Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn thành phố hà nội luận văn ths luật 60 38 50

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.82 KB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI BẢO TUẤN

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI BẢO TUẤN

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thiên Hương


HÀ NỘI - 2012

2


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤN

GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI V

1.1.

Quan niệm chung về khiếu nại và giả
đất đai

1.1.1.

Quan niệm về khiếu nại và giải quyết

1.1.2.

Quan niệm giải quyết khiếu nại về đấ


1.2.

Áp dụng pháp luật trong giải quyết kh

1.2.1.

Khái niệm và đặc điểm áp dụng pháp

1.2.2.

Khái niệm và đặc điểm áp dụng pháp
khiếu nại về đất đai

1.2.3.

Những yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng
quyết khiếu nại về đất đai

1.3.

Áp dụng pháp luật trong giải quyết kh

một số địa phương - kinh nghiệm đối
1.3.1.

Kinh nghiệm áp dụng pháp luật trong
đất đai của một số địa phương

1.3.2.


Bài học kinh nghiệm đối với thành ph

4


Chương 2:

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PH

QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1.

Tình hình khiếu nại và giải quyết khiế
bàn thành phố Hà Nội

2.1.1.

Tình hình khiếu nại và nguyên nhân c
trên địa bàn thành phố Hà Nội

2.1.2.

Giải quyết khiếu nại về đất đai trên đ

2.2.

Những kết quả đạt được và những hạ

dụng pháp luật trong giải quyết khiếu
bàn thành phố Hà Nội

2.2.1.

Những kết quả đạt được

2.2.2.

Những hạn chế

2.3.

Nguyên nhân của những kết quả đạt đ
của hoạt động áp dụng pháp luật tron
đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội

2.3.1.

Nguyên nhân của những kết quả đã đ

2.3.2.

Nguyên nhân của những hạn chế

Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆ

LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT

TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PH


3.1.

Hoàn thiện các quy định của pháp luậ
về đất đai và các quy định khác có liê

3.1.1.

Hoàn thiện quy định pháp luật về giải

3.1.2.

Hoàn thiện quy định pháp luật về đất

3.1.3.

Hoàn thiện các quy định pháp luật kh

3.2.

Nâng cao năng lực, trình độ, ý thức tr
thẩm quyền áp dụng pháp luật trong g
đất đai

5


3.2.1.

Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ

công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo n
khiếu nại về đất đai nói riêng

3.2.2.

Nâng cao ý thức trách nhiệm của ngư
dụng pháp luật trong giải quyết khiếu

3.3.

Nâng cao sự hiểu biết pháp luật và ý t
của cá nhân, tổ chức thực hiện khiếu n

3.4.

Xử lý nghiêm minh những vi phạm ph
giải quyết khiếu nại về đất đai

3.4.1.

Xử lý nghiêm minh những vi phạm ph

3.4.2.

Xử lý nghiêm minh những vi phạm ph
khiếu nại về đất đai
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

10

5
108

6


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CQHCNN

: Cơ quan hành chính nhà nước

GQKN

: Giải quyết khiếu nại

GQKNTC : Giải quyết khiếu nại, tố cáo
UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

7


DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

2.1

Tổng hợp số vụ khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai

61

UBND thành phố giao Thanh tra thành phố Hà Nội xem
xét, kết luận từ năm 2003 đến năm 2010

8


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Khiếu nại núi chung, khiếu nại về đất đai nói riêng là quyền cơ bản
của công dân, thực hiện quyền khiếu nại về đất đai là một hình thức dân chủ
trực tiếp để nhân dân tham gia hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội,
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước trong lĩnh
vực đất đai.
Giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai (sau đây gọi là khiếu nại
đất đai) là trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan hành chính nhà nước
(CQHCNN). Giải quyết tốt khiếu nại về đất đai của công dân nhằm phát huy

dân chủ xã hội chủ nghĩa; góp phần đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng,
tiêu cực trong các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực đất đai; góp phần ổn định
tình hình chính trị, thúc đẩy kinh tế phát triển.
Nghị quyết số 15/2008/QH12 của Quốc hội về việc điều chỉnh địa giới
hành chính thành phố Hà Nội, ký ngày 29-5-2008 có hiệu lực từ 01-8-2008 đã
mang lại tầm vóc mới chưa từng có cho Thủ đô Hà Nội, trở thành thành phố
lớn thứ 1 trên thế giới, với diện tích 3344,6 km 2 (tăng hơn 3 lần, chiếm
khoảng 1 diện tích cả nước); dân số gần triệu người (tăng hơn 2 lần, chiếm
gần 8 dân số cả nước) và 555 đơn vị hành chính, trong đó có 29 quận, huyện
và thị xã.
Đây là sự kiện đặc biệt có tác động toàn diện đến đời sống chính trị và
phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô. Thành phố đã tập trung chỉ đạo triển khai
thực hiện nghiêm túc nghị quyết của Quốc hội, tạo tiền đề cho sự phát triển
mới và tạo không khí đoàn kết phấn khởi trong các tầng lớp nhân dân Thủ đô.
Bên cạnh đó, Hà Nội cũng đang đứng trước những thách thức mới của sự phát
triển về hạ tầng đô thị và nông thôn, về hạ tầng văn hóa xã hội… Thủ đô mở

