Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội theo luật tố tụng hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh đắk lắk)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.43 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ HỮU SOÁI

CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ
CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
(trấn cơ sở số liệu thực tiễn địa bÀn tỉnh đắk lắk)

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN ĐỨC PHÚC

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Dưới sự dẫn dắt và giúp đỡ của Tiến sĩ Nguyễn Đức Phúc.
Các số liệu, ví dụ minh họa và các trích dẫn trong luận văn bảo đảm
độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những tài liệu tham khảo sử
dụng trong bài viết đều được trích dẫn rõ ràng, cụ thể và những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TÁC GIẢ CỦA LUẬN VĂN

Lê Hữu Soái




MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN PHẠM TỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ...................................................................................................... 9
1.1.

Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên phạm tội và
quan điểm xử lý người chưa thành niên phạm tội........................................ 9

1.1.1.

Khái niệm người chưa thành niên phạm tội.................................................... 9

1.1.2.

Đặc điểm người chưa thành niên phạm tội.................................................... 12

1.1.3.

Quan điểm xử lý người chưa thành niên phạm tội..................................... 16


1.2.

Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn
đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội........................22

1.2.1.

Khái niệm các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là
người chưa thành niên phạm tội........................................................................ 22

1.2.2.

Đặc điểm các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là
người chưa thành niên phạm tội........................................................................ 26

1.2.3.

Ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là
người chưa thành niên phạm tội........................................................................ 32

1.3.

Quá trình phát triển quy định pháp luật về các biện pháp
ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên
phạm tội theo quy định của luật tố tụng hình sự......................................... 34


1.3.1.


Quy định pháp luật về các biện pháp ngăn chặn đối với bị can,
bị cáo là người chưa thành niên phạm tội theo quy định của luật
tố tụng hình sự từ năm 1945 đến năm 1988

1.3.2.

34

Quy định pháp luật về các biện pháp ngăn chặn đối với bị can,
bị cáo là người chưa thành niên phạm tội theo quy định của luật
tố tụng hình sự từ năm 1988 đến hiện nay

37

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1...................................................................................................... 40
Chương 2: TÌNH HÌNH CÓ LIÊN QUAN VÀ THỰC TRẠNG ÁP
DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI BỊ CAN,
BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK
2.1.

41

Tình hình có liên quan đến áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội theo
quy định của Luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 41

2.1.1.


Tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật trên phạm vi
toàn quốc

2.1.2.

Tình hình bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk

2.2.

41
42

Thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can,
bị cáo là người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk

46

2.2.1.

Thực trạng áp dụng biện pháp bắt người........................................................ 46

2.2.2.

Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giữ........................................................... 51

2.2.3.

Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam........................................................ 54


2.2.4.

Thực trạng áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.............................. 57

2.2.5.

Thực trạng áp dụng biện pháp bảo lĩnh.......................................................... 58

2.2.6.

Thực trạng áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để
bảo đảm

60


2.3.

Nhận xét, đánh giá về áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
với bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội theo quy
định của Luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk........................ 61

2.3.1.

Những ưu điểm đạt được...................................................................................... 61

2.3.2.

Một số hạn chế tồn tại........................................................................................... 63


2.3.3.

Nguyên nhân của hạn chế tồn tại....................................................................... 65

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2...................................................................................................... 80
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI
BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK............................................................................... 81
3.1.

Phương hướng nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên.....................81

3.1.1.

Phương hướng hoàn thiện pháp luật về tố tụng hình sự liên quan
đến áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là
người chưa thành niên phạm tội........................................................................ 81

3.1.2.

Một số phương hướng cụ thể.............................................................................. 83

3.2.

Giải pháp nâng cao hiệu áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội........................84


3.2.1.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan tới áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên
phạm tội...................................................................................................................... 84

3.2.2.

Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên
phạm tội...................................................................................................................... 92

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3...................................................................................................... 96
KẾT LUẬN................................................................................................................................ 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................. 100


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

TNHS:

Trách nhiệm hình sự


TTHS:

Tố tụng hình sự

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1. Tổng hợp số bị can, bị cáo là người chưa thành
niên phạm tội xâm phạm sở hữu trong năm 20102014 bị khởi tố, truy tố trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

44

Bảng 2.2. Tổng hợp số bị can, bị cáo là người chưa thành
niên phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm trong năm 2010-2014 bị
khởi tố, truy tố trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

45

Bảng 2.3. Tổng hợp số người chưa thành niên phạm tội bị
áp dụng biện pháp tạm giữ từ năm 2010 đến 2014


