biên giới” ở đây được hiểu như thế
nào?
Biên giới ở đây không phải là biên giới quốc gia theo quy định tại Điều 1
Luật Biên giới quốc gia năm 2003 “Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là đường và mặt thẳng đứng theo đường đó để xác định giới

14


hạn lãnh thổ đất liền, các đảo, các quần đảo trong đó có quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa, vùng biển, lòng đất, vùng trời của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” hay lãnh thổ Hải quan theo quy định tại khoản 14 Điều 4 Luật
Hải quan 2005 “Lãnh thổ Hải quan gồm những khu vực trong lãnh thổ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của
Việt Nam, nơi Luật Hải quan được áp dụng”. Mà với đặc thù hoạt động là thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hàng hoá XK, NK, phương tiện và hành khách
xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh qua lại biên giới quốc gia. Các hoạt động nghiệp
vụ của cơ quan Hải quan được thực hiện giới hạn trong một không gian địa lý nhất
định trên lãnh thổ quốc gia gọi là phạm vi địa bàn hoạt động Hải quan. Do vậy,
công tác bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới cũng bị chi

phối bởi các giới hạn này vì nó xác định gianh giới các hoạt động kiểm tra, giám
sát và kiểm soát đối với hàng hoá XK, NK cũng như trách nhiệm của cơ quan Hải
quan về vấn đề này.
Địa bàn hoạt động Hải quan bao gồm các khu vực cửa khẩu đường bộ, ga
đường sắt liên vận quốc tế, cảng biển quốc tế, cảng sông quốc tế, cảng hàng không
dân dụng quốc tế, các địa điểm làm thủ tục Hải quan ngoài cửa khẩu, khu chế
xuất, kho ngoại quan, kho bảo thuế, khu vực ưu đãi Hải quan, bưu điện quốc tế,
các địa điểm kiểm tra hàng hoá xuất khẩu, NK trong lãnh thổ và trên vùng biển
thực hiện quyền chủ quyền của Việt Nam, trụ sở doanh nghiệp khi tiến hành kiểm
tra sau thông quan và các địa bàn hoạt động Hải quan khác theo quy định của pháp
luật. [11, 6]
Phạm vi địa bàn hoạt động Hải quan khác là khu vực có ranh giới xác định
tại những nơi có hoạt động XK, NK, xuất cảnh, nhập cảnh cần có hoạt động kiểm
tra, giám sát, kiểm soát của cơ quan Hải quan. Trong đó:
-

Tại khu vực cửa khẩu đường bộ là các khu vực có ranh giới xác định tại

một cửa khẩu đường bộ trên tuyến biên giới được quy định tại Phụ lục kèm theo
Nghị định 107/2002/NĐ- CP của Chính phủ. Trong trường hợp cần thiết phải

15


điều chỉnh phạm vi cụ thể địa bàn hoạt động Hải quan tại từng khu vực cửa khẩu
đường bộ, Bộ Tài chính sẽ chủ trì xem xét, trình Thủ tướng quyết định.
-

Tại cửa khẩu ga đường sắt liên vận quốc tế gồm: Khu vực nhà ga sử dụng


cho các chuyến tầu liên vận quốc tế đi, đến; nơi hành khách xuất cảnh, nhập cảnh;
sân ga, khu vực cho hàng hoá XK, NK, quá cảnh; bến bãi và các khu vực sử dụng
cho các chuyến tầu hoả liên vận quốc tế đi, đến và thực hiện các dịch vụ vận
chuyển hàng hoá được XK, NK; những khu vực có các chuyến tàu hoả liên vận
quốc tế chưa làm thủ tục Hải quan, đang chịu sự giám sát, kiểm soát của cơ quan
Hải quan mà di chuyển đến một địa điểm khác.
-

Tại cửa khẩu cảng hàng không dân dụng quốc tế bao gồm: Khu cách ly của

hành khách xuất cảnh, nhập cảnh; Khu vực sân ga, nhà ga hàng không, nơi đi, đến
của hành khách xuất cảnh, nhập cảnh có mang theo hàng hoá, hành lý được XK,
NK phải làm thủ tục Hải quan;
-