9


rộng còn thiếu đồng bộ trên nhiều phương diện, sự hạn chế về năng lực, trình
độ quản lý kinh tế - xã hội của một số bộ phận cán bộ, công chức các cấp, các
ngành, sự khác nhau giữa hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật để thực
hiện cơ chế, chính sách. Chính vì những lý do trên nên tình hình công dân
khiếu kiện, trong đó đặc biệt là khiếu kiện về đất đai tăng cả về số lượng lẫn
tính chất phức tạp của vụ việc so với các năm trước.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến khiếu nại về đất đai ngày càng
tăng và phức tạp trên địa bàn thành phố Hà Nội là do hoạt động giải quyết
khiếu nại (GQKN) trong đó có việc áp dụng pháp luật về GQKN đất đai còn
nhiều bất cập, đó là tình trạng: Một số nơi, cấp ủy, chính quyền địa phương

chưa tập trung chỉ đạo giải quyết. Sự chỉ đạo và điều hành của chính quyền
cấp cơ sở còn yếu và chưa chặt chẽ, có nơi chưa làm đúng theo các trình tự,
thủ tục quy định của pháp luật. Nội dung giải quyết của các cấp chưa thống
nhất. Sự phối hợp giữa các cơ quan chưa chặt chẽ. Việc tổ chức thi hành các
quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật còn yếu. Sự kiểm tra, đôn đốc
của thủ trưởng cấp trên với cấp dưới chưa tích cực, còn nể nang, thiếu sự phê
bình nghiêm khắc khi cấp dưới chưa thực hiện tốt. Đội ngũ cán bộ địa chính ở
cấp phường, xã còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, thiếu về số lượng cũng là
nguyên nhân không nhỏ gây khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ. Công tác xử lý
sau tiếp dân và theo dõi kết quả thực hiện còn chưa được kịp thời và đầy đủ,
vẫn còn nhiều trường hợp xử lý đơn thư của công dân không đúng như
chuyển đơn hoặc hướng dẫn không đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết,
dẫn đến tình trạng công dân bức xúc do phải đi lại nhiều nơi, nhiều lần. Các
cơ quan chuyển đơn thường ít quan tâm đến kết quả giải quyết những đơn thư
đã chuyển và các cơ quan nhận được đơn thư chuyển đến cũng chưa báo cáo,
thông tin đầy đủ kết quả giải quyết đến cơ quan chuyển đơn.
Về phương diện lý luận, áp dụng pháp luật nói chung đã được giới
khoa học pháp lý làm sáng tỏ. Song áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai
vẫn còn là một vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu cụ thể hơn từ khái niệm

10


đến đặc điểm cũng như thực hiện. Nghiên cứu vấn đề này cũng là đáp ứng yêu
cầu đòi hỏi từ thực tiễn đặt ra của vấn đề áp dụng pháp luật trong trong
GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài "Áp dụng pháp luật trong giải
quyết khiếu nại đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ
Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật trong GQKN là đề
tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý. Đặc biệt trong tình
hình hiện nay, số lượng các bài viết, công trình nghiên cứu về áp dụng pháp
luật trong GQKN, GQKN về đất đai được tăng lên rõ rệt, trong đó phải kể đến
những công trình tiêu biểu sau:
-

