Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

Các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế theo pháp luật việt nam 07

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.61 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG THỊ KIM UYÊN

CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH
NGHĨA VỤ NỘP THUẾTHEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG THỊ KIM UYÊN

CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ
THI HÀNH NGHĨA VỤ NỘP THUẾ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan Hương

HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Hoàng Thị Kim Uyên


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN....................................................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NỢ
THUẾ, PHÁP LUẬT QUẢN LÝ NỢ THUẾ VÀ CÁC BIỆN PHÁP
CƯỠNG CHẾ THI HÀNH NGHĨA VỤ NỘP THUẾ.................................................. 5
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG Về Nợ THUế VÀ QUảN LÝ Nợ THUế....................5
1.1.1. Khái quát chung về nợ thuế:...................................................................................... 5
a. Khái niệm nợ thuế:................................................................................................................ 5
b. Những đặc trưng cơ bản của nợ thuế:............................................................................ 8
c. Phân loại:.................................................................................................................................. 9
1.1.2. Khái quát chung về quản lý nợ thuế:................................................................... 15

a. Khái niệm về quản lý nợ thuế:........................................................................................ 15
b. Các nội dung cơ bản của công tác quản lý nợ thuế:............................................... 16
c. Đặc trưng của quan hệ quản lý nợ thuế:..................................................................... 18
1.2. KHÁI QUÁT PHÁP LUậT Về QUảN LÝ Nợ THUế VÀ CƯỠNG CHẾ
THI HÀNH NGHĨA VỤ NỘP THUẾ.............................................................................. 19
1.2.1. Vai trò của pháp luật trong quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành
nghĩa vụ nộp thuế:................................................................................................................... 19
1.2.2. Cấu trúc pháp luật về quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành nghĩa vụ
nộp thuế:...................................................................................................................................... 21
1.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM Về QUảN LÝ Nợ THUế TRÊN THế GIớI .....23
1.3.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản:.................................................................................... 23
1.3.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc:................................................................................... 25
1.3.3. Kinh nghiệm tại Anh:................................................................................................. 28


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT – THỰC TIỄN THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH NGHĨA
VỤ NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................. 30
2.1. THựC TRạNG PHÁP LUậT VỀ CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI
HÀNH NGHĨA VỤ NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM......................................................... 30
2.1.1. Hệ thống các quy phạm pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành
nghĩa vụ nộp thuế ở Việt Nam:............................................................................................ 30
2.1.2. Nội dung pháp luật về quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành nghĩa vụ
nộp thuế:...................................................................................................................................... 33
a. Các trường hợp bị cưỡng chế:........................................................................................ 33
b. Trốn tránh thực hiện cưỡng chế:.................................................................................... 34
c. Trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế:...................35
d. Thanh tra, kiểm tra và cưỡng chế thuế:....................................................................... 38
2.1.3. Những ưu điểm và hạn chế của pháp luật về các biện pháp cưỡng chế
thi hành nghĩa vụ nộp thuế hiện hành ở Việt Nam:..................................................... 38

a. Ưu điểm:................................................................................................................................. 38
b. Hạn chế:.................................................................................................................................. 40
2.2. THựC TIễN THI HÀNH PHÁP LUậT Về CÁC BIệN PHÁP CƯỡNG CHế THI HÀNH NGHĨA
Vụ NộP THUế ở NƯớC TA HIệN NAY:....................................................................................... 45

2.2.1. Tình hình thực thi pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa
vụ nộp thuế ở nước ta trong thời gian qua:.................................................................... 45
2.2.2. Những hạn chế phát sinh trong thi hành pháp luật về các biện pháp
cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế ở nước ta......................................................... 48
2.2.3. Những bất cập trong công tác thu hồi nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế tại
một số địa phương:.................................................................................................................. 57
2.2.4. Nguyên nhân:................................................................................................................ 67


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH NGHĨA
VỤ NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM.......................................................................................... 72
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành
nghĩa vụ nộp thuế ở Việt Nam:............................................................................................ 72
a. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật:....................................................................... 72
b. Mục tiêu:................................................................................................................................. 73
c. Yêu cầu:................................................................................................................................... 74
3.2. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành
nghĩa vụ nộp thuế ở Việt Nam:............................................................................................ 74
KẾT LUẬN................................................................................................................................ 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................... 86


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu:

Luật quản lý thuế đã được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 10 thông qua
ngày 29/11/2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007. Luật quản lý thuế ra
đời đã làm thay đổi căn bản cơ chế quản lý thuế nước ta từ quản lý thuế chuyên
quản, trực tiếp trước đây sang tự khai, tự tính, tự nộp thuế. Người nộp thuế căn
cứ vào hoạt động kinh tế của mình, căn cứ vào các quy định của pháp luật về
thuế để tự xác định, tự kê khai, tự tính số thuế phải nộp và tự giác nộp số tiền
thuế cho Ngân sách Nhà nước theo đúng thời hạn quy định của pháp luật. Mục
tiêu của cơ chế tự khai, tự nộp thuế là phát huy tính tự giác, tự chịu trách
nhiệm về thực hiện nghĩa vụ thuế của mình trước pháp luật. Chính từ sự thay
đổi căn bản này đặt ra nhiều vấn đề mới cần giải quyết. Kể từ khi Luật quản lý
thuế ra đời, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đã ban hành ra hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật ở
các lĩnh vực quản lý thuế khác nhau, trong đó có một bộ phận pháp luật có vị
trí khá quan trọng và khá phức tạp là bộ phận các biện pháp cưỡng chế để thi
hành nghĩa vụ nộp thuế. Trong thời gian thực hiện Luật quản lý thuế bước đầu
đã thu được nhiều những thành tựu nhất định trong quản lý thuế. Bên cạnh đó,
qua quá trình thực hiện pháp luật quản lý thuế nói chung và pháp luật quản lý
nợ thuế nói riêng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, đồng thời phát sinh một
số vướng mắc cần được giải quyết. Đặc biệt, trong khoảng thời gian gần đây,
tình trạng người nộp thuế vi phạm nghĩa vụ nộp thuế, nộp phạt dẫn đến nợ
đọng tiền thuế, tiền phạt hàng năm đang trở thành mối lo hàng đầu của Chính
phủ và các cơ quan quản lý tài chính quốc gia, trong đó có cơ quan thuế. Tình
trạng này đòi hỏi Nhà nước sớm phải tìm ra các biện pháp nhằm triệt để thu
hồi nợ đọng tiền thuế, tiền phạt. Một trong các biện pháp đã và đang được áp
dụng khá phổ biến trên thế