Tại cửa khẩu cảng biển, cảng sông quốc tế bao gồm: khu vực ngăn cách

tính từ đường ranh giới phía ngoài của vùng nước cảng có hàng hoá ra vào cảng
phải chịu sự giám sát Hải quan đến ranh giới các cổng cảng, cụ thể gồm các khu
bãi cầu cảng, vùng neo đậu, chuyển tải, vùng tránh bão, vùng nước của nhiều cảng
gần kề nhau và luồng quá cảnh; khu vực đón trả hoa tiêu vào đến cảng và nơi quy
định cho tàu, thuyền xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh neo đậu để chờ vào cảng
biển, cảng sông quốc tế, neo đậu để chuyển tải và các luồng lạch từ các khu vực
nói trên vào cảng biển, cảng sông quốc tế; Những khu vực khác do Thủ tướng
Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
-

Tại bưu điện quốc tế bao gồm: Khu vực thuộc bưu điện quốc tế; khu vực

thuộc bưu điện và bưu cục kiểm quan nơi nhận chuyển thư tín, bưu kiện, bưu

phẩm, các dịch vụ chuyển phát nhanh với nước ngoài theo Công ước của Liên
minh bưu chính quốc tế và các quy định về bưu chính của nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.

16


-

Tại các khu vực ngoài cửa khẩu có thực hiện quản lý Hải quan là những

khu vực có ranh giới xác định mà ở đó được làm thủ tục Hải quan, giám sát Hải
quan, kiểm tra thực tế hàng hoá, cụ thể gồm: Các khu công nghiệp, khu chế xuất,
doanh nghiệp chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu, khu thương mại tự do, khu vực ưu
đãi Hải quan; khu vực cảng nội địa (ICD), cảng chuyên dùng, kho ngoại quan, kho
bảo thuế, kho bãi chuyên dùng chứa hàng hoá XK, NK, quá cảnh của các tổ chức
vận tải kinh doanh và giao nhận hàng hoá XK, NK, quá cảnh; cửa hàng kinh
doanh hàng miễn thuế trong nội địa để bán hàng miễn thuế cho hành khách xuất
cảnh, nhập cảnh; khu vực địa điểm kiểm tra hàng hoá XK, NK, hoặc địa điểm
trưng bày, giới thiệu hàng hoá tạm NK.
-

Phạm vi cụ thể địa bàn hoạt động Hải quan khác là các khu vực trên biển,

trên sông, trên bộ khi có phương tiện vận tải neo, đậu, di chuyển để vận chuyển
hàng hoá được XK, NK, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; hàng
hoá, phương tiện vận tải chuyển tải, chuyển cửa khẩu, quá cảnh đang trong quá
trình làm thủ tục Hải quan và chịu sự kiểm tra, giám sát, kiểm soát của cơ quan
Hải quan.
Tại các khu vực thuộc phạm vi địa bàn hoạt động Hải quan, cơ quan Hải

quan chủ trì, chủ động thực hiện các biện pháp nghiệp vụ để kiểm tra, giám sát,
kiểm soát; sử dụng các phương tiện kỹ thuật được trang bị để phát hiện, ngăn
ngừa, truy đuổi, khám xét, điều tra, bắt giữ, xử lý các hành vi buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới và các hành vi khác vi phạm pháp luật
Hải quan.
Như vậy, bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hoá tại biên giới được
hiểu là hoạt động của cơ quan Hải quan và chủ thể quyền SHTT của nhãn hiệu
hàng hoá, sử dụng các biện pháp hành chính để bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp
nhãn hiệu, chống lại mọi sự xâm phạm để giữ nguyên vẹn quyền sở hữu đối với
nhãn hiệu đang được nhà nước bảo hộ trong phạm vi địa bàn hoạt động Hải quan.