Một số công trình nghiên cứu đã đưa ra các giải pháp liên quan đến

thẩm quyền, trình tự và thủ tục GQKNTC hành chính và đề cập đến công tác
GQKNTC hành chính trong một số lĩnh vực cụ thể, ví dụ: Việc thực hiện
thẩm quyền giải quyết của thủ trưởng cơ quan nhà nước và trách nhiệm của
các cơ quan thanh tra nhà nước trong giải quyết khiếu nại hành chính (Phạm
Văn Long, đề tài khoa học cấp Bộ của Thanh tra Chính phủ năm 2005); Xây
dựng quy trình giải quyết khiếu nại hành chính (Ngô Mạnh Toan, đề tài khoa
học cấp Cơ sở của Thanh tra Chính phủ năm 2005); Vấn đề đối thoại trong
giải quyết khiếu nại hành chính (Nguyễn Tiến Bình, đề tài khoa học cấp Cơ
sở của Thanh tra Chính phủ năm 2005); Tiền tố tụng hành chính - Thủ tục bắt
buộc trước khi khởi kiện hành chính (ThS. Nguyễn Thị Thủy, Tạp chí Luật
học, số 10/200 ); Việc thụ lý để giải quyết khiếu nại hành chính - từ lý luận
đến thực tiễn (Nguyễn Quốc Tuấn, Tạp chí Thanh tra, số 6/2005); Thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước (Nguyễn
Thị Minh Hà, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội);
Thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại hành chính về đất đai, nhà ở hiện nay -

11


Những vấn đề đặt ra và giải pháp (Ngô Đăng Huynh, đề tài cấp Bộ của Thanh
tra Chính phủ năm 2003); Hoàn thiện những qui định của Luật Khiếu nại, tố cáo

về giải quyết khiếu nại, tố cáo đông người (ThS. Trần Văn Sơn, Tạp chí Thanh
tra, số /2005); Việc áp dụng pháp luật để giải quyết khiếu nại về đất đai (ThS.
Nguyễn Tuấn Khanh, Tạp chí Thanh tra, Số 5/2008); Hòa giải - Biện pháp nâng
cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự (Phạm Quốc
Toản, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề tháng /2006)...

-

Một số bài viết, công trình khoa học đề cập đến công tác kiểm tra,

giám sát hoạt động GQKNTC hành chính ở những góc độ khác nhau. Ví dụ:
Thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của cơ quan hành chính nhà nước trong giải
quyết khiếu nại, tố cáo và chống tham nhũng - thực trạng và kiến nghị (Phạm
Văn Khanh, đề tài khoa học cấp Bộ của Thanh tra Chính phủ năm 2004);
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thanh tra trách nhiệm của các cơ quan hành
chính nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo (Bùi Nguyên Súy, đề
tài khoa học cấp Bộ của Thanh tra Chính phủ năm 200 ); Trách nhiệm của đại
biểu dân cử trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân (ThS. Đào
Xuân Tiến, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 02/2005); Tăng cường giám sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan hành chính nhà nước - giải pháp
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (TS Trần Văn Sơn, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 8/2005)...
-

Đứng trước yêu cầu của thực tiễn, đã có một số công trình nghiên

cứu nhằm đưa ra các giải pháp đổi mới cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo
(GQKNTC) hành chính (thậm chí có những công trình, bài viết đề cập đến mô
hình GQKN hành chính còn đang có những ý kiến khác nhau về vị trí, vai trò,
thẩm quyền), ví dụ: Một số vấn đề về tài phán hành chính ở Việt Nam (PTS

Lê Bình Vọng, Nxb Chính trị quốc gia năm 1994); Tài phán hành chính nhìn từ góc độ Luật so sánh (Nguyễn Văn Quang, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Đại học Luật Hà Nội, năm 1999); Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu kiện
hành chính (Nguyễn Văn Thanh, đề tài khoa học cấp Bộ của Thanh tra Chính

12


phủ năm 2004); Một số khía cạnh của việc nâng cao hiệu suất hoạt động của
Tòa hành chính trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính (Vũ Thư, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2003); Cơ quan tài phán hành chính - nhận
thức mới, giải pháp mới cho một vấn đề không mới (Đinh Văn Minh, Tạp chí
Thanh tra, 2005); Đổi mới cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính và việc
thành lập cơ quan tài phán hành chính ở Việt Nam (ThS. Nguyễn Tuấn
Khanh, Tạp chí Mặt trận Tổ quốc, Số 11/200 ); Đổi mới cơ chế giải quyết
khiếu nại, khiếu kiện hành chính ở nước ta hiện nay (PGS.TS.Bùi Xuân Đức,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số 5/2008); Trao đổi thêm về việc áp dụng
Điều 136 Luật đất đai năm 2003 (Phạm Thanh Hải, Tòa án nhân dân huyện
Đan Phượng, Hà Tây, Tạp chí Tòa án, tháng 5/2005); Những vấn đề cần trao
đổi khi áp dụng Điều 136 Luật đất đai năm 2003 (TS Nguyễn Văn Cường,
Tạp chí Tòa án tháng 8/2005); Những vấn đề trao đổi khi áp dụng Điều 136
Luật đất đai năm 2003 (Ban biên tập Tạp chí Tòa án nhân dân, Tạp chí Tòa án
nhân dân tháng 9/2005).
Ngoài ra, trên các tạp chí khác như: Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí dân chủ
và pháp luật cũng có những bài viết nghiên cứu về việc áp dụng pháp luật.
Nội dung nghiên cứu trong các công trình nói trên mới dừng lại ở mức
độ chung nhất về GQKNTC hành chính và công tác kiểm tra, giám sát việc
GQKNTC hành chính hiện nay, đặc biệt là trong điều kiện phát triển nền kinh
tế thị trường, cải cách hành chính và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể trực tiếp về áp
dụng pháp luật trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận
để đánh giá đúng thực trạng áp dụng pháp luật trong GQKN về đất đai trên
địa bàn thành phố Hà Nội, tìm ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân. Từ

