Tải bản đầy đủ (.docx) (142 trang)

Chế định thừa kế theo bộ luật dân sự nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào 002

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.63 KB, 142 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

SOUKSAVANH BOUDCHANTHALATH

CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ THEO BỘ LUẬT

DÂN SỰ NƢỚC CHDCND LÀO
Chuyên ngành: Luâṭdân sƣ
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Bá Diến

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN


SOUKSAVANH BOUDCHANTHALATH


MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.......................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu.................................................3
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn..............................4
5. Những đóng góp về khoa học của luận văn..................................................5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.....................................................5
7. Kết cấu của Luận văn....................................................................................5
Chƣơng 1: TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ
ĐỊNH THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT NƢỚC CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 7
1.1.

Khái niệm thừa kế..............................................................................7

1.2.

Các phƣơng thức thừa kế................................................................11

1.3.

Quá trình hình thành và phát triển chế định thừa kế nƣớc Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào


14

1.3.1. Giai đoạn trƣớc cách mạng tháng 12 năm 1975................................ 14
1.3.2. Giai đoạn từ ngày 02/12/1975 đến nay...............................................18
1.4.

Cơ sở pháp lý của chế định thừa kế theo pháp luật nƣớc Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào

1.5.

21

Vị trí, vai trò của chế định thừa kế trong hệ thống pháp luật dân
sự nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

29

Kết luận chƣơng 1.......................................................................................... 36
Chƣơng 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ TRONG
PHÁP LUẬT NƢỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN
LÀO TRÊN CƠ SỞ ĐỐI CHIẾU VỚI CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

37


2.1.


Những nội dung cơ bản của pháp luật thừa kế của nƣớc Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào

37

2.1.1. Nhóm các quy phạm pháp luật quy định chung về thừa kế................37
2.1.2. Nhóm quy phạm pháp luật quy định về thừa kế theo di chúc............47
2.1.3. Nhóm quy phạm pháp luật quy định về thừa kế theo pháp luật.........60
2.1.4. Nhóm quy phạm pháp luật quy định về thừa kế quyền sử dụng đất. .72
2.2.

Đánh giá pháp luật thừa kế của Lào trên cơ sở đối chiếu với pháp
luật thừa kế của Việt Nam

75

2.2.1. Sự giống nhau.....................................................................................75
2.2.2. Sự khác nhau...................................................................................... 76
Kết luận chƣơng 2.......................................................................................... 90
Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG, THỰC THI PHÁP LUẬT THỪA
KẾ VÀ PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ
THỐNG PHÁP LUẬT THỪA KẾ NƢỚC CỘNG HÒA DÂN
CHỦ NHÂN DÂN LÀO 91
3.1.

Thực tiễn áp dụng, thực thi pháp luật thừa kế nƣớc Cộng hòa dân

chủ nhân dân Lào 91
3.1.1. Những ƣu điểm và hạn chế của hệ thống pháp luật thừa kế nƣớc
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào


91

3.1.2. Những vấn đề phát sinh trong quá trình áp dụng và thực thi pháp
luật thừa kế.......................................................................................108
3.2.

Giải pháp hoàn thiện quy định về chế định thừa kế trong pháp
luật nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào..................................... 112

3.2.1. Tiêu chí hoàn thiện pháp luật thừa kế ở Lào.................................... 112
3.2.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật thừa kế...................................118
Kết luận chƣơng 3........................................................................................ 131
KẾT LUẬN...................................................................................................132
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................134


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội loài ngƣời là sự vận động không
ngừng của tự nhiên và xã hội. Từ thuở sơ khai, cùng với những hình thái kinh
tế bắt đầu manh nha xuất hiện tuy còn đơn giản thì quan hệ “Thừa kế” cũng
đã theo đó xuất hiện nhƣ một tất yếu khách quan và có mối liên hệ ràng buộc
với nhau. Pháp luật của các quốc gia trên thế giới đều ghi nhận và bảo vệ
quyền thừa kế của công dân quốc gia mình. Mỗi Nhà nƣớc dù có các xu thế
chính trị khác nhau, nhƣng đều coi thừa kế là một quyền quan trọng của công
dân và đƣợc ghi nhận trọng đạo luật cơ bản đó là Hiến pháp.


Lào, từ thời phong kiến cho đến nay, pháp luật về thừa kế đƣợc xây


dựng và hoàn thiện phù hợp với quan hệ sản xuất ở từng giai đoạn nhất định,
theo đó quyền và lợi ích về tài sản của công dân đƣợc chú ý bảo vệ phù hợp
với tình hình kinh tế xã hội của đất nƣớc. Lịch sử đã cho thấy rằng, pháp luật
về thừa kế ở Lào luôn đƣợc bổ sung và hoàn thiện ngày càng mở rộng và có
sự phụ thuộc vào thành quả phát triển kinh tế xã hội qua các thời kỳ.
Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng chủ nghĩa dân chủ ở
Lào, các quy định này đã đƣợc ghi nhận, mở rộng, phát triển và đƣợc thực
hiện trên thực tế tại các Hiến pháp 1991, Bộ luật dân sự 1990 đƣợc bổ sung
vào năm 2008. Đặc biệt, là bổ sung của Luật thừa kế năm 2008 đã đánh dấu
một bƣớc phát triển của pháp luật Lào nói chung và Luật thừa kế nói riêng.
Bộ luật dân sự 1990 là kết quả của quá trình pháp điển hóa những quy định
của pháp luật thừa kế. Nó kế thừa và pháp triển những quy định phù hợp với
thực tiễn, không ngừng hoàn thiện để đảm bảo quyền và lợi ích ngƣời dân
một cách có hiệu quả nhất.
Trong giai đoạn hiện nay, khi số lƣợng và giá trị tài sản của cá nhân

1


ngày càng đa dạng, phong phú thì vấn đề thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều
dạng tranh chấp. Bộ luật dân sự nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào 1990
nói chung và Luật thừa kế năm 2008 nói riêng dù đã quy định rất cụ thể rõ
ràng nhƣng vẫn chƣa trù liệu hết đƣợc những trƣờng hợp, tình huống xảy ra
trên thực tế. Còn một vài quy định về thừa kế còn chung chung chƣa đƣợc
văn bản hƣớng dẫn cụ thể, khó áp dụng vào tình hình thực tế. Khi xảy ra
những tình huống trên thực tế thì cơ quan tiến hành tố tụng lúng túng vì
không biết xử lý nhƣ thế nào. Nhiều vụ tranh chấp thừa kế phải xét xử nhiều
lần mà tính thuyết phục không cao. Có những bản án của Tòa án vẫn chƣa
đƣợc xem là “thấu tình đạt lý” điều đó đã xâm phạm quyền thừa kế của công

dân, đôi khi còn gây bất ổn sinh hoạt của mỗi gia đình nói riêng và cộng đồng
xã hội nói chung.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài “Chế định thừa
kế theo Bộ luật dân sự nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào” là yêu cầu
khách quan, cấp bách nhằm hoàn thiện hơn nữa những quy định còn thiếu tính
nhất quán về phƣơng diện lý luận cũng nhƣ phƣơng diện thực tế.
2.