17


Phạm vi và hiệu lực bảo vệ quyền SHTT đối với các nhãn hiệu hàng hoá đã
được đăng ký là khác nhau mà theo một số tài liệu nghiên cứu gọi là "tính lãnh
thổ tuyệt đối", do phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ sở hữu quyền SHTT, họ
có đăng ký quốc tế về nhãn hiệu hay không? và ngay cả khi nhãn hiệu có đăng ký
quốc tế, thì xét về mặt địa lý, phạm vi bảo hộ quốc tế cũng rộng, hẹp khác nhau.
Vì "Một đơn đăng ký nhãn hiệu do công dân của một nước thành viên của Liên
minh nộp tại bất cứ nước nào trong liên minh cũng không thể bị từ chối hoặc một
đăng ký nhãn hiệu cũng không thể bị huỷ bỏ với lý do rằng việc nộp đơn đăng ký
hoặc gia hạn tại nước xuất xứ không có hiệu lực. Một nhãn hiệu đã đăng ký hợp lệ
tại một nước thành viên của Liên minh được coi là không phụ thuộc vào các nhãn
hiệu đăng ký tại các nước thành viên khác của Liên minh, kể cả nước xuất xứ."
[42, 6].
1.3. Đặc điểm của việc bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa tại
biên giới
Bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa nói chung là hoạt động của
nhiều cơ quan thực thi pháp luật như: cơ quan Công an, Hải quan, Quản lý thị

trường, Thanh tra chuyên ngành, Tòa án, Ủy ban nhân dân các cấp và chủ thể
quyền SHTT của nhãn hiệu. Hoạt động này được thực hiện không giới hạn trên
toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, được thực hiện bằng nhiều biện pháp như: biện pháp
hành chính, biện pháp hình sự và biện pháp dân sự, bao gồm cả biện pháp tự bảo
vệ của chủ thể quyền SHTT. Bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa có
sự tham gia trực tiếp của đông đảo các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp, các Hiệp
hội ngành nghề và cộng đồng xã hội. Đối tượng của hoạt động bảo vệ quyền
SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa là toàn bộ hàng hóa mang nhãn hiệu đang được
bảo hộ theo pháp luật Việt Nam không phân biệt nguồn gốc là hàng hóa sản xuất
trong nước hay hàng hóa được NK từ nước ngoài.

18


Khác với hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa nói
chung, bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên giới có những đặc
điểm riêng mang tính đặc thù. Cụ thể là:
Một là, về mặt chủ thể, bảo vệ quyền SHTT tại biên giới do cơ quan Hải
quan và chủ thể quyền SHTT có hàng hóa mang nhãn hiệu đã đăng ký kiểm tra,
giám sát tại cơ quan Hải quan được XK, NK qua biên giới quốc gia thực hiện.
Cơ quan Hải quan các cấp là cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp kiểm soát biên giới đối với hàng hóa XNK liên quan đến SHTT theo quy
định của Luật SHTT và Luật Hải quan, bao gồm: biện pháp kiểm tra, giám sát để
phát hiện hàng hoá có dấu hiệu xâm phạm quyền SHTT và biện pháp tạm dừng
làm thủ tục Hải quan đối với hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm quyền SHTT. Tại
biên giới, cơ quan Hải quan có quyền kiểm tra, giám sát và kiểm soát một cách
toàn diện các hoạt động XNK hàng hóa liên quan đến SHTT.
Các chủ thể quyền SHTT muốn bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu gắn
trên hàng hóa XNK thuộc sở hữu của mình phải đăng ký kiểm soát biên giới tại
cơ quan Hải quan, có quyền yêu cầu cơ quan Hải quan tạm dừng làm thủ tục Hải

quan đối với hàng hóa có nghi nghờ xâm phạm quyền SHTT đối với nhãn hiệu.
Hai là, hoạt động bảo vệ quyền SHTT đối với nhãn hiệu hàng hóa tại biên
giới do cơ quan Hải quan thực hiện bằng biện pháp duy nhất là biện pháp hành
chính. Theo quy định của pháp luật, cơ quan Hải quan có thẩm quyền áp dụng
các biện pháp nghiệp vụ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về
Hải quan như các biện pháp: kiểm tra, giám sát và kiểm soát Hải quan, tạm dừng
làm thủ tục Hải quan đối với hàng hóa XK, NK có nghi ngờ xâm phạm quyền
SHTT. Khi phát hiện vi phạm, cơ quan Hải quan có quyền áp dụng các biện pháp
ngăn chặn và xử phạt vi phạm hành chính theo các trình tự, thủ tục quy định của
pháp luật xử lý vi phạm hành chính.

19


×