13


đó, đề xuất một số giải pháp phù hợp và khả thi nhằm nâng cao hiệu áp dụng
pháp luật trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
Một là, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản, làm rõ các khái
niệm, đặc điểm của khiếu nại, GQKN; khái niệm đất đai, GQKN về đất đai,
đặc điểm GQKN về đất đai; khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật về
GQKN đất đai; những yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng pháp luật trong GQKN
về đất đai; kinh nghiệm áp dụng pháp luật trong GQKN về đất đai ở một số
địa phương và bài học kinh nghiệm đối với thành phố Hà Nội.
Hai là, phân tích đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong GQKN
đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội, qua đó thấy được những ưu điểm, hạn
chế và tìm ra nguyên nhân dẫn tới những hạn chế đó.
Ba là, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp
phù hợp và có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong
GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật trong GQKN đất
đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

-

Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật trong GQKN

đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2003 đến nay, tập trung chủ yếu
vào giai đoạn từ sau nghị quyết của Quốc hội về việc điều chỉnh địa giới hành
chính Thành phố Hà Nội (năm 2008) đến năm 2012.
-

Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn thành phố Hà Nội.

14


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền khiếu nại của công dân và GQKN của
công dân; chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về
GQKN đất đai, về yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
(XHCN) Việt Nam.
Cơ sở lý luận nêu trên là nền tảng tư tưởng, lý luận để nghiên cứu vấn
đề áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh,
lôgic, kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, chú trọng việc thu
thập các số liệu từ các báo cáo thực tế về GQKN đất đai ở Việt Nam nói
chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng.
6. Những đóng góp mới của luận văn
-


Luận văn là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu có hệ thống

và tương đối toàn diện áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai trên địa bàn
thành phố Hà Nội nên có những đóng góp mới như sau:
-

Góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về áp dụng pháp

luật trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
-

Làm rõ thực trạng áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai trên địa

bàn thành phố Hà Nội qua việc phân tích, so sánh, đánh giá, rút ra những
thành tựu, hạn chế và nguyên nhân. Từ đó, làm tiền đề để đưa ra quan điểm và
kiến nghị giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
trong GQKN đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội góp phần ổn định và đáp
ứng yêu cầu phát triển thành phố Hà Nội.

15


7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
-

Góp phần hệ thống các quan điểm của Đảng, Nhà nước, của Thành

ủy Hà Nội về áp dụng pháp luật trong GQKN đất đai.
-


Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho các CQHCNN trong việc xây

dựng kế hoạch phát triển đô thị, quản lý và sử dụng đất đai có hiệu quả; ngăn
ngừa và hạn chế nguyên nhân gây nên khiếu nại về đất đai cũng như nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về GQKN về đất đai.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu
nại về đất đai.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại về
đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong giải
quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.

16


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
TRONG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI

1.1. QUAN NIỆM CHUNG VỀ KHIẾU NẠI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
VỀ ĐẤT ĐAI

1.1.1. Quan niệm về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân và là một
trong những cách thức để công dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, tham
gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nếu giải quyết tốt các khiếu nại sẽ góp

phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường thuận
lợi để phát triển kinh tế, xây dựng và phát triển đất nước.
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của khiếu nại
-

Khái niệm khiếu nại

Khiếu nại được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội, khiếu nại theo
gốc tiếng Latinh: "Complant", nghĩa là sự phàn nàn, phản ứng, bất bình của
người nào đó về vấn đề có liên quan [34, tr. 205].
Theo Thuật ngữ pháp lý phổ thông thì khiếu nại là việc yêu cầu cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc người có chức vụ giải quyết việc vi phạm
các quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân người khiếu nại [31, tr. 105].
Theo Đại Từ điển tiếng Việt, "khiếu nại (đgt): thắc mắc, đề nghị xem
xét lại những kết luận, quyết định do cấp có thẩm quyền đã làm [39, tr. 904].
Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ khiếu nại được đề cập đến như là
sự phản ứng của các chủ thể trong xã hội đối với quyết định của các cơ quan
nhà nước (cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp) hoặc hành
vi của cán bộ, công chức, người làm việc trong cơ quan nhà nước khi họ cho
rằng các quyết định, hành vi đó xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của