Tình hình nghiên cứu đề tài

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, bƣớc đầu hệ thống pháp luật đƣợc

hoàn thiện, trong đó có các quy định về thừa kế đã học tập những kinh
nghiệm của Việt Nam, có tính riêng biệt phù hợp với điều kiện của Lào. Ở
Việt Nam, thừa kế di sản là vấn đề rộng và phức tạp, vừa có lịch sử hình thành
và phát triển khá phong phú. Do vậy, thừa kế đã đƣợc nhiều nhà khoa học
pháp lý quan tâm nghiên cứu. Trƣớc khi Bộ luật dân sự Việt Nam 1995 đƣợc
ban hành, đã có một số sách nghiên cứu về thừa kế dƣới góc độ pháp luật
thƣờng thức nhƣ “Câu hỏi và giải đáp pháp luật thừa kế” năm 1994 của luật
sƣ Lê Kim Quý; “Hỏi đáp về pháp luật thừa kế” năm 1995 của Trần Hữu Bền
và Đinh Văn Thành. Các công trình trên đƣợc thực hiện khi nhà nƣớc
2


Việt Nam chƣa ban hành Bộ luật dân sự nên tất cả đều dựa vào pháp lệnh
thừa kế. Các công trình này chƣa giải quyết đƣợc bản chất pháp lý thừa kế,
các loại thừa kế mà chỉ đơn giản dừng lại ở tìm hiểu pháp luật.
Sau khi Nhà nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ban hành Luật thừa
kế 1990 thì việc nghiên cứu đề tài vẫn có một số tài liệu, sách tham khảo đề

cập tới. Nhƣng so với Việt Nam, thì ở Lào rất ít có những tài liệu phân tích kỹ
về vấn đề này.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu của các tác giả nói trên chủ
yếu mới dừng lại phân tích các quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc
hoặc thừa kế theo pháp luật, phân chia di sản thừa kế và chỉ ra định hƣớng
hoàn thiện cho Luật thừa kế 1990 mà không khái quát đƣợc lịch sử hình thành
và phát triển của các quy định về thừa kế qua các thời kỳ cũng nhƣ chƣa đƣa
ra đƣợc những giải pháp hoàn thiện pháp luật thừa kế Lào. Hơn nữa các tác
phẩm trên chủ yếu viết trƣớc năm 2008 nên có rất nhiều điểm thay đổi cả về
mặt pháp luật và thực tiễn cuộc sống. Do đó, trong bối cảnh hiện nay khi mà
Bộ luật dân sự năm 1990 mới đƣợc bổ sung năm 2008 quy định về thừa kế
nhƣng vẫn còn tồn tại một vài điểm bất cập so với thực tế thì luận văn mang
một ý nghĩa rất riêng và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
*

Mục đích: Trên cơ sở phân tích, tìm hiểu quá trình phát triển pháp

luật về thừa kế ở Lào qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, luận văn đánh giá
những mặt tích cực và hạn chế của pháp luật thừa kế Lào hiện nay. Trên cơ sở
đối chiếu với pháp luật thừa kế của Việt Nam để từ đó nêu lên những quan
điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thừa kế của quốc gia Lào trong
thời đại ngày nay.
+
Nhiệm vụ: Trên cơ sở mục đích đó, luận văn có những nhiệm
vụ sau:
-

Tìm hiểu những vấn đề lý luận về thừa kế ở Lào nhƣ khái niệm
3



thừa kế, quyền thừa kế, pháp luật thừa kế, nguyên tắc và vai trò của pháp luật
thừa kế.
-

Đồng thời tìm hiểu pháp luật thừa kế của Việt Nam (nhiều kinh

nghiệm cho xây dựng pháp luật thừa kế Lào).
-

Phân tích quá trình phát triển và thực trạng pháp luật thừa kế ở Lào.

Quan đó, nhận xét, đánh giá những ƣu điểm, nhƣợc điểm của pháp luật thừa
kế hiện hành.
Nêu sự cần thiết khách quan, quan điểm, tiêu chí cũng nhƣ giải
pháp
hoàn thiện pháp luật thừa kế
*

Phạm vi nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài này đƣợc xác định trong phạm vi các quy phạm
pháp luật về thừa kế ở Lào từ chế độ phong kiến cho đến nay. Tuy nhiên, để
luận văn có độ sâu, rộng cần thiết thì trong một chừng mực nhất định, tác giả
cũng đề cập tới một số quy định tƣơng ứng trong pháp luật một số nƣớc để từ
đó so sánh và đƣa ra những kết luận, kiến nghị có tính tham khảo nhất định.
4.

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn


Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cở sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, quan điểm, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc Lào về pháp luật. Đặc
biệt là quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc nói về đƣờng lối phát triển hình
thức sở hữu toàn dân, hoàn thiện pháp luật trong thời kỳ đổi mới, đƣợc thể
hiện trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp, các văn bản pháp luật Lào qua
các thời kỳ và của một số nƣớc trên thế giới về thừa kế.
Đề tài cũng đƣợc hoàn thành dựa trên cơ sở phƣơng pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra, tác giả còn sử
dụng một số phƣơng pháp khoa học chuyên ngành nhƣ phƣơng pháp lịch sử,
phƣơng pháp logic, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh, phƣơng
pháp tổng hợp, phƣơng pháp nghị luận.
4


5.
-

Những đóng góp về khoa học của luận văn

Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy định hiện hành của pháp luật

Lào cũng nhƣ so sánh đối chiếu với pháp luật Việt Nam, tác giả đƣa ra quan
điểm của cá nhân về khái niệm pháp luật thừa kế cũng nhƣ nguyên tắc, vai trò
pháp luật thừa kế nhằm chứng minh tính đặc thù pháp luật thừa kế ở Lào, từ
đó góp phần hoàn thiện hơn khoa học trong lĩnh vực thừa kế.
-

Hệ thống hóa những quy định của pháp luật về thừa kế qua các giai

đoạn lịch sử, để phân tích đƣa ra những nhận định, đánh giá nhằm làm sáng

tỏ quá trình phát triển và thực trạng của pháp luật thừa kế Lào.
-

Từ nhận xét, đánh giá sự phát triển và thực trạng pháp luật thừa kế ở

Lào, tham khảo kinh nghiệm của một số nƣớc trên thế giới, nhất là Việt Nam,
luận văn đã đƣa ra các quan điểm, giải pháp cụ thể trong việc hoàn thiện pháp
luật về thừa kế ở Lào trong giai đoạn hiện nay.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần làm
cơ sở lý
luận quan trọng cho việc bổ sung Bộ luật dân sự năm 1990 của Lào, đặc biệt
là pháp luật về thừa kế. Đồng thời luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo
phục vụ công việc nghiên cứu giảng dạy và học tập của cán bộ, giáo viên và
sinh viên chuyên ngành Luật.
-

Về thực tiễn: Luận văn đề ra các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện

pháp luật thừa kế sẽ có ý nghĩa thiết thực cho ngƣời có thẩm quyền áp dụng
luật để giải quyết tranh chấp về thừa kế trên thực tiễn. Ngoài ra, luận văn còn
là tài liệu bổ ích cho mọi cá nhân trong việc để lại di sản thừa kế, lập di chúc
cũng nhƣ trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự của mình về
lĩnh vực thừa kế.
7.