52

Bảng 2.4. Tổng hợp kết quả tạm giam bị can, bị cáo từ 2010-2014
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

55


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế hệ trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước. Chăm sóc, giáo dục thế hệ
trẻ không chỉ dừng lại ở nghĩa vụ của cha mẹ, gia đình mà là trách nhiệm của
toàn xã hội, là sự nghiệp của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Là quốc gia
thứ hai trên thế giới (sau Ga-na) và quốc gia đầu tiên ở Châu Á phê chuẩn
Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989, Việt Nam đã và đang nỗ lực hết
mình trong sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ, theo tư tưởng
của thời đại: “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Tư tưởng này đã trở thành
nguyên tắc hiến định trong Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em”; “Nghiêm cấm xâm hại, hành
hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác
vi phạm quyền trẻ em”. Đặc biệt, đối với người chưa thành niên phạm tội,
trách nhiệm của nhà nước, của xã hội lại càng phải được chú trọng hơn bao giờ
hết nhằm răn đe, xử lý và quan trọng là giáo dục họ trở thành những cá nhân có
ích cho xã hội.
Theo thống kê của Tòa án nhân dân tối cao, trung bình mỗi năm có
khoảng 100.000 vụ án hình sự thì số người chưa thành niên phạm tội chiếm
gần 20%, số bị cáo là người chưa thành niên bị tuyên phạt tù có thời hạn mỗi
năm chiếm từ 51 đến 56,7%; tỷ lệ tái phạm (phạm tội từ lần thứ hai trở lên) vẫn

rất cao, chiếm đến 44,8%. Tình hình tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên ngày
càng gia tăng về số lượng và tính chất mức độ nguy hiểm, gây không ít khó
khăn cho cơ quan điều tra, xét xử khi thực hiện tố tụng, trong đó có việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS.
Là một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, trong thời gian qua, tình hình

1


thanh thiếu niên vi phạm pháp luật nói chung và phạm tội nói riêng trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk đang trở thành nỗi nhức nhối của xã hội, với số lượng ngày tăng, tổ
chức ngày càng nghiêm trọng, phức tạp. Theo số liệu thống kê của ngành chức
năng, trong năm 2010, đã xảy ra 254 vụ thanh thiếu niên vi phạm pháp luật, với
357 đối tượng (trong đó khởi tố 116 vụ, 163 đối tượng). Trong số các hành vi vi
phạm pháp luật do thanh thiếu niên gây ra, chủ yếu là các hành vi vi phạm liên
quan đến tài sản, như: cưỡng đoạt, cướp, trộm cắp, cướp giật tài sản là 127 vụ,
194 đối tượng (trong đó có 64 vụ, 94 đối tượng bị khởi tố); cố ý gây thương tích là
81 vụ, 110 đối tượng (trong đó có 33 vụ, 47 đối tượng bị khởi tố); đáng chú ý là
thanh thiếu niên gây ra 07 vụ giết người, 04 vụ hiếp dâm…. Những con số

trên đã phần nào phản ánh được thực tế phức tạp về tình hình tội phạm, trong
đó có tội phạm là người chưa thành niên trên địa bàn.
Ứng phó với tình hình đó, bên cạnh việc không ngừng đấu tranh phòng
chống các loại tội phạm thì việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bị can, bị
cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự trên địa bàn
tỉnh Đắc Lắk cũng được chú trọng thực hiện nhằm đảm bảo cho quá trình phát
hiện nhanh chóng, chính xác, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm
tội, tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình; bảo đảm việc giải quyết vụ án được
khách quan và đúng đắn. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các biện pháp
ngăn chặn quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) đối với bị can, bị

cáo nói chung và bị can, bị cáo là người chưa thành niên nói riêng trên địa bàn
vẫn còn những hạn chế nhất định, hậu quả dẫn đến bỏ lọt tội phạm, làm oan
người vô tội, vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, xâm phạm đến
các quyền cơ bản của công dân, gây bức xúc dư luận.
Biện pháp ngăn chặn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung
và hoạt động điều tra nói riêng là một chế định quan trọng trong pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam. Kể từ khi được quy định tại BLTTHS, đã có nhiều