17


mình. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về khiếu nại nhưng nhìn chung,
quan niệm về khiếu nại đều được hiểu như vậy. Theo Thuật ngữ pháp lý phổ
thông, khiếu nại là việc yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc người
có chức vụ giải quyết việc vi phạm các quyền hoặc lợi ích hợp pháp của bản
thân người khiếu nại hay người khác.
Theo Từ điển tiếng Việt, khiếu nại được hiểu là đề nghị cơ quan có

thẩm quyền xét một việc làm mà mình không đồng ý, cho là trái pháp luật hay
không hợp lý... Những khái niệm trên được tiếp cận rất sát với sự phát triển
của hệ thống qui định pháp luật về khiếu nại, vì vậy, nghĩa của thuật ngữ
khiếu nại thường hẹp hơn so với những biểu hiện trong thực tế.
Nhìn lại lịch sử lập pháp của Việt Nam, thuật ngữ "khiếu nại" được sử
dụng lần đầu tiên trong văn bản chính thức của Nhà nước Việt Nam là kể từ
khi có Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/2945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt.
Điều II Sắc lệnh qui định: "Ban Thanh tra đặc biệt có toàn quyền: Nhận các
đơn khiếu nại của nhân dân...". Tinh thần và nội dung của bản Sắc lệnh cho
thấy khiếu nại ở đây là chỉ sự khiếu nại của nhân dân đối với chính quyền mà
hiện nay chúng ta quan niệm đó chính là khiếu nại đối với hoạt động của bộ
máy nhà nước và công chức nhà nước mà trước hết là các CQHCNN. Tại
Điều I, Sắc lệnh cũng đã xác định: "Chính phủ sẽ lập ngay một Ban Thanh tra
đặc biệt, có ủy nhiệm là đi giám sát tất cả các công việc và các nhân viên của
Ủy ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ" [2].
Như vậy, việc khiếu nại vừa có ý nghĩa bảo vệ quyền lợi của người
dân tránh sự vi phạm từ phía cơ quan nhà nước và cán bộ nhà nước vừa tạo ra
cơ chế để giám sát hoạt động của chính quyền các cấp.
Năm 2000, trong một kết quả nghiên cứu của Thanh tra Nhà nước,
khái niệm "khiếu nại" được hiểu rộng hơn, theo đó, khiếu nại theo nghĩa
chung nhất là việc cá nhân hay tổ chức đề nghị cá nhân, tổ chức hay cơ quan
nào đó xem xét, sửa chữa lại một việc làm mà họ cho là không đúng đắn, gây

18


thiệt hại hoặc sẽ gây thiệt hại đến quyền, lợi ích chính đáng của họ và đòi bồi
thường thiệt hại do việc làm không đúng gây ra.
Theo quy định tại Điều 2, Khoản 1 của Luật khiếu nại năm 2011:
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ,

công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ
luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành
vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình
[26].
Quy định này gồm các nội dung sau đây:
+

Về chủ thể khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ,

công chức, trong đó công dân là chủ thể chính của quyền khiếu nại.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật quốc tịch năm 1998
thì công dân nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là người có quốc tịch Việt
Nam. Theo tinh thần của pháp luật thì mọi công dân Việt Nam đều có quyền
khiếu nại đối với quyết định hoặc việc làm của cơ quan, tổ chức mà họ cho là
trái pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình, kể cả những
người phạm tội hình sự có thể bị tước một số quyền công dân như quyền tự do
đi lại, quyền bầu cử, ứng cử nhưng họ vẫn có quyền khiếu nại (trừ trường hợp
bị tước quyền quốc tịch), ví dụ như khiếu nại về hành vi vi phạm của giám thị,
của thủ trưởng cơ quan quản lý trại giam.
Mặc dù, pháp luật có quy định khiếu nại là quyền cơ bản của công
dân, song để thực hiện thì người khiếu nại và việc khiếu nại phải đảm bảo
thỏa mãn những quy định nhất định, hay nói cách khác là phải đảm bảo các
điều kiện để khiếu nại.