Kết cấu của Luận văn


Kết cấu cụ thể nhƣ sau: Mở đầu, kết luận và 3 chƣơng
5


Chương 1. Tổng qua những vấn đề lý luận về chế định thừa kế theo
pháp luật nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Chương 2. Nội dung các quy định về thừa kế trong pháp luật nƣớc
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trên cơ sở đối chiếu với chế định thừa kế
theo pháp luật Việt Nam.
Chương 3. Thực tiễn áp dụng, thực thi pháp luật thừa kế và phƣơng
hƣớng, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật thừa kế nƣớc Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào.

6


Chương 1
TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ
THEO PHÁP LUẬT NƢỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

1.1. Khái niệm thừa kế
Thừa kế là một quan hệ xã hội có mầm mống và xuất hiện từ thời sơ khai
của xã hội loài ngƣời. Tuy nhiên, ở thời kỳ đó nó còn đƣợc hiểu đơn giản rằng
thừa kế là việc di chuyển tài sản của ngƣời chết sang cho những ngƣời còn sống
đƣợc tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục tập quán
riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định và chƣa đƣợc quy định thành văn bản
và phức tạp nhƣ bây giờ. Chính Ph.Anghen viết: “Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa
là chừng nào mà huyết tộc chỉ kể về bên mẹ theo tập tục thừa kế nguyên thủy
trong thị tộc mới đƣợc thừa kế những ngƣời trong thị tộc chết. Tài sản phải để

lại trong thị tộc, vì tài sản để lại không có giá trị lớn, nên lâu nay trong thực tiễn
có lẽ ngƣời ta vẫn trao tài sản đó cho những bà con thân thích nhất, nghĩa là trao
cho những ngƣời cùng huyết tộc với ngƣời mẹ” [14; tr.79]. Nhƣ vậy, chúng ta
thấy trong giai đoạn đầu của chế độ thị tộc, bộ lạc vai trò của ngƣời mẹ rất quan
trọng, vì trong khi xã hội chƣa phân chia giai cấp, mọi ngƣời sống theo kiểu
quần hôn thì đứa trẻ sinh ra không thể xác định đƣợc ngƣời cha mà chỉ có thể
phụ thuộc vào dòng máu của ngƣời mẹ.

Sự kế thừa tài sản trong thị tộc, bộ lạc theo chế độ mẫu hệ đã đặt nền
móng ban đầu cho sự hình thành và phản ánh tính tất yếu của việc thừa kế tài
sản theo huyết thống. Hiện nay, ở Lào và một số nƣớc trên thế giới vẫn tồn tại
một bộ phận dân cƣ vẫn duy trì việc thừa kế di sản theo huyết thống của
ngƣời mẹ.
Cũng chính từ thời sơ khai đó, khi mà nhà nƣớc chƣa xuất hiện, pháp
luật chƣa ra đời thì quyền sở hữu và thừa kế đã xuất hiện nhƣ một tất yếu
7


khách quan và mang tính chất nhƣ một phạm trù kinh tế, giữa hai quan hệ đó
có mối liên quan ràng buộc qua lại với nhau. Mối quan hệ giữa sở hữu và thừa
kế phát sinh trong xã hội rất mật thiết và đƣợc thể hiện ở chỗ: Nếu sở hữu là
yếu tố tiền đề để thừa kế phát sinh, thì ngƣợc lại thừa kế lại là phƣơng tiện để
duy trì, cũng cố và phát triển sở hữu tài sản. Thừa kế là một thực tế xã hội
đƣợc thể hiện ở sự chuyển dịch tài sản của ngƣời chết cho ngƣời còn sống,
nó gắn với lợi ích cá nhân, gia đình, dòng họ, vì thế trong bất kỳ chế độ xã hội
nào cũng có sự tác động của các quy tắc xã hội. Quy tắc đó đƣợc biểu hiện ở
những yếu tố nhƣ phong tục tập quán và cao hơn nữa là các quy phạm pháp
luật.
Theo tiến trình phát triển của xã hội loài ngƣời cùng với sự phát triển
của lực lƣợng sản xuất, năng xuất lao động đƣợc nâng cao làm cho xã hội có

sự phân chia giai cấp do từ sự dƣ thừa sản phẩm, một số ngƣời đã chiếm làm
của riêng, từ đó xuất hiện tầng lớp tƣ hữu và cũng đồng nghĩa với việc các thị
tộc, bộ lạc chế độ cộng sản nguyên thủy dần bị phá vỡ và điều tất nhiên, khi
giai cấp xuất hiện (gồm giai cấp thống trị và giai cấp bị trị) thì các giai cấp có
quyền lợi đối lập nhau, giai cấp nào cũng muốn bảo vệ quyền lợi của tầng lớp
mình. Do đó, xảy ra những cuộc đấu tranh gay gắt giữa các giai cấp. Khi các
cuộc chiến xảy ra thì cũng là lúc các tổ chức thị tộc bộ lạc sẽ không còn phù
hợp với sự tồn tại của nó nữa. Lúc này “Xã hội đòi hỏi phải có một tổ chức
mới đủ sức để dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy hoặc để
cùng lắm là để cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế,
dƣới một hình thức gọi là hợp pháp. Tổ chức đó là Nhà nƣớc và Nhà nƣớc đã
xuất hiện” [15; tr.38]. Cùng với nó là sự phân công lao động trong xã hội khi
ngƣời đàn ông đã tạo ra nhiều của cải nuôi sống các thành viên trong thị tộc,
bộ lạc nhiều hơn ngƣời phụ nữ đã làm thay đổi quan hệ xã hội. Sự thiết lập
địa vị của ngƣời đàn ông trong gia đình và trong từng thị tộc, bộ lạc làm căn
8


cứ cho sự sắp xếp lại trật tự của thị tộc, bộ lạc. Theo đó quan hệ mẫu hệ đƣợc
thay bằng phụ hệ. Các con trong gia đình sinh ra có quan hệ huyết thống với
ngƣời cha, mang họ của cha và thừa kế tài sản của ngƣời cha đƣợc xác lập.
Nếu trƣớc đây, thừa kế trong xã hội thị tộc đƣợc dịch chuyển theo phong
tục tập quán thì khi Nhà nƣớc xuất hiện, quá trình dịch chuyển tài sản từ một
ngƣời đã chết cho một ngƣời còn sống đã có sự tác động bằng ý chí của Nhà
nƣớc, để phù hợp với lợi ích giai cấp thống trị (Nhà nƣớc). Giai cấp thống trị
thông qua bộ máy nhà nƣớc để ban hành các quy định điều chỉnh các quan hệ
trong việc xác định phạm vi chủ thể, nội dung, hình thức, điều kiện.