2


công trình khoa học, các đề tài, bài viết chuyên đề đề cập đến đến lĩnh vực này.
Cũng có một vài luận văn thạc sỹ đề cập đến lĩnh vực áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội nhưng nhìn chung, các đề
tài, bài viết chủ yếu phân tích trên phương diện lý luận những quy định của
pháp luật về biện pháp ngăn chặn mang tính chung chung, không đi sâu vào
một nhóm đối tượng cụ thể nào hoặc tập trung vào những vướng mắc tại địa
phương cụ thể. Đặc biệt, vấn đề áp dụng các lý luận về biện pháp ngăn chặn
đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên, thực tiễn tại tỉnh Đắk Lắk thì
chưa có bất kỳ nghiên cứu nào đề cập đến.
Trước thực trạng đó, việc nắm vững các quy định về các biện pháp ngăn
chặn trong BLTTHS, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng trên địa bàn tỉnh vận dụng tốt vào thực tiễn công tác, tránh những vi phạm
đáng tiếc xảy ra, đồng thời nâng cao được hiệu quả trong việc ngăn chặn người
chưa thành niên phạm tội là yêu cầu tất yếu và cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Các biện pháp
ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội theo Luật
tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk”
làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Là một nội dung quan trọng trong luật tố tụng hình sự, các biện pháp
ngăn chặn đối với bị can, bị cáo luôn là đề tài thu hút được nhiều nhà quản lý,
các chuyên gia về pháp luật tố tụng quan tâm, nghiên cứu. Những năm gần
đây, tiêu biểu có một số công trình nghiên cứu về lĩnh vực này như sau:
- Về sách tham khảo, giáo trình:
+ Giáo trình “Chiến thuật điều tra hình sự” của Học viện Cảnh sát nhân
dân, Nhà xuất bản Công an nhân dân (1986);
+ Sách tham khảo “Những điều cần biết về bắt, giữ, khám xét” của
Phạm Quang Mỹ, Phạm Hữu Kỳ - Nhà xuất bản CAND (1983);
3


+ “Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam... đúng pháp luật”
của Phạm Thanh Bình, Nguyễn Vạn Nguyên - Nhà xuất bản Pháp lý (1990);

+ “Các biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam” của
Nguyễn Mai Bộ - Nhà xuất bản CAND (1997).
- Đề tài nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn có:
+ Luận văn thạc sĩ Luật học “Các hình phạt và biện pháp tư pháp áp
dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam (trên
cơ sở nghiên cứu số liệu thực tế trên địa bàn thành phố Hà Nội)” của Lưu
Ngọc Cảnh;
+ Luận văn thạc sỹ “Áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người
chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hà Tây của cơ quan cảnh sát điều
tra” của tác giả Nguyễn Văn Hoàng – Học viện Cảnh sát nhân dân (2008)
- Các chuyên đề, ý kiến chuyên gia trên các tạp chí chuyên ngành:
+ Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên: Những khía cạnh
pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học, Lê Cảm,
Đỗ Thị Phượng (2004), Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20, 10/2004;
+ Một số ý kiến về chính sách hình sự đối với người chưa thành niên

phạm tội trong Bộ luật hình sự 1999, Nguyễn Mai Bộ (2001), Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 4/2001 và nhiều chuyên đề, bài viết khác.
Mặc dù, việc nghiên cứu của các công trình trên đây diễn ra ở nhiều cấp độ
và bình diện khác nhau nhưng mới chỉ khai thác được mốt số vấn đề về cách thức,
phương pháp áp dụng các biện pháp ngăn chặn, các công trình khoa học cũng chỉ
đề cập một cách tổng thể trong phạm vi rộng mà chưa đề cập đến những khó khăn
vướng mắc cũng như các giải pháp cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chăn đối
với người chưa thành niên phạm tội ở địa bàn cụ thể như tỉnh Đắk Lắk và với
những đặc trưng riêng của địa phương. Mặt khác, qua thực tiễn áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo hiện nay đã và đang

4


gặp không ít vướng mắc trong cả quy định pháp luật và áp dụng hình phạt này
đối với người chưa thành niên phạm tội.
Do đó, vấn đề áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là
người chưa thành niên theo quy định của BLTTHS cần được tiếp tục nghiên
cứu góp phần làm sáng tỏ những quy định đó qua thực tiễn trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk, nhằm hoàn thiện quy định pháp luật và quá trình thực hiện, làm cơ
sở, kinh nghiệm áp dụng chung cho các địa phương khác trong phạm vi toàn
quốc và phù hợp với các tiêu chuẩn về chính sách hình sự đối với người chưa
thành niên của quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích các khái niệm liên quan và một số vấn đề lý luận, nội dung
của các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên
được quy định BLTTHS; làm rõ vai trò lý luận và ý nghĩa thực tiễn trong việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội và
quá trình phát triển quy định pháp luật về các biện pháp ngăn chặn đối với bị

can, bị cáo là người chưa thành niên phạm tội theo quy định của luật tố tụng
hình sự.
- Đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị
cáo là người chưa thành niên theo quy định của BLTTHS trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk nhằm phát hiện những khó khăn, vướng mắc và thiếu sót trong quá trình
áp dụng của các cơ quan tiến hành tố tụng; từ đó đề xuất những giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can,
bị cáo là người chưa thành niên tại địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu làm rõ nhận thức chung về các biện pháp ngăn chặn và
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là người chưa
thành niên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
5