1


giới - đó chính là biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nợ thuế. Tuy nhiên,

việc áp dụng biện pháp này như thế nào cho hiệu quả là vấn đề cần được quan
tâm nghiên cứu, cả từ góc độ lý luận cũng như thực tiễn.
Với những lý do trên, tôi chọn vấn đề “Các biện pháp cưỡng chế thi
hành nghĩa vụ nộp thuế theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ
của mình nhằm nghiên cứu một cách có hệ thống cơ sở lý luận về quản lý thuế,
pháp luật quản lý thuế và đưa ra một số đánh giá về thực trạng pháp luật, thực
tiễn thi hành pháp luật các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế ở
nước ta. Trên cơ sở đó đưa ra một số định hướng và giải pháp hoàn thiện bộ
phận pháp luật này ở nước ta trong giai đoạn tới.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về pháp luật
các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế, đánh giá thực trạng bộ
phận pháp luật này và trên cơ sở đó đưa ra phương hướng, giải pháp hoàn thiện
để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của pháp luật quản lý thuế.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài:
Liên quan đến các nghiên cứu về quản lý thuế và pháp luật quản lý thuế
có một số công trình nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ “Xây dựng mô hình
quản lý chất lượng toàn diện trong quản lý thuế” của Nguyễn Thành Danh –
Đại học kinh tế Hồ Chí Minh, luận văn tiến sĩ Pháp" luật quản lý thuế trong
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" của Vũ
Văn Cương - Đại học Luật Hà Nội, hay “Giải pháp công tác cưỡng chế nợ
thuế tại chi cục thuế quận Gò Vấp”,…và rất nhiều những bài viết chuyên sâu
của nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, các đề tài trên chỉ dừng lại
ở các vấn đề chung về mô hình tổ chức bộ máy quản lý hay việc áp dụng biện
pháp cưỡng chế tại một khu vực rất nhỏ. Nhìn chung là thiên về lĩnh vực kinh
tế, và vấn đề về các biện pháp cưỡng chế để thi hành nghĩa vụ nợ thuế

2



chỉ là một phần nhỏ trong các đề tài luận văn này. Cho đến nay vẫn chưa có
một đề tài nào tập trung nghiên cứu sâu về vấn đề trên cả về mặt lý luận cũng
như thực tiễn.
Ở nước ta, bộ phận pháp luật quản lý thuế đã được Nhà nước quan tâm

xây dựng trong những năm gần đây bước đầu đã phát huy hiệu quả. Bên cạnh
những thành tựu đã đạt được vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập, đặc biệt
trong thời gian gần đây, tình trạng nợ đọng, dây dưa nộp thuế, nộp phạt đang
có chiều hướng gia tăng, gây ảnh hưởng nhất định đến nguồn thu ngân sách
nhà nước, trong đó có nguyên nhân quan trọng từ các quy định về quản lý
thuế.
Việc đánh giá, xem xét một cách có hệ thống các quy định của pháp luật
và thực tiễn thi hành pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ
nộp thuế ở nước ta trong những năm vừa qua để làm cơ sở cho việc hoàn thiện
pháp luật quản lý thuế nói chung, pháp luật về quản lý nợ thuế nói riêng
ở nước ta.

4. Đối tượng, phương pháp và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Các quy định của pháp luật về thuế, quản lý nợ

thuế và các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ nộp thuế ở Việt Nam hiện
nay.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên

cứu truyền thống trong khoa học pháp lý: phân tích, tổng hợp, so sánh các
thông tin, số liệu,...
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định

của pháp luật hiện hành về nợ thuế, các biện pháp cưỡng chế được sử dụng để
thi hành nghĩa vụ nộp thuế và có so sánh với pháp luật của một số nước trên

thế giới, đồng thời tìm hiểu thực tiễn áp dụng, triển khai các quy định đó ở

3


một số tỉnh thành trong cả nước. Sau đó đề xuất các giải pháp để hoàn thiện
pháp luật sao cho phù hợp với các điều kiện thực tế hiện nay.
5. Tổng quan tài liệu:
Dựa trên cơ sở các quy định của Pháp luật về thuế cùng với các báo cáo
tổng kết, rà soát, đánh giá thực tiễn, các bài viết, ý kiến tranh luận của các
chuyên gia và các công trình nghiên cứu khác… Tài liệu tham khảo từng nội
dung cụ thể được trích dẫn trong Luận văn.