Qua nhiều vấn đề xảy ra phức tạp trên thực tế, ngày nay ngƣời ta hiểu
thừa kế là một chế định dân sự, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều

chỉnh việc chuyển dịch tài sản của ngƣời chết cho ngƣời khác theo di chúc
hoặc theo một trình tự pháp luật nhất định, đồng thời quy định phạm vi, quyền
nghĩa vụ và phƣơng thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của ngƣời thừa kế.
Ngƣời thừa kế theo pháp luật chỉ là cá nhân và phải là ngƣời có quan
hệ hôn nhân huyết thống hoặc nuôi dƣỡng đối với ngƣời để lại di sản. Còn
ngƣời thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, tổ chức hoặc Nhà nƣớc cho dù
di sản do ngƣời chết để lại thuộc về cá nhân hay tổ chức đƣợc hƣởng thừa kế
thì nó vấn tồn tại chung cho xã hội vì khi di sản ấy đƣợc đƣa ra sử dụng, khai
thác hợp lý thì cũng mang lại hiệu quả kinh tế không chỉ đối với ngƣời đƣợc
hƣởng thừa kế mà còn cho những ngƣời xung quanh nói riêng và toàn xã hội
nói chung.


Lào, trong các triều đại phong kiến trƣớc đây, pháp luật về thừa kế

cũng đƣợc manh nha hình thành và dựa trên cơ sở lễ giáo phong kiến. Đồng
thời ở “đất nƣớc triệu voi” này chịu nhiều tác động của nền văn hóa khác
nhau, cả một thời kỳ lãnh thổ của Lào nhƣ là những vùng phụ thuộc của Việt
Nam, chịu phụ thuộc triều đình Huế, rồi bị trao quyền kiểm soát cho Pháp.
9


Nên Pháp đã áp đặt một khái niệm quốc gia kiểu Châu Âu lên những quan hệ
phong kiến đó, và từ đó dựng lên một tuyên bố chủ quyền về lãnh thổ đối với
toàn bộ lãnh thổ từng thuộc về vƣơng quốc Lān Xāng. Do vậy, pháp luật nói
chung và Luật thừa kế nói riêng cũng theo đó mà ảnh hƣởng. Pháp luật về
thừa kế thời kỳ này còn nhằm mục đích duy trì, bảo vệ những truyền thống
chế độ gia đình phụ quyền và hiếu nghĩa của con cháu đối với dòng họ.
Những quan niệm về gia đình, lễ giáo, tín ngƣỡng và chuẩn mực đạo đức thờ
cúng tổ tiên đã tác động mạnh lên quan hệ thừa kế. Vì vậy, quan hệ thừa kế

thời kỳ này còn thể hiện rõ sự bất bình đẳng giữa vợ chồng, giữa nam và nữ.
Có sự khác nhau khi để lại di sản giữa các tài sản khác và đất hƣơng hỏa dùng
thờ cúng ông bà tổ tiên. Quyền để lại di sản cho ngƣời còn sống thời kỳ này
còn mang tính trói buộc, nó chƣa thật sự tôn trọng quyền tự do định đoạt của
chủ sở hữu. Đối với tài sản giữa vợ và chồng trong thời kỳ này nếu mà một
bên đã chết ngƣời nào còn sống sẽ đƣợc quản lý và có quyền sử dụng di sản
của ngƣời chết, nhƣng họ sẽ căn cứ trên văn miệng nhiều hơn bằng văn bản.
Sau khi bị Pháp đô hộ hệ thống pháp luật Lào nói chung đã dựa theo
truyền thống, trình tự, quy tắc pháp luật của Pháp, rồi đến Nhật chiếm, đất
nƣớc Lào đã chịu nhiều ảnh hƣởng từ đời sống văn hóa đến các tập tục của
các nƣớc phƣơng Tây. Do đó, pháp luật thừa kế thời kỳ này ít nhiều chịu ảnh
hƣởng của các nƣớc đô hộ Lào, mang tính bình đẳng và dân chủ hơn so với
trƣớc kia. Thời kỳ này không còn các quan niệm gò bó của các tập tục lạc hậu
ảnh hƣởng lên đời sống pháp luật của đất nƣớc Lào. Đặc biệt, với sự ra đời
của Hiến pháp năm 1991 đã thể hiện sự tiến bộ vƣợt trội trong việc tôn trọng
quyền sở hữu tài sản, quyền thừa kế của mọi công dân.
Tóm lại, pháp luật thừa kế là một phạm trù mang tính khả biến. Tính
khả biến đƣợc thể hiện bằng các quy phạm pháp luật mà các quy phạm này
không những phụ thuộc vào mức độ phát triển trong một chế độ xã hội nhất
10


định, nghĩa là cũng có quy định khác nhau trong việc điều chỉnh mối quan hệ
về thừa kế. Thừa kế khi đó không những là phạm trù kinh tế, phạm trù pháp
luật, mà còn mang tính lịch sử, bởi vì nó thể hiện rõ nét quá trình phát triển
kinh tế-xã hội của các chế độ xã hội khác nhau và của một chế độ xã hội theo
từng giai đoạn phát triển nhất định.
1.2. Các phƣơng thức thừa kế
Nói đến phƣơng thức đó là cách thức thực hiện một vấn đề nào đó.
Phƣơng thức thừa kế tức là cách thức mà pháp luật quy định cho phép những