19



Nghị định số 6 /1999/NĐ-CP ngày 0 -08-1999 tại Điều 2 quy định về
điều kiện để khiếu nại được cơ quan nhà nước thụ lý giải quyết. Thứ nhất,
người khiếu nại phải là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của quyết định
hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại. Thứ hai, người khiếu nại phải có
năng lực hành vi đầy đủ theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc chưa có năng
lực hành vi đầy đủ nhưng theo quy định của pháp luật có quyền khiếu nại.
Thứ ba, người khiếu nại phải làm đơn khiếu nại và gửi đến đúng cơ quan cơ
quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết trong thời gian quy định. Thứ tư,
việc khiếu nại chưa có quyết định giải quyết cuối cùng và chưa được tòa án
thụ lý giải quyết.
Đối với công dân là người chưa thành niên, người bị mắc bệnh tâm
thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình thì thông qua người đại diện theo pháp luật để thực hiện quyền khiếu
nại; người ốm đau, già yếu, có nhược điểm về thể chất hoặc vì lý do khách
quan mà không thể tự mình khiếu nại thì thì có thể ủy quyền cho người khác
để thực hiện việc khiếu nại trong phạm vi được ủy quyền.
Người khiếu nại phải tuân thủ những điều kiện trên, khi thực hiện
quyền khiếu nại còn phải thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định. Khi nói đến chủ thể có quyền khiếu nại, thì các văn bản pháp luật
trước đây chỉ đề cập đến công dân, hay cá nhân, pháp nhân. Nhưng trong Luật
khiếu nại, tố cáo năm 1998, Luật khiếu nại năm 2011 đã mở rộng chủ thể có
quyền khiếu nại, bao gồm công dân, cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức. Tại
sao lại có việc quy định như vậy, bởi vì trên thực tế không chỉ có công dân
chịu sự tác động của quyết định hành chính, hành vi hành chính mà cơ quan,
tổ chức; trong nhiều trường hợp cũng là đối tượng của quyết định hành chính,
hành vi hành chính, có thể bị thiệt hại do quyết định hành chính, hành vi hành
chính gây ra.
Về chủ thể là tổ chức có quyền khiếu nại không chỉ được quy định
trong Luật khiếu nại, Luật tố cáo mà còn được đề cập trong nhiều văn bản


20


pháp luật chuyên ngành như các Luật thuế, Luật đất đai, Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Theo quy định của Luật khiếu nại năm 2011, tại Điều 2, Khoản 4 thì
cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức
kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân.
Chỉ những cơ quan, tổ chức nêu trên mới có quyền khiếu nại. Việc tụ
tập đông người khiếu nại, gây sức ép với cơ quan nhà nước có thẩm quyền là
việc làm không được pháp luật chấp nhận. Cơ quan, tổ chức khi thực hiện
quyền khiếu nại phải thông qua người đại diện hợp pháp của mình là thủ
trưởng cơ quan tổ chức đó được xác lập trong quyết định bổ nhiệm, quyết
định thành lập cơ quan, tổ chức hoặc trong Điều lệ của tổ chức đó.
Chủ thể của khiếu nại quyết định kỷ luật là cán bộ, công chức theo
quy định của Luật cán bộ, công chức năm 2008.
+ Chủ thể khác có quyền khiếu nại.
Ngoài những chủ thể nêu trên, cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài
đang sinh sống, học tập và làm ăn tại Việt Nam cũng được quyền khiếu nại
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan, công chức
Việt Nam khi họ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt
Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Quy định về việc khiếu nại của người nước ngoài là nội dung mới của
Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998, tiếp tục được kế thừa ở Luật khiếu nại năm
2011. Quy định này là cần thiết, phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong điều kiện
Việt Nam mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Quy định này cũng phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế.
+


Đối tượng bị khiếu nại là CQHCNN và người có thẩm quyền trong

CQHCNN đã ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành

21


chính, có quyết định kỷ luật bị coi là trái pháp luật. Người có thẩm quyền là
cán bộ, công chức làm việc trong CQHCNN thực thi nhiệm vụ, công vụ hoặc
CQHCNN với tư cách là pháp nhân công quyền khi ban hành quyết định hành
chính để thực hiện hoạt động quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sở dĩ
cán bộ, công chức và CQHCNN bị khiếu nại, vì trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ được giao họ đã có những hành vi hoặc có những quyết định trái
pháp luật (hoặc bị coi là trái pháp luật), xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.
Theo quy định của pháp luật và từ thực tiễn cho thấy, khiếu nại là một
hình thức phản ứng của công dân đối với những việc làm không đúng của
CQHCNN, người có thẩm quyền trong CQHCNN, đó là thái độ không đồng ý
với các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật cán bộ,
công chức của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền và yêu cầu sửa đổi, hủy b?
hoặc chấm dứt, buộc bồi thường thiệt hại, khôi phục uy tín, danh dự đã bị
xâm hại.
Khiếu nại là quyền cơ bản của công dân, là một trong các hình thức để
công dân thực hiện quyền dân chủ trực tiếp của mình, thông qua việc khiếu
nại mà công dân phản ánh ý chí, nguyện vọng của mình tới các cơ quan nhà
nước để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và đấu tranh chống các biểu
hiện tham nhũng, tiêu cực, vi phạm pháp luật, góp phần dân chủ, lành mạnh
hóa các hoạt động của cơ quan thực thi quyền lực công.
-