- Khảo sát, đánh giá việc áp việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối
với bị can, bị cáo là người chưa thành niên được quy định trong BLTTHS của
các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Rút ra những kết quả đạt được, những tồn tại, thiếu sót, khó khăn,
vướng mắc trong các quy định về biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng
hình sự và việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là người
chưa thành niên.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn
chặn đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên nói riêng và người thành
niên nói chung trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, làm cơ sở, kinh nghiệm áp dụng cho
các địa phương khác trên phạm vi cả nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn dưới góc độ khoa học
pháp lý nhằm hoàn thiện việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can,

bị cáo là người chưa thành niên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan tới đề tài nghiên cứu.
- Về chủ thể: Luận văn nghiên cứu việc áp dụng biện pháp ngăn chặn
của cơ quan có thẩm quyền đối với đối tượng là bị can, bị cáo là người chưa
thành niên phạm tội.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu vấn đề áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên phạm các tội xâm
phạm sở hữu; tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự con
người trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
- Về thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2014.

6


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình
sự của Nhà nước đối với người chưa thành niên phạm tội và về công tác đấu
tranh phòng chống các tội phạm do người chưa thành niên phạm tội thực hiện.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận, Luận văn sử dụng các phương pháp phân
tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê và
một số phương pháp khác để tiếp cận, nghiên cứu những vấn đề thuộc nội
dung của đề tài.
Luận văn cũng kế thừa, tham khảo một số tài liệu, một số cuộc khảo sát,
các báo cáo liên quan đến lĩnh vực áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị can,
bị cáo là người chưa thành niên, tham khảo ý kiến của các cán bộ làm công tác

nghiên cứu, đồng nghiệp hoạt động thực tiễn, tham khảo các tài liệu về tố tụng
hình sự.
6. Đóng góp về khoa học của đề tài
Luận văn đã hệ thống hóa một cách toàn diện về biện pháp ngăn chặn bị
can, bị cáo là người chưa thành niên theo quy định của BLTTHS; tổng hợp,
đánh giá, tìm ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân tồn tại, thiếu sót cũng như các
kết quả đạt được trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn bị can, bị
cáo là người chưa thành niên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk; đồng thời đưa ra
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn bị can, bị cáo là người chưa thành niên theo quy định của BLTTHS.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần hệ thống hóa một cách đầy
đủ, toàn diện về mặt lý luận đối với vấn đề áp dụng các biện pháp ngăn chặn bị

7


can, bị cáo là người chưa thành niên theo quy định của BLTTHS. Đồng thời,
Luận văn cũng chỉ rõ được mặt đã làm được, đánh giá những tồn tại, thiếu sót
trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo BLTTHS trong thực tiễn
tại tỉnh Đắk Lắk. Qua đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật
tố tụng hình sự về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo
là người chưa thành niên, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống
tội phạm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, nâng cao niềm tin của
nhân dân với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tiến hành tố tụng.
Với những kết quả đã đạt được, Luận văn còn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo, nghiên cứu cho tất cả cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống cơ
quan tố tụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng và cơ quan tiến hành tố tụng
trên phạm vi toàn quốc cũng như làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy,
học tập, nghiên cứu hoặc bất kỳ ai quan tâm đến lĩnh vực này.

8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về các biện pháp ngăn chặn đối với bị can,
bị cáo là người chưa thành niên phạm tội theo quy định của
BLTTHS.
Chương 2: Tình hình có liên quan và thực trạng áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên
phạm tội theo quy định của Luật tố tụng hình sự trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo là người chưa
thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.