ngƣời có liên quan đƣợc thực hiện quyền mình trong phạm vi cách thức pháp
luật cho phép.
Pháp luật thừa kế của Lào cũng nhƣ các nƣớc đều quy định hai
phƣơng thức thừa kế chủ yếu là phƣơng thức thừa kế bằng di chúc và
phƣơng thức thừa kế theo pháp luật.
Luật La Mã quy định hai hình thức cơ bản là thừa kế theo di chúc
(testato) và thừa kế theo luật (intestato), ngoài ra còn có thừa kế theo lệnh của
các quan. Ở thời kỳ đầu, hình thức chủ yếu là thừa kế theo luật, sau đó thừa
kế theo di chúc trở thành phổ biến hơn.
Một là, thừa kế theo di chúc (testato):
Di chúc là ý chí chủ quan của ngƣời có tài sản định đoạt tài sản của
mình cho ngƣời khác sau khi chết. Theo luật gia Ulpian thì: “Di chúc là sự
thể hiện ý chí của chúng ta và ý chí đó đƣợc thực hiện sau khi chúng ta chết”.
Luật La Mã quy định trong di chúc không đƣợc phép “im lặng bỏ qua”
đối với hàng thừa kế thứ nhất (các con, nếu con chết thì các cháu). Nếu “Im
lặng bỏ qua” thì di chúc vô hiệu mặc dù tuân thủ đầy đủ các điều kiện khác.
Ví dụ: Ông A có ba ngƣời con là B, C, D, ông để lại di chúc với nội dung:
“Tôi cho hai con tôi là B và C mỗi đứa một nửa tài sản” mà không ghi “truất
quyền thừa kế của D” thì di chúc vô hiệu vì đã im lặng bỏ qua D. Nếu A chết
tài sản sẽ đƣợc chia theo luật cho B, C, D.
11


Ngƣời lập di chúc có quyền bổ sung, hủy bỏ di chúc vào bất kỳ lúc
nào. Nếu có ngƣời lập nhiều di chúc thì di chúc sau có giá trị hơn di chúc
trƣớc. Luật La Mã quy định khá chặt chẽ các điều kiện để một di chúc có hiệu
lực nhƣ: ngƣời lập di chúc phải có khả năng lập di chúc (con gái từ 12 tuổi,
con trai từ 14 tuổi trở lên, không bị tâm thần, không phạm trọng tội); hình
thức di chúc phải phù hợp với quy định của pháp luật (di chúc viết phải đƣợc
quan tòa, quan chấp chính chứng thực, di chúc miệng phải có bảy ngƣời làm

chứng, ngƣời thừa kế phải đƣợc chỉ định rõ ràng, chính xác); ngƣời đƣợc chỉ
định trong di chúc phải là ngƣời có khả năng trở thành ngƣời thừa kế (thai
nhi sinh vào tháng thứ mƣời một, đàn ông từ 25 đến 60 tuổi, đàn bà từ 20 đến
50 tuổi mà không lập gia đình thì không đƣợc hƣởng thừa kế…).
Một nguyên tắc quan trọng của luật La Mã và thừa kế là Semel heres,
semper heres – ngƣời đƣợc chỉ định là ngƣời thừa kế sẽ vĩnh viễn là ngƣời
thừa kế. Điều này có nghĩa là luật pháp chỉ công nhận di chúc có điều kiện
phát sinh, không công nhận di chúc có điều kiện đình chỉ. Ví dụ: Một di chúc
có nội dung sau: “Tôi không cho con tôi là M hƣởng tài sản nếu nó không thi
đậu vào trƣờng Trung cấp pháp lý La Mã”. Trƣờng hợp này, M vẫn là ngƣời
đƣợc hƣởng di sản thừa kế bởi vì điều kiện trong di chúc là điều kiện đình chỉ
(chấm dứt) trái với nguyên tắc “ngƣời thừa kế là vĩnh viễn”.
Một vấn đề mà trong hầu hết pháp luật dân sự của các nƣớc có quy
định đƣợc xuất phát từ Luật La Mã là việc quy định những ngƣời đƣợc
hƣởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (hay còn gọi là kỷ phần
bắt buộc). Ở thời kỳ đầu (thời kỳ Cộng hòa La Mã sơ khai) thì gia chủ chia tài
sản nhƣ thế nào thì sẽ là nhƣ thế (Unti legassit super pecunia tutelave suae rei
ita ius esto) nhƣng dần dần về sau đối với những ngƣời ở hàng thừa kế thứ
nhất nếu bị ngƣời lập di chúc truất quyền thừa kế thì sẽ đƣợc hƣởng một kỷ
phần bắt buộc.[ 29, Tr. 10].
12


Dựa trên cở sở đó, pháp luật thừa kế của Lào cũng quy định phƣơng
thức thừa kế theo di chúc phù hợp với ngƣời dân Lào.
Hai là, thừa kế theo pháp luật:
Trong trƣờng hợp không có di chúc hoặc di chúc vô hiệu thì di sản của
ngƣời chết để lại đƣợc chia theo luật. So với Luật thừa kế của Lào, Luật La
Mã có sự khác biệt về việc phân chia hàng thừa kế mà cụ thể là quy định theo
hàng, bậc nhƣ sau:

-

Hàng thứ nhất: Các con (các cháu nếu các con chết)

Hàng thứ hai: Bố mẹ (nếu bố mẹ chết thì ông bà nội, ông bà ngoại,

anh chị em ruột).
cha.
-

Hàng thứ ba: Anh, chị, em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác

Hàng thứ tƣ: Họ hàng nội, ngoại theo nhánh ngang tính từ gần đến xa,

từ nội đến ngoại trong phạm vi sáu đời.
-

Hàng thứ năm: Nếu không có những ngƣời ở bốn hàng trên thì quan

tòa có quyền quyết định cho vợ hƣởng một phần di sản.
Có thể nói Luật La Mã nói chung và chế định về quyền thừa kế nói
riêng vẫn là minh chứng hùng hồn cho quan điểm của những ai cho rằng Luật
La Mã là một phần không thể thiếu đƣợc của văn minh nhân loại. Tất nhiên
cho đến nay một số quy phạm của Luật La Mã không còn phù hợp nữa. Điều
đó cũng dễ hiểu bởi vì điều kiện xã hội, kinh tế, chính trị của xã hội La Mã
khoảng hai ngàn năm về trƣớc khác xa so với bây giờ. Dẫu sao một số quy
định của Luật La Mã thiết nghĩ rằng có thể đƣợc kế thừa vào luật dân sự của
các nƣớc trong đó có Lào.
Vì vậy, mà dù mỗi nƣớc có những quy định khác nhau trong vấn đề thừa
kế, nhƣng nhìn chung phƣơng thức thừa kế chủ yếu thì đều có quy định giống

nhau đó là hai phƣơng thức nhƣ đã nói ở trên. Ở phần sau chúng ta sẽ tìm hiểu
kỹ hơn các phƣơng thức thừa kế của Lào trên cơ sở so sánh với Việt Nam.
13