Đặc điểm của khiếu nại

Như đã nêu trên, khiếu nại về bản chất là việc cơ quan, tổ chức, cá
nhân thực hiện quyền của mình. Vì vậy, khiếu nại có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, khiếu nại là việc thực hiện quyền chính trị - pháp lý của cá
nhân. Khiếu nại chỉ xuất hiện trong nhà nước có sự hiện diện của dân chủ.
Ngày nay, quyền khiếu nại không chỉ là quyền công dân mà đã trở thành
quyền con người. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, các quốc gia không chỉ

22


ghi nhận công dân có quyền khiếu nại mà còn cho phép cá nhân nước ngoài,
người không quốc tịch cũng có quyền khiếu nại. Quyền khiếu nại của công
dân được quy định mang tính hiến định trong các Hiến pháp - bản văn chính
trị tuyên bố cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước và các mối quan hệ chính
trị cơ bản nhất trong xã hội. Bản thân việc quy định này đã thể hiện quyền
khiếu nại của cá nhân mang tính chính trị - pháp lý rất cao. Tính pháp lý còn
được thể hiện rõ nét qua việc Nhà nước ban hành pháp luật điều chỉnh việc
GQKN phát sinh trong quan hệ pháp luật hành chính giữa công dân với
CQHCNN. Do tính phức tạp của hoạt động quản lý hành chính nhà nước mà
việc ghi nhận quyền khiếu nại không thể qui định tại một đạo luật. Hơn nữa,
những nội dung quản lý hành chính nhà nước khác nhau có nhiều điểm đặc
thù bởi vậy quyền khiếu nại của công dân được pháp luật qui định cụ thể, chi
tiết ở mỗi lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước nhất định. Tuy nhiên, dù là
qui định ở các văn bản khác nhau song đều khẳng định rằng: Khi tham gia vào
quan hệ pháp luật hành chính các cá nhân được Nhà nước bảo đảm để thực
hiện quyền khiếu nại. Quyền khiếu nại cùng với các quyền khác của cá nhân
là yếu tố không thể thiếu khi xác lập địa vị pháp lý của công dân khi tham gia

vào quan hệ pháp luật hành chính.
Thứ hai, khiếu nại được bảo đảm thực hiện bởi Nhà nước và hệ thống
giám sát từ bên trong và bên ngoài. Quy định các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
quyền khiếu nại, điều đó cũng đòi hỏi Nhà nước thiết lập cơ chế GQKN. Đó
là hệ thống cơ quan có thẩm quyền giải quyết và trình tự giải quyết được pháp
luật quy định. Ngoài ra, để việc giải quyết các khiếu nại đúng pháp luật, Nhà
nước còn tạo lập cơ chế giám sát hoạt động GQKN, bao gồm sự giám sát của
cơ quan quyền lực nhà nước, công tác thanh tra, kiểm tra trách nhiệm GQKN
và sự giám sát của xã hội.
Thứ ba, mức độ bảo đảm thực hiện việc khiếu nại phụ thuộc vào điều
kiện kinh tế, xã hội. Điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội có quan hệ biện chứng
với mức độ bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại của các chủ thể. Như các

23


quyền khác của cơ quan, tổ chức, cá nhân, mức độ bảo đảm thực hiện quyền
khiếu nại phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện chính trị, kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia. Khi chính trị ổn định, kinh tế - xã hội phát triển, trình độ quản lý ở
mức độ cao, mức độ bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại của cơ quan, tổ chức,
cá nhân càng được nâng cao và ngược lại.
Như vậy, khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của người dân,
nên khiếu nại khụng ch? được ghi nhận trong Hiến pháp và nhiều văn bản
pháp luật quan trọng, mà còn được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp
kinh tế, văn hóa, xã hội.
1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm giải quyết khiếu nại
-

Giải quyết khiếu nại


Theo quy định của Luật khiếu nại năm 2011, tại Điều 2, Khoản 11 thì
GQKN là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định GQKN.
Giải quyết khiếu nại được hiểu là quá trình cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xem xét, đánh giá đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính,
quyết định kỷ luật có đúng pháp luật hay không, từ đó đưa ra các giải pháp xử
lý phù hợp.
Theo quy định tại Điều 31 của Luật khiếu nại năm 2011, Quyết định
GQKN lần đầu phải có những nội dung sau đây:
+