8


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI BỊ CAN,
BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI THEO QUY ĐỊNH
CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm người chưa thành niên phạm tội và quan điểm
xử lý người chưa thành niên phạm tội
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
Người chưa thành niên phạm tội là một vấn đề phổ biến ở tất cả các
nước trên thế giới bất kể nước đó có thể chế chính trị như thế nào. Vấn đề
người chưa thành niên phạm tội đang là mối lo ngại chung cho mọi xã hội và
toàn cầu. Song hiểu thế nào là người chưa thành niên thì mỗi quốc gia lại có
một quan niệm khác nhau, điều đó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế văn hóa - xã hội, dân trí, phong tục, tập quán của mỗi nước.
Trước hết cần hiểu thế nào là “người chưa thành niên”? Mặc dù đã được

đề cập tới trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế và văn bản pháp luật của
nhiều quốc gia, song ở mỗi văn kiện cũng tồn tại những tên gọi khác nhau:
người chưa thành niên, trẻ vị thành niên và trẻ em. Pháp luật ở mỗi quốc gia
cũng có những tiêu chí cụ thể quy định về người chưa thành niên khác nhau.
Tuy nhiên, đa số các quốc gia đều xác định người chưa thành niên dựa trên độ
tuổi và sự phát triển về tâm sinh lý của người đó.
Điều kiện về độ tuổi: Theo pháp luật quốc tế, Công ước quốc tế về
quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989, tại
Điều 1 quy định như sau: "Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa
là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em đó quy
định tuổi thành niên sớm hơn" [26]. Như vậy độ tuổi của trẻ em được pháp luật
quốc tế quy định là "người dưới 18 tuổi" và là "người còn non nớt

9


về thể chất cần được chăm sóc và bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng
như sau khi ra đời".
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lứa tuổi 10 - 19 tuổi là độ tuổi vị
thành niên. Thanh niên trẻ là lứa tuổi 19 - 24 tuổi. Chương trình Sức khỏe sinh
sản/Sức khỏe tình dục vị thành niên - thanh niên của khối Liên minh châu Âu
(EU) và Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) lấy độ tuổi 15 - 24 tuổi.
Bên cạnh Công ước về quyền trẻ em thì Quy tắc tối thiểu phổ biến của
Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật với người chưa thành niên hay còn
gọi là Quy tắc Bắc Kinh (United Nations Standard Minimum Rules for the
Administration of Juvenile Justice /Beijing Rules) do Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 29/11/1985 cũng là một văn bản pháp luật quốc tế quan
trọng đề cập đến khái niệm "người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi" như
là một sự kế thừa của Công ước về Quyền trẻ em. Quy tắc Riát về phòng ngừa
phạm pháp ở người chưa thành niên được Liên hợp quốc thông qua ngày

14/12/1990 mặc dù không đưa ra một khái niệm cụ thể về khái niệm người
chưa thành niên, song thông qua các quy định cũng giúp chúng ta hiểu người
chưa thành niên là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, do sự phát triển của từng
quốc gia khác nhau, nên khái niệm người chưa thành niên ở các quốc gia cũng
khác nhau, bên cạnh việc đưa ra khái niệm này thì Công ước về Quyền trẻ em
vẫn còn những điều khoản để ngỏ cho các nước quy định về độ tuổi cho người
chưa thành niên, thậm chí ngay trong một quốc gia các văn bản pháp luật cũng
quy định không thống nhất về vấn đề này.
Theo Từ điển tiếng Việt thì khái niệm người chưa thành niên được định
nghĩa như sau: "Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ, toàn
diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ
công dân" [59].
Khái niệm “người chưa thành niên” xuất hiện trong nhiều ngành luật

10


của pháp luật Việt Nam. Các ngành luật sử dụng khái niệm này như Luật Dân
sự, Luật Hình sự, Luật Lao động, Luật Hành chính… Điều 18 Bộ luật Dân sự
2005 nêu định nghĩa về người chưa thành niên: “Người chưa đủ mười tám tuổi
là người chưa thành niên” [41]. Trên cơ sở khái niệm được đã đưa ra, Bộ luật
Dân sự cũng quy định năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ
mười sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi và người chưa đủ mười sáu tuổi là
người không có năng lực hành vi dân sự. Bộ luật Hình sự trên cơ sở cách hiểu
đồng nhất với quan điểm của Bộ luật Dân sự, tuy không đưa ra khái niệm thế
nào là người chưa thành niên, nhưng có quy định về trách nhiệm hình sự đối
với người chưa thành niên từ đủ mười bốn tuổi đến dưới mười sáu tuổi phải
chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng; từ đủ mười sáu tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình
sự về mọi tội phạm. Như vậy trong pháp luật Việt Nam, căn cứ để xác định một