4


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NỢ THUẾ,
PHÁP LUẬT QUẢN LÝ NỢ THUẾ VÀ CÁC BIỆN PHÁP
CƯỠNG CHẾ THI HÀNH NGHĨA VỤ NỘP THUẾ
1.1. Khái quát chung về nợ thuế và quản lý nợ thuế:
1.1.1. Khái quát chung về nợ thuế:
a. Khái niệm nợ thuế:
Khái niệm “nợ” nói chung thường là một thuật ngữ được dùng để nói
đến một nghĩa vụ của một chủ thể (con nợ hay người mắc nợ) phải thực hiện
hoặc sẽ phải thực hiện trong hiện tại hoặc trong tương lai đối với một chủ thể
khác (chủ nợ). Khái niệm “nợ” chủ yếu được sử dụng để nói các nghĩa vụ tài
sản mà một bên chủ thể phải thực hiện trong các giao dịch dân sự, thương mại
như quan hệ vay, mượn tài sản, mua, bán,…
Bách khoa toàn thư mở rộng Wikipedia định nghĩa: “Nợ là một thuật

ngữ được sử dụng trong trường hợp nợ về tài sản. Tuy nhiên, nợ cũng có thể
được sử dụng để chỉ các nghĩa vụ khác. Trong trường hợp nợ tài sản thì nợ là
một cách sử dụng sức mua trước khi kiếm đủ tổng số tiền để trả cho sức mua
đó”.
Nợ là một phần của tổng tài sản mà người mượn phải trả cho người cho
mượn ở một hay nhiều thời điểm trong tương lai. Nợ như vậy bao gồm: nợ vay
ngân hàng, nợ qua việc bán trái phiếu, nợ tiền trả trước của khách hàng hoặc
nợ từ bổn phận phải chi trả khác (chẳng hạn: Nhà nước nợ công chức tiền hưu
trí hứa hẹn sau khi về hưu). Nợ như trên không bao gồm cổ phiếu hay phần
hùn vốn vào các tổ chức kinh tế.
Tuy nhiên, khi nói đến nợ thuế thì lại không hoàn toàn như vậy. Nợ thuế
là một trong những đặc trưng thể hiện ở sự phát triển của ngành thuế. Ở đây
không phải là phần tài sản của cá nhân hay tổ chức đã vay mà là phần tài

5


sản cá nhân hay tổ chức thuộc diện phải đóng thuế theo quy định của pháp luật
phải nộp vào ngân sách Nhà nước khi phát sinh nghĩa vụ đó trong quá trình sản
xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào định nghĩa cụ thể về “nợ thuế”.
Trong Hiến pháp 1992, tại Điều 80 quy định: “Công dân có nghĩa vụ đóng thuế
và lao động công ích theo quy định của pháp luật”. Hiến pháp mới năm 2013
tiếp tục kế thừa các quy định trong Hiến pháp năm 1992, riêng nghĩa vụ nộp
thuế được sửa đổi về chủ thể là “Mọi người có nghĩa vụ nộp thuế theo luật
định” (Điều 47), không chỉ là công dân có nghĩa vụ nộp thuế như Hiến pháp
năm 1992. Tại khoản 3 Điều 7 Luật Quản lý Thuế được (Quốc hội Khóa XI, kỳ
họp thứ 10 số 78/2006/QH thông qua ngày 29/11/2006) quy định: “Người nộp
thuế có nghĩa vụ nộp tiền thuế đầy đủ đúng thời hạn, đúng địa điểm…”.
Nợ thuế nếu hiểu theo nghĩa rộng là nghĩa vụ tài chính phải thực hiện

của tổ chức, cá nhân đối với Nhà nước. Thời điểm xác định một chủ thể có
nghĩa vụ nộp thuế (có nợ thuế Nhà nước) được tính từ khi có sự kiện pháp lý
đã được pháp luật dự liệu phát sinh. Chẳng hạn, trong pháp luật về thuế giá trị
gia tăng quy định: “Thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa
là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hóa cho
người mua, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. Thời
điểm xác định thuế giá trị gia tăng đối với dịch vụ là thời điểm hoàn thành
việc cung ứng dịch vụ hoặc thời điểm lập hóa đơn cung ứng dịch vụ, không
phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền”.
Theo như quy định trên, thời điểm chuyển giao hàng hóa đến người tiêu
dùng hoặc thời điểm hoàn thành việc cung ứng dịch vụ, cá nhân (tổ chức) cung
ứng hàng hóa, dịch vụ đó đã phát sinh nghĩa vụ nộp thuế. Nói cách khác, cá
nhân (tổ chức) này đã phát sinh một khoản nợ thuế đối với Nhà nước và họ cần

6


phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Tuy nhiên, nếu mỗi khi phát sinh nghĩa vụ nộp
thuế, đối tượng nộp thuế lại phải đến địa điểm nộp thuế sẽ mất rất nhiều thời gian,
công sức, tiền bạc làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, kinh doanh. Vì vậy,
trong quản lý thuế, để tạo điều kiện thuận lợi và hạn chế các chi phí cho việc kê
khai, thu nộp thuế cho người nộp thuế và các cơ quan quản lý thu thuế của Nhà
nước thì pháp luật quy định kỳ tính thuế, kỳ kê khai, nộp thuế.

Kỳ tính thuế: là khoảng thời gian để xác định số tiền phải nộp ngân sách
Nhà nước theo quy định của pháp luật về thuế mà người nộp thuế phải thực
hiện. Chẳng hạn, kỳ tính thuế VAT đối với hàng hóa, dịch vụ kinh doanh trong
nước tính thu hàng tháng.
Kỳ kê khai, nộp thuế: là khoảng thời gian mà người nộp thuế phải thực
hiện kê khai số thuế phải nộp theo kỳ tính thuế và phải nộp tờ khai cho cơ