Ngày, tháng, năm ra quyết định;

+

Tên, địa chỉ người khiếu nại, người bị khiếu nại;

+

Nội dung khiếu nại;

+

Kết quả xác minh nội dung khiếu nại;

+

Kết quả đối thoại (nếu có);

+


Căn cứ pháp luật để GQKN;

+

Kết luận nội dung khiếu nại;

24


+

Giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ một phần hay toàn bộ

quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại; giải quyết
các vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại;
+

Việc bồi thường thiệt hại cho người bị khiếu nại (nếu có);

+ Quyền khiếu nại lần hai, quyền khởi kiện vụ án hành chính tại
Tòa án.

-

Trường hợp nhiều người cùng khiếu nại về một nội dung thì người

có thẩm quyền GQKN xem xét, kết luận nội dung khiếu nại và căn cứ vào kết
luận đó để ra quyết định GQKN cho từng người hoặc ra quyết định GQKN
kèm theo danh sách những người khiếu nại.
Theo quy định tại Điều 41 của Luật khiếu nại năm 2011, Quyết định

GQKN lần hai phải có các nội dung sau đây:

+

+

Ngày, tháng, năm ra quyết định;

+

Tên, địa chỉ của người khiếu nại, người bị khiếu nại;

+

Nội dung khiếu nại;

+

Kết quả GQKN của người GQKN lần đầu;

+

Kết quả xác minh nội dung khiếu nại;

+

Kết quả đối thoại;

+


Căn cứ pháp luật để GQKN;

Kết luận nội dung khiếu nại là đúng, đúng một phần hoặc sai toàn

bộ. Trường hợp khiếu nại là đúng hoặc đúng một phần thì yêu cầu người có
quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại sửa đổi, hủy bỏ một
phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị
khiếu nại. Trường hợp kết luận nội dung khiếu nại là sai toàn bộ thì yêu cầu
người khiếu nại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan thực hiện nghiêm chỉnh
quyết định hành chính, hành vi hành chính;
+

Việc bồi thường cho người bị thiệt hại (nếu có);

25


+

Quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án.

Như vậy, GQKN bao gồm các công việc: Xác minh để làm rõ các tình
tiết sự việc; kết luận về nội dung khiếu nại, trong đó xác định rõ khiếu nại của
cơ quan, tổ chức, cá nhân là đúng, đúng một phần hoặc sai toàn bộ; căn cứ
vào quy định của pháp luật xử lý từng vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại
từ đó quyết định giữ nguyên, sửa đổi hoặc hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết
định hành chính bị khiếu nại, chấm dứt quyết định hành chính, bị khiếu nại;
quyết định việc bồi thường thiệt hại cho người khiếu nại (nếu có) hoặc giải
quyết các vấn đề cụ thể khác trong nội dung khiếu nại.
Yêu cầu của việc GQKN là phải tuân theo đúng quy định của pháp

luật; tức là phải đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết; trong đó việc
xác định đúng cơ quan có thẩm quyền là vấn đề rất quan trọng.
-

Đặc điểm GQKN

Một là: GQKN phải đúng thẩm quyền. Khiếu nại cấp dưới do cơ quan
cấp trên giải quyết và đến một cấp nhất định thì chấm dứt việc giải quyết, nếu
người khiếu nại không đồng ý thì vụ việc được đưa ra tòa án để giải quyết.
GQKN, bao gồm GQKN lần đầu và GQKN lần hai. Đây là điểm khác biệt so
với giải quyết tố cáo. Giải quyết tố cáo được phân theo luồng, đồng thời
không có điểm dừng, trường hợp giải quyết không đúng, người dân tố cáo tiếp
thì cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm xem xét, giải quyết tiếp.
Hai là: Thủ tục giải quyết khiếu nại phải tuân thủ quy trình chặt chẽ. Kết
thúc GQKN được thực hiện bởi quyết định hành chính. Trong khi kết thúc giải
quyết tố cáo lại được thực hiện bằng quyết định xử lý tố cáo, với việc giải quyết
từng vấn đề cụ thể liên quan đến trách nhiệm của nhiều cơ quan.

Ba là: Về lộ trình giải quyết một khiếu nại có khi được giải quyết
bằng cơ quan hành chính và cơ quan tài phán, trong khi đó với một tố cáo,
nếu sau khi xác định thuộc thẩm quyền của loại cơ quan nào đó thì chỉ do cơ
quan đó xem xét giải quyết.

26


×