Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Địa vị pháp lý của hội đồng xét sử cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.49 KB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ QUANG HUY

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ CẤP

SƠ THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc

Hµ néi - 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ QUANG HUY

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ CẤP
SƠ THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân

Hµ néi - 2009




MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ C
CẤP SƠ THẨM

1.1.

Khái niệm địa vị pháp lý của H

1.1.1.

Xét xử sơ thẩm

1.1.2.

Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm

1.1.3.

Địa vị pháp lý của Hội đồng x

1.2.


Một số nguyên tắc liên quan đ
xử sơ thẩm

1.2.1.

Nguyên tắc khi xét xử Thẩm p
chỉ tuân theo pháp luật (Điều

1.2.2.

Nguyên tắc đảm bảo quyền bì
Bộ luật Tố tụng hình sự)

1.2.3.

Nguyên tắc không ai bị coi là
tội của Tòa án đã có hiệu lực p
tụng hình sự)

1.2.4.

Nguyên tắc xác định sự thật c
tụng hình sự)

1.2.5.

Nguyên tắc đảm bảo sự vô tư
tụng hoặc người tham gia tố t


1


hình sự)
1.3.

Khái quát pháp luật về
1945 đến nay

1.3.1.

Giai đoạn từ năm 1945

1.3.2.

Giai đoạn từ năm 1980

1.4.

Một số mối quan hệ củ
xét xử

1.4.1.

Quan hệ của Hội đồng
Ủy ban thẩm phán

1.4.2.

Quan hệ của Hội đồng


1.4.3.

Quan hệ của Hội đồng

1.4.4.

Quan hệ của Hội đồng

Chương 2: QUY ĐỊNH C

QUYỀN HẠ

XỬ CẤP SƠ

2.1.

Một số quy định có liê
xét xử tại phiên tòa

2.1.1.

Thẩm quyền xét xử

2.1.1.1.

Thẩm quyền theo cấp x

2.1.1.2.


Thẩm quyền theo lãnh

2.1.1.3.

Thẩm quyền theo đối t

2.1.2.

Giới hạn xét xử sơ thẩm

2.1.3.

Việc ra bản án và các q

2.2.

Quy định của pháp luậ
đồng xét xử trong phần
áp dụng

2


2.2.1.

Quy định của pháp luật về qu
xét xử trong phần thủ tục bắt

2.2.2.


Thực tiễn áp dụng quy định
phiên tòa

2.3.

Quy định của pháp luật về qu
đồng xét xử trong phần thủ t
tiễn áp dụng

2.3.1.

Quy định của pháp luật về qu
đồng xét xử trong phần thủ t

2.3.2.

Thực tiễn áp dụng quy định
tại phiên tòa

2.4.

Quy định của pháp luật về qu
đồng xét xử trong phần tranh
áp dụng

2.4.1.

Quy định của pháp luật về qu
đồng xét xử trong phần tranh


2.4.2.

Thực tiễn áp dụng các quy đ
luận tại phiên tòa

2.5.

Quy định của pháp luật về qu
Hội đồng xét xử trong phần
áp dụng

2.5.1.

Quy định của pháp luật về qu
đồng xét xử trong phần nghị

2.5.2.

Quy định của pháp luật về qu
đồng xét xử trong phần tuyên

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NG

LUẬT TỐ TỤNG H

HỘI ĐỒNG XÉT X

3



CẦU CẢI C

3.1.

Yêu cầu phải hoàn thiệ
lý của Hội đồng xét xử

3.2.

Một số kiến nghị nhằm
lý của Hội đồng xét xử
hoạt động của Hội đồn

3.2.1.

Một số kiến nghị nhằm
lý của Hội đồng xét xử

3.2.1.1.

Bổ sung một số quy đị
đồng xét xử

3.2.1.2.

Sửa đổi một số quy địn
quyền hạn, trách nhiệm

3.2.2.


Một số kiến nghị khác
của Hội đồng xét xử

3.2.2.1.

Kiến nghị hoàn thiện p
hướng dẫn áp dụng ph

3.2.2.2.

Nghiêm chỉnh thực hiệ
và Hội thẩm độc lập và

3.2.2.3.

Tăng cường năng lực c
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS


: Bộ luật Tố tụng hình sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TAQS

: Tòa án quân sự

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

5


MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài


Xét xử là một hoạt động đặc biệt của của Nhà nước, chỉ có Tòa án là
cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước được giao thực hiện chức năng này.
Điều 127 Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam quy
định: "Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án
quân sự và các Tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" [12].
Trong tố tụng hình sự, xét xử là giai đoạn cuối cùng để giải quyết một
vụ án hình sự, là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình tố tụng, bằng hoạt
động xét xử của mình Tòa án đưa ra bản án, quyết định thể hiện phán quyết
của Nhà nước đối với một vụ án hình sự. Chỉ có Tòa án mới có quyền kết tội
và quyết định hình phạt đối với một con người. Không ai có thể bị coi là có
tội khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Việc xét xử
của Tòa án được thực hiện bởi Hội đồng xét xử (HĐXX), HĐXX là người
thay mặt Nhà nước đưa ra bản án, quyết định đối với vụ án hình sự. Bản án,
quyết định của HĐXX phải đảm bảo khách quan, đúng pháp luật, không làm
oan người vô tội, không được bỏ lọt tội phạm. Nếu thiếu thận trọng, thiếu
khách quan HĐXX có thể ra bản án, quyết định không đúng pháp luật, điều
đó có thể ảnh hưởng lớn đến uy tín của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, thậm chí nó còn có thể tước bỏ quyền sống của con người. Vì
vậy vị trí, vai trò của HĐXX trong xã hội là rất quan trọng.
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước, Đảng và Nhà nước rất quan
tâm và đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật, đề ra phương hướng, mục
tiêu và quy định cụ thể về hoạt động xét xử của Tòa án.