quan thuế và nộp thuế vào Ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật về
thuế. (Luật thuế giá trị gia tăng quy định: hết tháng, cơ sở kinh doanh kê khai,
tính thuế và nộp số tiền thuế phát sinh trong tháng chậm nhất không quá 20
ngày của tháng tiếp theo).
Như vậy, thời điểm phát sinh nghĩa vụ nộp thuế và thời điểm nộp thuế
vào Ngân sách Nhà nước không trùng nhau. Bởi vậy, nợ thuế có thể hiểu theo
nghĩa hẹp hơn.
Theo nghĩa hẹp, nợ thuế là số tiền thuế mà người có nghĩa vụ nộp thuế
phải nộp trong kỳ tính thuế mà đã quá thời hạn phải nộp thuế mà chưa nộp
hoặc nộp còn thiếu số tiền thuế phải nộp trong kỳ tính thuế.
Tại điểm 4.5 mục IV của quy trình quản lý thu nợ thuế ban hành kèm
theo Quyết định số 477/QĐ-TCT ngày 15/5/2008 của Tổng cục trưởng Tổng
cục Thuế có quy định: “Tiền nợ thuế là số tiền thuế được xác định phải nộp
vào Ngân sách Nhà nước nhưng đã quá thời hạn nộp theo quy định của pháp
luật mà chưa nộp vào Ngân sách Nhà nước ”.

7


Thời điểm bắt đầu tính nợ đối với một khoản nợ thuế là ngày tiếp theo
ngày hết hạn nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế. Thời điểm kết thúc
tính nợ đối với một khoản nợ thuế là ngày tiếp theo ngày khoản nợ được nộp
vào Ngân sách Nhà nước, hoặc ngày có hiệu lực thi hành của văn bản xóa nợ,
miễn nộp hoặc xử lý bằng các hình thức khác.
“Tuổi nợ thuế” là khoảng thời gian liên tục tính từ thời điểm bắt đầu tính
nợ thuế đến thời điểm khoản nợ đó được xác định tuổi. Tuổi nợ được tính theo
ngày bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ.
Do có nhiều quan điểm khác nhau về nợ thuế, trong luận văn này sẽ sử
dụng khái niệm nợ thuế theo nghĩa hẹp để có cách hiểu thống nhất với các văn
bản pháp luật quản lý thuế hiện hành ở Việt Nam hiện nay.

Từ những lập luận ở trên, có thể định nghĩa một cách khái quát về nợ
thuế như sau:
Nợ thuế là những khoản tiền của thể nhân hoặc pháp nhân (thuộc đối
tượng phải nộp thuế theo quy định của pháp luật) chưa nộp hoặc chưa nộp đủ
vào Ngân sách Nhà nước sau khi đã hết hạn nộp thuế hoặc hết thời hạn gia
hạn nộp thuế.
b. Những đặc trưng cơ bản của nợ thuế:
Chủ thể trong quan hệ nợ thuế: Chủ nợ là Nhà nước, người mắc nợ là tổ
chức, cá nhân thỏa mãn dấu hiệu luật định phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
cho Nhà nước.
Quan hệ nợ thuế: là quan hệ phát sinh trên sơ sở luật định, quan hệ
quyền lực và nghĩa vụ (quan hệ hành chính).
Quan hệ xử lý nợ thuế là quan hệ được điều chỉnh bằng pháp luật thuế chứ
không phải là quan hệ được điều chỉnh bằng pháp luật dân sự hay thương mại.

Nợ thuế là nghĩa vụ tài sản được xác định bằng một số tiền nhất định.
Điều 43 Luật Quản lý thuế 2006 cũng quy định: “Đồng tiền nộp thuế là đồng

8


Việt Nam, trừ trường hợp nộp thuế bằng ngoại lệ theo quy định của Chính
phủ”. Như vậy, đối tượng nợ thuế phải thực hiện nghĩa vụ của mình xác định
bằng số tiền mặt nhất định, tùy thuộc vào loại thuế, thuế suất,… theo quy định
của pháp luật.
Nợ thuế là số tiền nợ của người nộp thuế đối với Ngân sách Nhà nước
đã quá thời hạn phải nộp mà chưa nộp (tương tự nợ quá hạn trong quan hệ kinh
tế, dân sự).
c. Phân loại:
Phân loại nợ thuế là việc phân chia nợ thuế thành những nhóm khác

nhau theo những tiêu thức nhất định.
Việc phân loại nợ thuế là phương pháp quan trọng nhằm giúp cơ quan
thuế xác định được rõ đặc điểm, tính chất, nguyên nhân, tình trạng, tuổi nợ của
từng khoản nợ thuế, qua đó có thể áp dụng các biện pháp quản lý thu nợ thuế
có hiệu quả. Có nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các khoản nợ thuế của
người nộp thuế.
*Căn cứ vào thời gian nợ
Nợ thuế được chia thành nợ trong hạn và nợ quá hạn:
- Nợ trong hạn: nợ thuộc nhóm này bao gồm các khoản nợ thuế vẫn còn

trong thời hạn nộp thuế. Chẳng hạn, nợ thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu trong thời gian ân hạn thuế. Ngoài ra còn có nợ thuế trong hạn do được
gia hạn nộp thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế. Đối với khoản nợ thuế
trong hạn thì việc nợ thuế là đương nhiên, không phải là vấn đề đáng lo ngại
trong quản lý thuế. Tuy nhiên, nợ thuế trong hạn cũng cần theo dõi để nắm bắt,
đôn đốc thu nộp kịp thời khi đến hạn nộp thuế.
- Nợ quá hạn: nợ trong nhóm này được phân loại như các khoản nợ

thông thường theo tiêu thức phân loại theo khả năng thu hồi nợ. Có nghĩa là
những khoản nợ đến hạn trả theo quy định của pháp luật hoặc theo thông báo