1.3. Quá trình hình thành và phát triển chế định thừa kế nƣớc
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
1.3.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng 12 năm 1975
Lào là quốc gia có nền lịch sử hình thành và phát triển khá phức tạp,
trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm khác nhau dó đó mà nền pháp luật cũng
trải qua nhiều chặng đƣờng mà mỗi giai đoạn đều mang một đặc thù riêng của
nó. Phân tích, đánh giá quá trình hình thành và phát triển của pháp luật nói
chung, nội dung pháp luật thừa kế nói riêng phải căn cứ trên cơ sở các quy
định của pháp luật qua các thời kỳ. Sự phân chia các giai đoạn hình thành và
phát triển của pháp luật thừa kế dƣới đây dựa trên các mốc văn bản pháp luật
đƣợc ban hành và hƣớng dẫn từ văn bản thừa kế đầu tiên nhƣ: văn bản nói về
gia đình, văn bản nói về lao động của công nhân làm ăn và về đất đai.
Trƣớc khi độc lập, đất nƣớc Lào chịu nhiều sự áp bức, đô hộ của nhiều
nƣớc vì vậy giai đoạn trƣớc năm 1975 pháp luật Lào chỉ là những công cụ để
thể hiện quyền lực của các nƣớc thực dân trên quốc gia Lào. Trong phạm vi
đề tài, chỉ đề cập nội dung pháp luật thừa kế từ 1945 đến trƣớc cách mạng
tháng 12 năm 1975.
Trong thế chiến thứ hai, ngƣời Nhật chiếm Đông Dƣơng, Lào cũng là
một trong những quốc gia bị ngƣời Nhật đô hộ. Pháp luật thời kỳ này đƣợc
ngƣời Nhật lập nên chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi khai thác thuộc địa của họ nói
chung, vấn đề thừa kế không đƣợc coi trọng đồng thời cũng chỉ nhằm mục
đích phục vụ cho một bộ máy thực dân mà thôi. Khi Nhật đầu hàng, những
ngƣời quốc gia Lào tuyên bố độc lập. Nhƣng chƣa kịp xây dựng và cải tổ bộ
máy nhà nƣớc thì tới đầu năm 1946, quân Pháp tái chiếm Lào và chỉ trao cho
ngƣời dân Lào một số quyền tự trị hạn chế. Vì vậy, cũng nhƣ Việt Nam pháp

luật thời kỳ này chỉ là công cụ của thực dân Pháp nhằm thực hiện triệt để
chính sách khai thác thuộc địa. Bản chất của chế độ nô dịch thuộc địa đƣợc
14


bộc lộ công khai không những trong chính sách cai trị của thực dân Pháp, mà
còn cả trong các quy phạm pháp luật. Mặc dù hệ thống pháp luật của Cộng
hòa Pháp thời kỳ đó đƣợc xem là hệ thống pháp luật tiến bộ, dân chủ, nhƣng
với bản chất của chủ nghĩa thực dân, Pháp đã tận dụng những hủ tục phong
kiến lạc hậu của quốc gia Lào trong thời kỳ đó để xây dựng hệ thống pháp
luật làm công cụ của kẻ xâm lƣợc thuộc địa, do đó pháp luật dân sự của Lào
ra đời trong thời kỳ đó chứa đựng bản chất thực dân-phong kiến khá rõ nét.
Đặc biệt, chỉ là nói bằng miệng và tập trung nhau một buổi họp mà thôi do lúc
này chƣa có các văn bản nào mà hƣớng dẫn khác nhƣng phải tuân theo nội
quy khi giải thích trong buổi họp. Những quy định này điều chỉnh quan hệ
pháp luật về thừa kế mang các tính chất trọng nam, khinh nữ, mang nặng tƣ
tƣởng hiếu nghĩa giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng không có quan hệ
bình đẳng. Ví dụ ngƣời vợ không có quyền bằng con trai vì ngƣời vợ chỉ có
quyền trong khi ngƣời chồng chết thôi. Do coi trọng quan hệ huyết thống,
pháp luật thừa kế thời kỳ này đã chú ý đến quyền bình đẳng của các con trong
việc hƣởng di sản thừa kế của bố mẹ, thể hiện ở trong Luật hôn nhân gia đình
và Luật lao động. Luật thừa kế đã bảo vệ những quyền chính đáng của các
con trong gia đình theo nguyên tắc tài sản của cha, mẹ sẽ thuộc về các con khi
cha, mẹ qua đời. Đây chính là điểm quan trọng trong quan hệ thừa kế theo
pháp luật.
Trong chiến tranh Đông Dƣơng lần thứ nhất, Đảng Cộng sản Đông
Dƣơng đã lập ra tổ chức kháng chiến Patht Lào nhằm giành độc lập cho Lào.
Lào hoàn toàn độc lập sau khi Pháp bị những ngƣời Cộng sản Việt Nam đánh
bại và sau hội nghị Genève năm 1954. Từ khi giành đƣợc độc lập, cuộc tổng
tuyển cử đƣợc tổ chức năm 1955, và chính phủ đầu tiên do hoàng tử

Souvanna Phouma lãnh đạo đƣợc thành lập năm 1957. Các mối quan hệ xã
hội dần đƣợc thay đổi theo những chủ trƣơng của chính quyền mới. Cùng với
15


sự ra đời của Nhà nƣớc non trẻ, pháp luật của chế độ mới cũng đƣợc hình
thành và phát triển, trong đó vấn đề thừa kế cũng đƣợc chú ý cải tổ. Dù giành
đƣợc độc lập nhƣng quyền lực của nhà nƣớc Lào vẫn nằm trong tay các chế
độ phong kiến. Do vậy, pháp luật thừa kế thời kỳ này nhìn chung cũng không
có gì thay đổi nhiều so với thời kỳ trƣớc. Pháp luật cũng còn là công cụ bảo
vệ quyền lực của giai cấp thống trị phong kiến, trong đó chủ yếu là bảo vệ
quyền lực về chính trị. Vì vậy, vấn đề thừa kế của công dân trong thời kỳ này
không đƣợc chú trọng, mà vẫn áp dụng những quy định cũ dựa trên sự cải
biến không tích cực của hệ thống bộ máy nhà nƣớc thời bấy giờ.
Không nhƣ ở Lào, Việt Nam giành đƣợc độc lập từ 1945, dựng lên
nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa, là Nhà nƣớc dân chủ nhân dân đầu tiên ở
Đông Nam Á. Sau khi cũng cố về mặt chính trị, Việt Nam đã ra sức xây dựng
nền pháp luật tiên tiến, do mình tự quyết, không phụ thuộc vào ý chí của nƣớc
đi khai thác thuộc địa nhƣ ở Lào. Biểu hiện rõ nhất là Hiến pháp 1946 đã quy
định những quyền bình đẳng của mọi công dân, quyền “Đàn bà ngang quyền
với đàn ông về mọi phƣơng diện” [20; Đ9] và “Quyền tƣ hữu tài sản của
công dân Việt Nam đƣợc bảo đảm”. Pháp luật thừa kế của Việt Nam thời kỳ
này đã xóa bỏ những tàn tích của chế độ phong kiến trong quan hệ thừa kế và
thiết lập mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ chồng, giữa các
con...loại bỏ tƣ tƣởng trọng nam, khinh nữ, bảo vệ quyền thừa kế của ngƣời
vợ góa và ngƣời con gái đã kết hôn. Ngƣời vợ góa dù đã kết hôn với ngƣời
khác vẫn đƣợc thừa kế di sản của ngƣời chồng.
Thời kỳ này, Việt Nam có sắc lệnh 10/10/1945 cho phép áp dụng luật lệ
của chế độ cũ, trong đó có quyền về thừa kế, ngoại trừ những điều khoản trái
với nền độc lập và dân chủ của nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tiếp đó có