người chưa thành niên dựa vào độ tuổi được xác định của người đó, cụ thể là
người dưới 18 tuổi. Quan niệm này cũng hoàn toàn phù hợp với Công ước
quốc tế về quyền trẻ em mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên.
Điều kiện về sự phát triển thể chất và nhân cách: Người chưa thành niên
là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm sinh lý. Chính vì vậy người
chưa thành niên thường có những hành động bồng bột, thiếu kinh nghiệm, xốc
nổi, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, thiếu chính xác, thiếu kinh nghiệm,
dễ va vấp. Do đó môi trường sống có tác động rất mạnh mẽ đến quá trình hình
thành nhân cách cũng như các phẩm chất khác thuộc về nhân thân. Nếu người
chưa thành niên được sống trong một môi trường được giáo dục tốt của gia
đình, nhà trường và xã hội thì họ sẽ có điều kiện để phát triển cả về thể chất và
tinh thần để trở thành người có ích cho xã hội. Nhưng ngược lại, họ dễ tiếp thu
những thói hư, tật xấu, dễ bị tha hóa về nhân cách và cũng dễ bị kích động, lôi
kéo tham gia vào những hành vi phạm pháp.
11


Trong luật hình sự Việt Nam, khái niệm người chưa thành niên được nhà
làm luật sử dụng với tư cách vừa là đối tượng tác động của tội phạm vừa là chủ
thể thực hiện tội phạm. Với tư cách là chủ thể của tội phạm, người chưa thành
niên phạm tội là khái niệm không chỉ mang tính pháp lý mà còn có ý nghĩa
chính trị xã hội sâu sắc. Bộ luật Hình sự 1999 quy định người chưa thành niên
“là những người chưa đủ 18 tuổi”, nhưng chỉ những người chưa thành niên từ
đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi mới có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về hành
vi nguy hiểm cho xã hội, còn người chưa thành niên dưới 14 tuổi thì không
phải chịu trách nhiệm hình sự. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16
tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu
trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Đồng thời, luật hình sự Việt Nam cũng

đưa ra khái niệm người chưa thành niên phạm tội chỉ bao gồm những người từ
đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội được quy định trong luật hình sự là tội phạm.
Từ những phân tích trên có thể đưa ra định nghĩa về người chưa thành
niên phạm tội như sau:
Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự
và họ phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình theo quy định của
pháp luật hình sự.
1.1.2. Đặc điểm người chưa thành niên phạm tội
Trên cơ sở khái niệm nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm đối với đối
tượng người chưa thành niên phạm tội như sau:
Người chưa thành niên phạm tội là người chưa phát triển đầy đủ về thể
chất, tâm lý và có năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ.
Năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng của một người ở thời điểm

12


thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính nguy hiểm cho xã
hội của hành vi mà mình thực hiện và điều khiển được hành vi đó. Cùng với sự
phát triển về thể chất, trí tuệ, sự giáo dục và tích lũy kinh nghiệm sống, khi đạt
đến độ tuổi nhất định, người ta mới nhận thức được đầy đủ các đòi hỏi và
chuẩn mực xã hội và điều khiển được hành vi của mình theo các chuẩn mực
đó. Để đạt được sự nhận thức đó cần phải có độ tuổi nhất định mới có khả năng
chịu trách nhiệm hình sự.
Ở độ tuổi của người chưa thành niên (dưới 18 tuổi), đặc điểm tâm sinh
lý phổ biến nhất là nồng nhiệt, hành động thường bồng bột, xốc nổi, nhẹ dạ,
thiếu kinh nghiệm sống, dễ sa ngã. Tuy hoàn cảnh và mức độ phát triển của
từng người là khác nhau nhưng nhìn chung, đây là thời kỳ chuyển tiếp từ lứa

tuổi trẻ em sang lứa tuổi người lớn. Giai đoạn này là giai đoạn nhạy cảm, chỉ
cần môi trường hoặc yếu tố bên ngoài, hoàn cảnh gia đình có thể dẫn đến việc
người chưa thành niên phạm tội. Cũng bởi đặc điểm về tâm sinh lý, thể chất
chưa phát triển toàn diện mà pháp luật xếp họ vào nhóm đối tượng đặc biệt, có
năng lực chịu trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ so với người thành niên.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều hành vi phạm tội có tính chất đặc biệt
nguy hiểm cho xã hội nhưng những người chưa thành niên chỉ có năng lực
nhận thức còn non nớt. Do vậy, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử cần chú
ý đến đặc điểm nhân thân thân của nhóm đối tượng này để xác định, đảm bảo
chính sách hình sự của Nhà nước đối với người chưa thành niên, vừa đảm bảo
tính nghiêm minh của pháp luật.
Người chưa thành niên phạm tội phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
đối với hành vi phạm tội của mình
Một người có hành vi vi phạm pháp luật thuộc các tội được quy định
trong pháp luật hình sự thì hành vi đó được coi là phạm tội. Tuy nhiên, mức độ
xem xét để truy cứu trách nhiệm hình sự hay xử lý bằng các biện pháp