9


hoặc được ghi trên quyết định của cơ quan thuế đến hạn nộp mà chưa nộp thì
được coi là nợ quá hạn. Tùy theo yêu cầu quản lý, nợ quá hạn có thể phân loại
chi tiết hơn nữa theo mức độ quá hạn để có biện pháp quản lý và đôn đốc thu
hồi nợ thuế phù hợp.
*Căn cứ vào quyết định làm phát sinh nghĩa vụ
Nợ thuế được chia thành nợ thuế thông thường, nợ phạt thuế và nợ thuế

truy thu phải nộp sau thanh tra, kiểm tra.
- Nợ thuế thông thường: nợ trong nhóm này thường bao gồm các khoản

nợ phát sinh từ số thuế phải nộp do người nộp thuế kê khai với cơ quan thuế
mà không bao gồm số thuế bị truy thu, bị phạt chậm nộp do cơ quan thuế thanh
tra, kiểm tra phát hiện. Xét theo những tiêu chí khác nhau, trong nhóm nợ thuế
này cũng bao gồm nhiều khoản nợ có tuổi nợ, mức nợ khác nhau do người nộp
thuế kê khai với cơ quan thuế và các khoản nợ này được theo dõi trên hồ sơ
quản lý đối tượng nộp thuế lưu tại cơ quan thuế.
- Nợ phạt thuế: theo Luật Quản lý thuế hiện nay thì việc cơ quan thuế

xử phạt thuế đối với người nộp thuế vi phạm về thuế thì sẽ có nhiều loại vi
phạm tương ứng với từng nội dung vi phạm, tương ứng với đó là các khoản nợ
phát sinh cho từng lần vi phạm. Do đó, trong nhóm nợ phạt thuế này còn có thể
chia thành các khoản mục nợ như: nợ do phạt nộp chậm, nợ phạt thiếu thuế
phải nộp, nợ phạt trốn thuế, nợ phạt vi phạm thủ tục về thuế.
- Nợ thuế truy thu phải nộp sau thanh tra, kiểm tra: đây là khoản nợ thuế

mà cơ quan thuế sau quá trình kiểm tra, thanh tra đã phát hiện thêm số thuế phải
nộp mà đơn vị bỏ ngoài sổ sách, không kê khai hoặc khai không chính xác
ở tất cả các loại hồ sơ khai thuế trong năm tính thuế. Ở thời điểm cơ quan thuế

tiến hành thanh tra, kiểm tra thì theo quy định số thuế này phải được nộp vào
Ngân sách Nhà nước nhưng có thể đơn vị do vô tình hoặc cố ý đã kê sai để
trốn thuế. Số nợ thuộc nhóm nợ này phản ánh được số thuế phát hiện thêm

10


được coi là nợ thuế của người nộp thuế được thanh tra, kiểm tra. Tuy nhiên, nó

cũng có ý nghĩa quan trọng giúp cơ quan thuế có những biện pháp quản lý
thích hợp với những nhóm nợ này. Đồng thời, việc theo dõi nợ thuế theo nhóm
này giúp cho cơ quan thuế đánh giá được các mức độ vi phạm pháp luật thuế
của người nộp thuế trong từng thời kỳ cụ thể.
Trong công tác quản lý thuế, việc phân loại nợ theo nội dung giúp thực
hiện đúng trình tự thu thuế khi cưỡng chế thuế theo quy định của Luật Quản lý
thuế. Theo đó, tiền thuế phải được thu trước tiền phạt.
*Căn cứ điều kiện thực tế về quản lý thu thuế
Đó là những thông tin kê khai thuế, tài liệu, hồ sơ về người nộp thuế đã
thu thập được; thông tin về người nợ thuế, số tiền nợ thuế từ bộ phận kê khai
và kế toán thuế chuyển sang. Dựa vào các điều kiện này có thể phân loại
thành: Nợ có khả năng thu, nợ khó thu, nợ chờ xử lý.
- Nợ có khả năng thu: là số tiền nợ thuế của người nợ thuế được xác

định phải nộp vào Ngân sách Nhà nước nhưng còn trong thời hạn nộp thuế
hoặc đã hết thời hạn nộp theo quy định của pháp luật mà chưa nộp và không
thuộc các trường hợp thuộc nhóm nợ khó thu và nợ không có khả năng thu hồi.
Thuộc nhóm này là nợ thuế của những người nộp thuế vẫn đang lao động hoặc
tiến hành sản xuất, kinh doanh bình thường, không lâm vào tình trạng quá khó
khăn dẫn đến tình trạng không có khả năng nộp thuế. Tùy theo yêu cầu quản
lý, cơ quan thuế có thể tiếp tục chia nợ có khả năng thu hồi thành các loại: nợ
thuế chậm nộp dưới 30 ngày, nợ thuế chậm nộp từ 30 đến dưới 90 ngày. Mốc
nợ thuế 90 ngày là mốc quan trọng vì nó liên quan tới thời điểm xác định một
trong những dấu hiệu phải áp dụng biện pháp cưỡng chế theo Luật Quản lý
thuế.
- Nợ khó thu: Là các trường hợp nợ thuế sau đây:

11



Là tiền thuế nợ của những người nộp thuế mà pháp luật coi là đã chết,
mất tích, mất năng lực hành vi dân sự chưa có hồ sơ đề nghị xóa nợ.
Là tiền thuế nợ có liên quan đến trách nhiệm hình sự: là số tiền thuế nợ
của người nộp thuế đang trong giai đoạn bị điều tra, khởi tố hình sự, đang chờ
bản án hoặc kết luận của cơ quan pháp luật, chưa thực hiện được nghĩa vụ nộp
thuế.
Là tiền thuế nợ của người nộp thuế không còn hoạt động sản xuất - kinh
doanh tại địa điểm đăng ký kinh doanh hoặc có văn bản gửi đến cơ quan thuế
đề nghị chấm dứt hoạt động kinh doanh nhưng chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp
thuế, cơ quan thuế đã kiểm tra, xác định người nộp thuế không còn hoạt động
kinh doanh, bao gồm cả trưởng hợp giải thể không theo trình tự của Luật
Doanh nghiệp.
Là tiền thuế nợ của người nộp thuế đã giải thể: là số tiền thuế nợ người
nộp thuế đã thông qua quyết định giải thể doanh nghiệp nhưng chưa thanh toán
đầy đủ các khoản nợ thuế theo quy định của pháp luật.
Là tiền thuế nợ của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản: là số tiền
thuế nợ của người nợ thuế đã có quyết định phá sản doanh nghiệp hoặc đang
trong thời gian làm thủ tục phá sản doanh nghiệp nhưng chưa làm các thủ tục
xử lý nợ theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, nợ khó thu còn là những khoản nợ trên 90 ngày mà cơ quan
thuế đã áp dụng đến biện pháp cưỡng chế nợ thuế cuối cùng là thu hồi giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép thành lập và hoạt động, giấy
phép hành nghề,... nhưng vẫn không thu hồi được tiền thuế nợ.
Trong các khoản nợ khó thu còn có loại nợ thuế của những đối tượng
thực tế không còn tồn tại nhưng không làm các thủ tục chấm dứt hoạt động và
quyết toán thuế đối với cơ quan thuế như khoản nợ thuế của các doanh nghiệp
bỏ trốn. Hầu hết đây là các trường hợp cố tình nợ để trốn thuế. Việc truy tìm

12



và xử lý theo pháp luật các trường hợp này gặp rất nhiều khó khăn. Do đó,
khoản nợ thuế của những đối tượng này không chỉ dừng lại ở mức khó thu mà
có thể nói là rất khó thu. Xét về lý thuyết thì nó là nợ khó thu, còn trong thực
tế quản lý có thể xếp vào nhóm không thể thu hồi, vì trên thực tế có thể các cơ
quan pháp luật có thể truy bắt được thủ phạm nhưng họ không có tài sản để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thuế đã nợ.
- Nợ chờ xử lý: là khoản nợ thuế xác định chưa thật chính xác, cần điều

chỉnh lại hoặc nợ thuế đang có khiếu nại, đang thuộc diện xét miễn, giảm thuế.
Cụ thể bao gồm các nhóm sau:
+ Nợ đang chờ điều chỉnh: là số tiền nợ thuế do có sai sót của người nộp

thuế hoặc cơ quan thuế khi kê khai thuế, tính thuế, đang là thủ tục để điều
chỉnh lại hoặc do tạm tính số thuế phải nộp cao hơn số phát sinh, tức là số tiền
nợ do người nộp thuế đã kê khai số thuế tạm nộp hàng kỳ theo quy định nhưng
thực tế thuế phát sinh phải nộp thấp hơn so với số thuế đã kê khai tạm nộp,
đang làm thủ tục để điều chỉnh lại. Ngoài ra, trong nhóm này còn có số tiền nợ
do chứng từ luân chuyển chậm hoặc thất lạc tiền thuế đã nộp vào tài khoản thu
Ngân sách Nhà nước nhưng do chứng từ luân chuyển chưa kịp thời hoặc thất
lạc nên trên sổ thuế vẫn ghi nợ. Bên cạnh đó còn có nợ chờ điều chỉnh do khiếu
nại, tức là số tiền nợ thuế phát sinh do cơ quan thuế xác định lại số thuế phải
nộp hoặc ấn định tiền thuế phải nộp trong trường hợp người nộp thuế vi phạm
các quy định về thuế, phải ấn định thuế; phát hiện qua thanh tra, kiểm tra bị
truy thu, truy hoàn, bị xử phạt hoặc các trường hợp khác nhưng người nộp thuế
chưa được chấp nhận, có khiếu nại và đang trong giai đoạn chờ giải quyết
khiếu nại.
+ Nợ đang xử lý miễn, giảm, xóa nợ: là số tiền nợ thuế của người nợ

thuế đang trong thời gian làm các thủ tục tại cơ quan thuế để được xử lý miễn,

giảm, xóa nợ theo quy định của pháp luật (bao gồm cả các trường hợp đang

13


làm thủ tục xử lý miễn, giảm áp dụng các điều khoản miễn, giảm theo các hiệp
định tránh đánh thuế hai lần); cá nhân được cơ quan pháp luật coi là đã chết,
mất tích, mất năng lực hành vi dân sự mà không còn tài sản để nộp thuế, tiền
phạt còn nợ; nợ của người nợ thuế bị tuyên bố phá sản đã thực hiện các khoản
thanh toán theo quy định của luật phá sản mà không còn tài sản để nộp tiền
thuế, tiền phạt. Khi người nộp thuế đang có nợ thuế do đến kỳ phải thực hiện
kê khai thuế đúng hạn nhưng theo quy định của pháp luật về thuế, họ sẽ được
miễn, giảm hoặc được xử lý cho ghi thu, ghi chi và đang làm thủ tục thì tạm
thời đưa vào nhóm nợ chờ xử lý này để theo dõi chứ không áp dụng các biện
pháp để cưỡng chế thu nợ.
+ Nợ trong quá trình tranh chấp thuế: theo các quy định tại các văn bản

quy phạm pháp luật về thuế và xử lý khiếu nại tổ cáo thì trong quá trình khiếu
nại, khi các cơ quan có thẩm quyền chưa ra quyết định xử lý, người nộp thuế
vẫn phải nộp các khoản thuế vào Ngân sách Nhà nước. Do đó, phát sinh thêm
khoản nợ chờ xử lý do khiếu nại của người nộp thuế, xử lý thoái trả tiền thuế.
Khi có quyết định chính thức của cơ quan có thẩm quyền thì nợ này được đưa
vào một trong hai nhóm nợ có khả năng thu hoặc nợ không có khả năng thu.
+ Nợ đang được gia hạn nợ, khoanh nợ, giãn nợ: là số tiền thuế của đối

tượng nộp thuế đã được xử lý cho gia hạn nợ, khoanh nợ, giãn nợ theo quy
định của pháp luật.
+ Nợ chờ xử lý bù trừ với tiền hoàn thuế: là số tiền nợ thuế của người

nợ thuế có hồ sơ đang làm thủ tục hoàn thuế tại cơ quan thuế tương ứng với số

tiền thuế đề nghị hoàn thuế theo quy định.
*Căn cứ vào loại chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế
Nợ thuế có thể được phân chia cụ thể thành các nhóm đối tượng theo
tính chất sở hữu, loại hình hoặc đặc điểm tổ chức sản xuất, kinh doanh,… thì
nợ thuế có thể phân chia thành các nhóm sau:

14


- Nợ thuế của doanh nghiệp Nhà nước
- Nợ thuế của doanh nghiệp dân doanh
- Nợ thuế của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Nợ thuế của hộ kinh doanh cá thể
- Nợ thuế của cá nhân
- Nợ thuế của các đối tượng khác….

Cách phân loại này cho thấy mức độ nợ của từng đối tượng như thế nào,
qua đó tìm hiểu nguyên nhân chung dẫn đến tình trạng nợ thuế của cả nhóm
đối tượng. Cách phân loại này cũng giúp cơ quan thuế đặt trọng tâm vào quản
lý nợ thuế của những nhóm đối tượng có khả năng rủi ro cao trong thu hồi nợ.
*Căn cứ vào sắc thuế
Nợ thuế được chia thành: Nợ thuế giá trị gia tăng, nợ thuế tiêu thụ đặc
biệt, nợ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, nợ thuế thu nhập doanh nghiệp, nợ
thuế thu nhập cá nhân,… Cách phân loại này cho biết sắc thuế nào có số nợ
cao, sắc thuế nào có số nợ thấp. Qua đó tìm hiểu những quy định pháp lý và
thủ tục hành chính thu nộp sắc thuế đó đã hợp lý hay chưa, làm cơ sở hoàn
thiện pháp luật thuế và pháp luật quản lý thuế.
* Căn cứ vào chủ thể có trách nhiệm quản lý
Nợ thuế có thể phân chia các khoản nợ thuế thành các loại sau: Các
khoản nợ thuế do cơ quan Hải quan quản lý và các khoản nợ thuế do cơ quan

thuế quản lý.
1.1.2. Khái quát chung về quản lý nợ thuế:
a. Khái niệm về quản lý nợ thuế:
Trong quá trình quản lý thuế, việc xảy ra nợ thuế là điều không thể tránh
khỏi, đó có thể là do pháp luật thuế cho phép người nộp thuế được nợ thuế
trong những thời hạn nhất định, cũng có thể do nhiều nguyên nhân khác,

15


cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, mà người nộp thuế
chưa nộp số thuế phải nộp trong thời hạn quy định của pháp luật. Điều này đặt
ra yêu cầu để đảm bảo thu đủ số thuế phải nộp của người nộp thuế vào Ngân
sách Nhà nước thì phải làm tốt công tác quản lý nợ thuế.
Quản lý nợ thuế là công việc theo dõi, nắm bắt thực trạng nợ thuế và các
khoản thu khác do cơ quan thuế quản lý và thực hiện các biện pháp đôn đốc
thu hồi số thuế nợ của người nộp thuế.
Quản lý nợ thuế là một bộ phận của quản lý thuế, là hoạt động của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý các đối tượng nộp thuế có
nợ tiền thuế nhà nước, nhằm thu đủ các khoản thuế quá hạn từ người nộp thuế,
đảm bảo nguồn thu Ngân sách Nhà nước, chống thất thoát, chiếm dụng nguồn
thu Ngân sách Nhà nước, bảo đảm sự bình đẳng, công bằng cho người nộp
thuế, đồng thời để nâng cao ý thức trách nhiệm của người nộp thuế trong thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Ngân sách Nhà nước.
b. Các nội dung cơ bản của công tác quản lý nợ thuế:
Để đạt được mục tiêu trên, công tác quản lý nợ thuế phải thực hiện các
nội dung cơ bản sau:
- Thống kê và nắm bắt đầy đủ tình hình nợ thuế của người nộp thuế, số

thuế phải nộp, số thuế đã nộp của người nộp thuế. Với nội dung này, công tác

quản lý nợ thuế phải theo dõi được toàn bộ số thuế ghi thu, số thuế đã thu, số
thuế còn nợ tại một cơ quan thuế trong một thời kỳ nhất định. Nội dung này
đòi hỏi bộ phận quản lý nợ thué phải phản ánh được danh mục nợ thuế của một
thời kỳ nhất định và lũy kế số thuế nợ của toàn bộ người nộp thuế và từng
người nộp thuế đối với những khoản thu và tất cả các khoản thu tại một cơ
quan thuế ở một thời điểm nhất định.
- Phân tích và đánh giá thực trạng nợ thuế thông qua việc phân loại nợ

thuế, phân tích các nguyên nhân nợ thuế,… Nội dung này đòi hỏi bộ phận

16


quản lý nợ của cơ quan thuế phải đánh giá được thực trạng nợ bằng cách chỉ rõ
diễn biến nợ trong những thời kỳ nhất định để thấy được công tác quản lý nợ
tốt lên hay xấu đi, thấy được tuổi nợ, mức nợ, loại nợ theo từng tiêu chí phân
loại. Đặc biệt, công tác này cần làm rõ được nguyên nhân chủ quan và khách
quan của tình hình nợ thuế nói chung và lý do nợ thuế trong những trường hợp
cụ thể để có biện pháp cải tiền quản lý và đôn đốc thu nợ phù hợp.
- Thực hiện các biện pháp nhắc nhở, đôn đốc nộp tiền thuế và các khoản

thu khác do cơ quan thuế quản lý. Vì mục tiêu của quản lý nợ thuế là phải đảm
bảo thu hồi số thuế nợ, do vậy, nội dung không kém phần quan trọng của công
tác quản lý nợ thuế là phải nhắc nhở, đôn đốc bằng các hình thức cụ thể do
pháp luật quy định để người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình,
chẳng hạn như nhắc nhở qua điện thoại hoặc ra những thông báo bằng văn bản
về việc nợ thuế,…
- Thực hiện các biện pháp cưỡng chế thuế:

Cưỡng chế thuế là việc cơ quan quản lý thuế và các cơ quan bảo vệ pháp

luật áp dụng các biện pháp buộc người nộp thuế phải thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế.
Trong quá trình quản lý nợ thuế cũng có thể xảy ra trường hợp người
nộp thuế cố tình không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Khi đó, cơ quan thuế sẽ
ban hành các quyết định hành chính thuế yêu cầu người nộp thuế thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế. Nếu người nộp thuế không tuân thủ các quyết định hành
chính thuế này thì cần tổ chức cưỡng chế thuế, buộc người nộp thuế thi hành
các quyết định hành chính thuế theo quy định của pháp luật.
Để đảm bảo mục tiêu buộc người nộp thuế tuân thủ quyết định hành
chính thuế, công tác cưỡng chế thuế có nội dung cơ bản là thông báo cho
người nộp thuế biết trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ thuế và những hậu
quả có thể phải chịu nếu không thực hiện nghĩa vụ thuế. Đồng thời, bằng các

17


biện pháp cưỡng chế như: trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế tại
kho bạc Nhà nước, ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; khấu trừ một
phần tiền lương hoặc thu nhập; kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo
quy định của pháp luật để thu đủ tiền thuế, tiền phạt; thu tiền, tài sản khcas của
đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế do tổ chức, cá
nhân khác đang nắm giữ; dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa nhập
khẩu; thu hồi mã số thuế; đình chỉ việc sử dụng hóa đơn; thu hồi giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành
nghề.
c. Đặc trưng của quan hệ quản lý nợ thuế:
- Chủ thể trong quan hệ quản lý nợ thuế là các cơ quan quản lý thuế của

Nhà nước.
Cơ quan quản lý thuế ở Việt Nam bao gồm cơ quan thuế và cơ quan hải

quan. Cơ quan thuế gồm: tổng cục thuế, cục thuế, chi cục thuế. Cơ quan hải
quan gồm: tổng cục hải quan, cục hải quan, chi cục hải quan.
Quy trình quản lý thu nợ thuế được áp dụng cho cơ quan thuế các cấp để
quản lý đôn đốc thu nộp thuế, phí, lệ phí và các khoản nộp khác theo quy định
tại văn bản quy pháp pháp luật về thuế, phí, lệ phí (quy định tại mục III, Quyết
định số 477/QĐ-TCT ngày 15 tháng 5 năm 2008). Như vậy, theo quy định trên,
cơ quan thuế - chủ thể quản lý nợ thuế là cơ quan trực tiếp quản lý các đối
tượng.
- Đối tượng chịu sự quản lý nợ thuế là người nộp thuế chưa thực hiện

nghĩa vụ nộp thuế và các tổ chức, cá nhân có liên quan.
- Khách thể của quan hệ quản lý nợ thuế là các khoản tiền thuế quá hạn

nộp mà người nộp thuế chưa nộp cho Ngân sách Nhà nước.
- Bản chất quản lý nợ thuế là quản lý hành chính nhà nước về nợ thuế.

18


- Biện pháp quản lý nợ thuế bao gồm: biện pháp cưỡng chế hành chính

kết hợp với tuyên truyền, hỗ trợ, giáo dục, thuyết phục.
1.2. Khái quát pháp luật về quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành nghĩa
vụ nộp thuế:
1.2.1. Vai trò của pháp luật trong quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành
nghĩa vụ nộp thuế:
Quản lý nợ thuế là công việc liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân. Đặc
biệt, hiện nay, tình trạng thất thu thuế, nợ đọng thuế còn diễn ra ở nhiều sắc
thuế, nhiều địa phương. Từ năm 2004, khi thực hiện cơ chế người nộp thuế tự
tính, tự khai, tự nộp thuế, vai trò của người nộp thuế đã được đề cao hơn. Theo

đó, người nộp thuế tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của
mình, cơ quan quản lý thuế tập trung vào thực hiện các chức năng tuyên
truyền, hỗ trợ, kiểm tra, giám sát người nộp thuế.
Vì vậy, pháp luật quản lý thuế nói chung và quản lý nợ thuế nói riêng
với các quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế, quyền và
trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, các thủ tục hành chính về thuế, thời gian
giải quyết các công việc về thuế càng trở nên cần thiết để nâng cao tính tuân
thủ của người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế, khắc phục các hạn chế của công
tác quản lý thuế và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc ban hành và thực thi pháp luật về quản lý nợ thuế sẽ góp phần đem
lại những lợi ích cụ thể sau:
Thứ nhất, cơ quan thuế nắm bắt được chính xác tình hình thực hiện
nghĩa vụ của người nộp thuế, thúc đẩy người nộp thuế nộp các khoản thuế đầy
đủ, kịp thời vào Ngân sách Nhà nước, đảm bảo thu hồi tối đa số nợ cũ, hạn chế
số nợ mới phát sinh, hoàn thành chỉ tiêu thu nợ mà Nhà nước giao.
Thứ hai, góp phần đảm bảo công bằng xã hội khi các cơ sở kinh doanh
cùng phát sinh nghĩa vụ thuế thì phải nộp vào Ngân sách Nhà nước. Cưỡng

19


×