sắc lệnh 22/5/1950 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký đã làm nền tảng cho việc xây
dựng pháp luật sau này, trong đó có luật hôn nhân gia đình, về thừa kế di
16


sản. Các nguyên tắc cơ bản đã đƣợc ghi nhận đó là: Quyền bình đẳng của vợ và
chồng trong gia đình, vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau, con trai hay
con gái đều có quyền hƣởng di sản...[25, Đ10]. Sau đó, Hiến pháp 1959 thay thế
cho Hiến pháp 1946 của Việt Nam đã ghi nhận về quyền đƣợc pháp luật bảo hộ
quyền sở hữu về ruộng đất và các tƣ liệu sản xuất khác của nông dân, đồng thời
pháp luật bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác, quyền thừa kế tài sản tƣ hữu
của công dân đƣợc bảo đảm. Tuy nhiên, thời kỳ này cũng nhƣ ở Lào, Việt Nam
chƣa có một bộ luật dân sự hoàn thiện nên những quy định trong Hiến pháp là
cở sở để Tòa án nhân dân tối cao đƣa ra những Thông tƣ hƣớng dẫn và làm
phƣơng tiện để xét xử giải quyết tranh chấp thừa kế. Ngoài ra tại Luật hôn nhân
gia đình 1959 của Việt Nam đã cụ thể hóa hiến pháp trong việc quy định “vợ và
chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau” [24, Đ76] và “ Các con có nghĩa vụ và
quyền lợi ngang nhau trong quy định nói chung và trong lĩnh vực thừa kế nói
riêng [24, Đ19]. Ngoài ra, tại Miền Nam Việt Nam thời kỳ này (1959) cũng có
thêm Luật gia đình của Ngô Đình Diệm ký cũng thể hiện một số nội dung tiến bộ
so với quy định trƣớc đây. Nhƣ việc ghi nhận ngƣời vợ có quyền tự mình ký các
chúc thƣ, khế ƣớc...Tiếp đó là Bộ dân luật của chính quyền Sài Gòn năm 1972
đã quy định khá cụ thể về thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật, ghi
nhận vợ và chồng có quyền lập chúc thƣ để định đoạt tài sản của mình, đặc biệt
có trƣờng hợp hai vợ chồng cùng làm chúc thƣ để định đoạt tài sản chung [4;
Đ572].
Qua một vài so sánh trên để thấy rằng pháp luật Lào có những mốc hình
thành và phát triển khác với Việt Nam, cũng nhƣ các nƣớc. Khi mà pháp luật về
thừa kế của Việt Nam đã mang những nội dung mới tiến bộ, hƣớng việc xóa bỏ

những quan niệm lạc hậu, tƣ tƣởng trọng nam khinh nữ, thực hiện quyền bình
đẳng nam nữ, bình đẳng mọi công dân trong lĩnh vực về thừa kế
17


thì pháp luật thừa kế của Lào còn phụ thuộc vào ý chí của những nƣớc đô hộ
trên đất nƣớc Lào nên chƣa thể xây dựng đƣợc một hệ thống pháp luật do
mình làm chủ nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng.
1.3.2. Giai đoạn từ ngày 02/12/1975 đến nay
Từ sau ngày nƣớc Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào ra đời (2.12.1975),
Đảng nhân dân cách mạng Lào đã trải qua 6 kỳ đại hội. Mỗi kỳ Đại hội Đảng lại
có những chủ trƣơng, đƣờng lối đúng đắn khác nhau phù hợp với tình hình kinh
tế xã hội hiện tại. Từ năm 1990, Chính phủ Lào bắt đầu tiến hành các cuộc cải
cách và mở cửa. Dƣới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào, các bộ
tộc Lào đã đoàn kết giữ vững độc lập, chủ quyền, xây dựng một nƣớc Lào văn
minh, tiến bộ, trong đó không thể không nói đến một hệ thống pháp luật ngày
càng hoàn thiện nói chung và pháp luật thừa kế nói riêng.



Lào sau khi giành đƣợc nền độc lập, đảng và Nhà nƣớc Lào đã chủ

trƣơng xây dựng một nền pháp luật văn minh, tiến bộ, phù hợp với đời sống
của nhân dân nhƣ: Cho dân làm, cho dân sử dụng để cho dân ấm no và hạnh
phúc để tập trung nhau xây dựng và phát triển đất nƣớc của mình theo kế
hoạch hiện đại hóa của nƣớc Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Trong việc quá
trình hình thành và phát triển chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự Lào.
trƣớc khi cánh mạng tháng 12 năm 1975 chƣa có pháp luật nào quy định về
thừa kế, tới 1988-1989 mới chỉ có những văn bản hƣớng dẫn về thừa kế. Sau
khi Hiến pháp của nƣớc Cộng hòa nhân chủ nhân dân Lào ra đời Bộ luật dân

sự Lào mới có quy định về thừa kế.
Khác với ở Lào, Việt Nam hoàn toàn độc lập sau ngày 30 tháng 4 năm
1975 khi Miền Nam giải phóng, ngày mà chế độ ngụy quân ngụy quyền bị
sụp đổ thì “Cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả
nƣớc độc lập thống nhất...tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Cộng hòa xã hội [27,Tr. 75]. Cùng với
18