13


hành chính, xác định mức độ xử lý hình sự ra sao lại phụ thuộc vào các điều
kiện nhất định do pháp luật quy định. Về người chưa thành niên phạm tội,
pháp luật của các quốc gia đều quy định trách nhiệm đối với hành vi phạm tội
mà họ gây ra. Tuy nhiên, mức độ xử lý luôn nhẹ hơn so với mức độ áp dụng
đối với hành vi vi phạm tương tự của người đã thành niên.
Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định: "Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng
chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý
hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Căn cứ vào tính chất nguy hiểm của hành vi và mức độ lỗi của người

phạm tội, luật hình sự Việt Nam đã quy định rõ hai mức độ tuổi khác nhau:
+ Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm. Như vậy, tuy chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ nhưng
người chưa thành niên phạm tội phải chịu trách nhiệm đối với hành vi phạm tội
của mình gây ra theo pháp luật hình sự.
Người chưa thành niên phạm tội không chỉ là chủ thể của hành vi phạm
tội mà còn là sản phẩm của xã hội
Cũng giống như người đã thành niên phạm tội, việc xem xét hành vi
phạm tội của người chưa thành niên có phải là tội phạm hay không phải là tội
phạm thì điều cần thiết là chúng ta phải xem xét đến các dấu hiệu cơ bản của
tội phạm. Tại Khoản 1 Điều 8 BLHS Việt nam 1999 quy định về các dấu hiệu
tội phạm như sau:
+ Hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS.
+ Do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện cố ý hay vô ý.
+ Xâm phạm đến những quan hệ xã hội được luật hình sự Nhà nước bảo vệ.

14


+ Cần xử lý bằng hình phạt đối với người thực hiện hành vi xâm phạm
đến các lợi ích được luật hình sự bảo vệ.
Khi thoả mãn các dấu hiệu này thì hành vi nguy hiểm cho xã hội mới có
thể được coi là tội phạm. Do đó, khi một người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi
có các điều kiện như trên thực hiện các hành vi quy định trong BLHS được
xem là người chưa thành niên phạm tội.
Với người chưa thành niên, sự hiểu biết về pháp luật còn rất hạn chế,
nông cạn, thiếu chính xác, phiến diện và thiếu hệ thống. Sự hiểu biết của họ về
các mặt của đời sống xã hội chưa đủ để có thể lựa chọn và quyết định cách xử

sự phù hợp với chuẩn mực xã hội. Họ chịu tác động rất lớn từ môi trường sống.
Sự hình thành nhân cách và phát triển nhân cách cũng như các đặc điểm nhân
thân khác của người chưa thành niên bị chi phối và quy định bởi giáo dục gia
đình, nhà trường và xã hội. Điều kiện phái sinh thuộc về trách nhiệm gia đình,
nhà trường và xã hội là một trong những nguyên nhân tác động đến hành vi
phạm tội của người chưa thành niên. Do đó, luật quy định các cơ quan tiến
hành tố tụng không những phải xác định nhận thức của người chưa thành niên
về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà còn phải xác định
nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội, trên cơ sở đó, phát huy được tác dụng
của việc xử lý đấu tranh chống tình trạng phạm tội trong lứa tuổi chưa thành
niên.
Người chưa thành niên phạm tội có nhiều khả năng tiếp thu sự giáo
dục, cải tạo nếu có biện pháp tổ chức thích hợp
Cũng chính yếu tố chưa phát triển một cách toàn diện về tâm lý, nhận
thức mà họ có thể được cải tạo, giáo dục và hướng thiện một cách tốt hơn.
Nắm được đặc điểm này, từ đó Nhà nước có các biện pháp tư pháp, hình phạt
cũng như chính sách nhằm giáo dục phòng ngừa, xử lý hình sự phù hợp. Cũng
chính đặc điểm này mà xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên đều

15


dựa trên nguyên tắc nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển
lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội; việc truy cứu trách nhiệm
hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ chỉ
được thực hiện trong những trường hợp cần thiết và phải tuân thủ nghiêm ngặt
quy định pháp luật hình sự quy định về vấn đề này.
1.1.3. Quan điểm xử lý người chưa thành niên phạm tội
Người chưa thành niên phạm tội là những người đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi có hành vi vi phạm các quy định của Bộ luật Hình sự và họ phải chịu trách

nhiệm hình sự về hành vi của mình theo quy định của pháp luật hình sự. Khi
người chưa thành niên có hành vi phạm tội thì Nhà nước bao giờ cũng đặt vấn
đề giải quyết trách nhiệm pháp lý của họ trong mối quan hệ với trách nhiệm
giáo dục, quản lý của xã hội, của gia đình và nhà trường trong mọi trường hợp
điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên. Các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây
ra tội phạm.
Chính vì vậy việc xử lý những hành vi phạm tội do người chưa thành
niên thực hiện cần phải được xem xét kỹ lưỡng nhằm phù hợp và thể hiện
được tinh thần nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam và nhằm phù hợp với
tinh thần công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và các văn kiện quốc tế
có liên quan đến lĩnh vực tư pháp đối với người chưa thành niên mà Việt Nam
đã tham gia.
Trên cơ sở chính sách hình sự của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh
phòng chống tội phạm và dựa trên cơ sở những kinh nghiệm thực tiễn đấu
tranh phòng chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện cũng như các
nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam, nhà làm luật đã quy định một
cách toàn diện và thống nhất đường lối xử lý về hình sự đối với người chưa

16


thành niên phạm tội tại một chương riêng trong Bộ luật Hình sự (Chương X Phần chung). Theo đó, quan điểm định hướng của Đảng và Nhà nước ta trong
việc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội bao gồm:
Thứ nhất, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo
dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân
có ích cho xã hội.
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của
người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả

năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm [6, Điều 69].
Người chưa thành niên với đặc điểm là những người ở trong độ tuổi
chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về tâm sinh lý, đang trong quá
trình hình thành nhân cách, trình độ nhận thức, kinh nghiệm sống của họ còn
hạn chế. Những yếu tố đó ảnh hưởng tới quá trình nhận thức và hành động của
người chưa thành niên, làm cho họ khó có quyết định đúng đắn cho các hành vi
của mình. Bên cạnh đó nguyên nhân và điều kiện dẫn tới người chưa thành
niên phạm tội phần lớn do môi trường sống của họ, trong đó có một phần trách
nhiệm lớn của gia đình và xã hội.
Do vậy, việc xử lý người chưa thành niên phạm tội là nhằm giáo dục họ
ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng các quy tắc của xã hội, giúp họ nhận ra và
sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Do chưa phát triển và hoàn thiện về các mặt, cho nên không phải bất cứ trường
hợp phạm tội cụ thể nào người chưa thành niên cũng có đầy đủ năng lực trách
nhiệm hình sự, tức là có khả năng nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi mà mình thực hiện và hậu quả của nó cũng như khả năng điều
khiển hành vi đó. Thêm vào đó với mục đích là giáo dục, sửa chữa lỗi lầm của
người chưa thành niên, giúp họ nhận thức được sai

17


lầm, để từ đó có thể giáo dục, uốn nắn những hành vi không phù hợp, làm cho
họ tự giác sửa chữa để trở thành công dân có ích cho xã hội. Qua đó góp phần
đấu tranh phòng, chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện, cũng
như có những chính sách hình sự phù hợp áp dụng đối với họ khi bị xử lý. Đây
là quan điểm mang tính định hướng, bao trùm xuyên suốt toàn bộ chính sách
hình sự của Đảng, Nhà nước ta đối với người chưa thành niên phạm tội và
được thể hiện trong quá trình xử lý các vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa

thành niên.
Thứ hai, người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm
hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại
không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức
nhận giám sát, giáo dục.
Để có thể được miễn trách nhiệm hình sự trong trường hợp này cần có
các điều kiện sau:
+ Người phạm tội là người chưa thành niên.
+ Tội phạm do người chưa thành niên thực hiện phải là tội ít nghiêm trọng
hoặc tội phạm nghiêm trọng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự
1999 thì: "Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã
hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù; tội phạm
nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của
khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù" [42]. So với Bộ luật hình sự 1985,
Bộ luật hình sự 1999 đã quy định một điểm mới là người chưa thành niên phạm
tội không chỉ được miễn trách nhiệm hình sự khi phạm tội ít nghiêm trọng mà đối
với tội nghiêm trọng cũng được xem xét miễn trách nhiệm hình sự. Điều này đồng
nghĩa với việc Bộ luật Hình sự 1999 quy định theo hướng có lợi hơn cho người
chưa thành niên phạm tội. Theo đó phạm vi người chưa thành niên phạm tội có thể
được miễn trách nhiệm hình sự rộng hơn.

18


×