sự thống nhất về chính trị, kinh tế, đòi hỏi tất yêu phải có thống nhất về pháp
luật và việc áp dụng pháp luật. Hiến pháp 1980 của Việt Nam đánh dấu một
bƣớc phát triển mới trong công cuộc cải cách nhằm xóa bỏ chế độ tƣ hữu về
tƣ liệu sản xuất. Theo đó, đất đai không thuộc quyền sở hữu của cá nhân vì
vậy di sản thừa kế trong giai đoạn này của công dân Việt Nam thì đất đai
không đƣợc thuộc quyền để lại thừa kế mà chỉ là các tài sản là thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tƣ liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng
trong những trƣờng hợp đƣợc phép lao động riêng lẻ. Trên cơ sở Hiến pháp
1980, Thông tƣ số 81 (ngày 27/7/1981) của Việt Nam đã bao quát tƣơng đối
đầy đủ và toàn diện vấn đề về thừa kế so với các văn bản trƣớc đó. Theo
Thông tƣ thì di sản thừa kế là bao gồm toàn bộ tài sản của ngƣời chết, trừ đất
đai. Về thừa kế theo di chúc, thông tƣ quy định về hình thức, quyền định đoạt
tài sản..; thừa kế theo pháp luật có hai hàng thừa kế, hàng thứ nhất gồm vợ
chồng góa, con đẻ và con nuôi, bố đẻ, mẹ nuôi hoặc bố nuôi, mẹ nuôi; hàng
thừa kế thứ hai gồm ông bà nội, ông bà ngoại, anh chị em ruột, anh chị em
cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha. Thông tƣ này đã hƣớng dẫn đƣờng lối
giải quyết các tranh chấp về thừa kế di sản nhƣ xác định di sản thừa kế, trình
tự thừa kế theo di chúc và theo pháp luật, thừa kế thế vị, việc thừa kế của
những ngƣời chết cùng vào một thời điểm, chia di sản thừa kế. Tiếp theo đó,
Việt Nam có Luật hôn nhân gia đình 1986, trong đó quy định rõ hơn và đƣợc
pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng giữa

con cái với nhau; xóa bỏ các tập tục lạc hậu. Trên cơ sở quy định của Luật
hôn nhân gia đình để xác định tài sản chung của vợ chồng khi chia thừa kế.
Nhƣng do tình hình kinh tế xã hội Việt Nam biến đổi một cách nhanh chóng,
không ngừng nên ngày 30/8/1990 Hội đồng nhà nƣớc Việt Nam đã thông qua
Pháp lệnh thừa kế, bắt đầu có hiệu lực từ 10/9/1990. Nội dung chính của pháp
lệnh là xác định nguyên tắc thừa kế của công dân Việt Nam, quyền bình đẳng
19


thừa kế của công dân, thừa kế theo di chúc, diện và hàng thừa kế, thời hiệu,
yêu cầu chia di sản thừa kế. Ví dụ: tại Điều 36 Pháp lệnh quy định “ Trong
thời hạn 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế, ngƣời thừa kế có quyền khởi
kiện để yêu cầu chia di sản, xác định quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ
quyền thừa kế của ngƣời khác. Trong thời hạn ba năm kể từ thời điểm mở
thừa kế, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu cầu ngƣời thừa
kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do ngƣời chết để lại”. Pháp lệnh này đã thể hiện
và quy định rất rõ về tất cả những nội dung mà Bộ luật dân sự 1995 của Việt
Nam đã lấy đó làm nền tảng để xây dựng những nội dung về thừa kế. Tuy còn
những hạn chế, nhƣng nó đã chứa đựng các quy phạm pháp luật tƣơng đối
tổng hợp, toàn diện, thống nhất điều chỉnh quan hệ về thừa kế. Pháp lệnh thừa
kế 1990 của Việt Nam là tài liệu tham khảo quan trọng của quốc gia Lào khi
tiến hành xây dựng luật pháp về thừa kế trong giai đoạn này đó là pháp lệnh
thừa kế 1988. Đặc biệt, là sự ra đời của Bộ luật dân sự 1995 đã quy định về
nguyên tắc thừa kế di sản và những quy định về quyền thừa kế của công dân
từ trƣớc tới nay đã đƣợc sửa đổi bổ sung một cách phù hợp, bảo đảm quyền
và nghĩa vụ. Bộ luật dân sự Việt Nam 1995 là Bộ luật dân sự đầu tiên và
tƣơng đối đồ sộ với 838 Điều, gồm 7 phần; trong đó thừa kế đƣợc quy định ở
phần thứ IV và chƣơng VI phần thứ V. Về mặt nội dung pháp luật thừa kế, bộ
luật đã quy định rõ các vấn đề thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật,
thừa kế kế vị, quyền hƣởng thừa kế...nội dung của thừa kế không còn dấu

hiệu của chế độ tàn dƣ phong kiến hay thực dân nữa mà là sự tôn trọng quyền
con ngƣời, bảm đảm cho mọi công dân thực hiện quyền tự do đƣợc để lại di
sản và quyền hƣởng di sản, thậm chí là quyền từ bỏ di sản. Nhìn ở mặt khách
quan, có thể khẳng định rằng, các quy định về thừa kế trong Bộ luật dân sự
1995 của Việt Nam là một bƣớc tiến quan trọng trong quá trình lập pháp của
Việt Nam, nhằm khắc phục kịp thời sự thiếu tập trung, không đầy đủ của pháp
20


luật về thừa kế đƣợc quy định một cách chắp nối trƣớc đây. Những quy định
này của Việt Nam đã cũng cố quyền sợ hữu và quyền thừa kế tài sản của công
dân phù hợp với công cuộc đổi mới do đảng Cộng sản Việt Nam khởi xƣớng
và lãnh đạo. Quyền thừa kế của công dân đƣợc đƣơc quy định trong Bộ luật
dân sự 1995 đã góp phần bảo vệ các quyền dấn sự và lợi ích hợp pháp của cá
nhân trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trƣờng có
sự quản lý của nhà nƣớc theo định hƣớng xa ̃hôịchủnghiã mà Nhà nƣớc Việt
Nam đã chọn. Bộ luật dân sự 1995 của Việt Nam làm nền tảng, tài liệu cho
các nƣớc trong khu vực nói chung và quốc gia Lào nói riêng tham khảo để
xây dựng pháp luật về thừa kế trong thời kỳ đổi mới.
Qua một vài liệt kê và phân tích ở trên để cho thấy rằng Pháp luật của
Việt Nam đã đƣợc xây dựng từ rất sớm. Tính cả về mặt nội dung và hình
thức, thì pháp luật thừa kế của Việt Nam tƣơng đối phát triển phù hợp với
điều kiện kinh tế mỗi giai đoạn. Mặc dù khi xây dựng pháp luật, mỗi quốc gia
đều phải tham khảo pháp luật của các nƣớc khác trên thế giới, nhƣng Việt
Nam đã biết dựa vào tình hình đặc điểm riêng của quốc gia mình mà hoàn
thiện pháp luật một cách phù hợp. Cũng trên quan điểm đó, quốc gia Lào đã
có những thay đổi trong quy định về thừa kế phù hợp với từng giai đoạn
chuyển biến của kinh tế xã hội và đời sống nhân dân. Qua những phần đi sâu
vào nội dung chúng ta sẽ thấy rõ thêm sự chịu ảnh hƣởng rất lớn từ pháp luật
Việt Nam đối với pháp luật Lào.

1.4. Cơ sở pháp lý của chế định thừa kế theo pháp luật nƣớc Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào
Cơ sở pháp lý của chế định thừa kế là những nguyên tắc cần phải tuân
thủ khi xây dựng nên chế định thừa kế đó.
Những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở Lào đƣợc áp dụng chung cho
hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật và chúng đã xuất
21


×