6


Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị - Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một số nhiệm vụ trọng tâm

trong công tác tư pháp trong thời gian tới đã xác định:
Khi xét xử, các Tòa án phải đảm bảo cho mọi công dân đều
bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; Thẩm phán
và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của
Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa,
trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm
sát viên, của người bào chữa, của bị cáo, nguyên đơn, bị đơn [4].
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng chỉ rõ: "Tòa án có vị trí trung tâm
và xét xử là hoạt động trọng tâm". Nghị quyết cũng đặt ra yêu cầu: "Đổi mới
việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm
của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm
tính công khai dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các
phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" [6].
Trên phương hướng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, đúc rút những kinh
nghiệm, thành công khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật về tố
tụng hình sự trước đó đặc biệt là Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm
1988. Trên cơ sở tiếp thu và áp dụng những tiếp bộ của khoa học pháp lý
trong nước và quốc tế, BLTTHS năm 2003 được ban hành.
BLTTHS ban hành năm 2003 có nhiều quy định mới theo hướng mở
rộng dân chủ, tôn trọng quyền bào chữa của bị can, bị cáo, công khai, minh
bạch đề cao tính tranh tụng trong hoạt động tố tụng. Đối với hoạt động của
HĐXX, Bộ luật cũng có những thay đổi như về việc thay thế thành viên của
HĐXX trong trường hợp đặc biệt, về giới hạn xét xử, quy định rõ ràng hơn về
quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm.

7


Tuy vậy BLTTHS năm 2003 cũng bộ lộ một số thiếu sót và hạn chế,

một số nội dung quy định chưa rõ ràng, không phù hợp với vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của HĐXX. Điều đó đòi hỏi phải nghiên cứu về vị trí, quyền
hạn, trách nhiệm của HĐXX, đặc biệt là của HĐXX cấp sơ thẩm để làm rõ địa
vị pháp lý của chủ thể này trong hoạt động tố tụng hình sự, góp phần hoàn
thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án, đảm bảo không làm oan
người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.
Vì lý do trên tác giả chọn đề tài "Địa vị pháp lý của Hội đồng xét xử
cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự" để nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu

Từ trước tới nay đã có một số luận văn, luận án nghiên cứu về địa vị
pháp lý của những chủ thể khác trong tố tụng hình sự như Thẩm phán, Hội thẩm,
Kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư… nhưng chưa có luận văn, luận án nào
nghiên cứu về địa vị pháp lý của HĐXX cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự.

Cũng đã có một số tài liệu, bài viết về quyền hạn hoặc trách nhiệm của
HĐXX tuy nhiên các tài liệu này thường chỉ tập trung vào một số quyền hạn
hoặc trách nhiệm nhất định như quyền yêu cầu điều tra bổ sung, quyền khởi tố
vụ án của HĐXX hoặc nghiên cứu về một số thủ tục tại phiên tòa như xét hỏi,
tranh luận.. Chưa có luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ nào nghiên cứu một cách
có hệ thống và đầy đủ về quyền hạn và trách nhiệm của HĐXX cấp sơ thẩm
trong tố tụng hình sự và cũng chưa làm rõ được vị trí của HĐXX cấp sơ thẩm
trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự.
Vì vậy, việc nghiên cứu về địa vị pháp lý của HĐXX cấp sơ thẩm
trong tố tụng hình sự là rất cần thiết nhằm làm rõ vị trí, quyền hạn và trách
nhiệm của HĐXX trong việc xét xử các vụ án hình sự tại cấp sơ thẩm để phục
vụ cho nghiên cứu, học tập và thực tiễn áp dụng pháp luật.


8


3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
*

Mục đích

Luận văn này nghiên cứu một cách có hệ thống những quy định của
pháp luật về địa vị pháp lý của HĐXX ở cấp sơ thẩm, cụ thể là nghiên cứu về
vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của HĐXX trong tố tụng hình sự. Luận văn
cũng nghiên cứu việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn, chỉ ra những
điểm còn bất cập, những mặt còn hạn chế, để từ đó đưa ra những giải pháp,
kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý
của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự, nâng cao hiệu quả xét
xử của Tòa án.
* Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
-

Nghiên cứu những vấn đề chung về địa vị pháp lý của HĐXX cấp

sơ thẩm làm cơ sở cho việc nghiên cứu các quy định của BLTTHS về vấn đề
này.
-

Nghiên cứu, phân tích, làm rõ các quy định của BLTTHS và các văn

bản pháp luật có liên quan về quyền hạn, trách nhiệm của HĐXX cấp sơ thẩm

trong hoạt động tố tụng hình sự.
-

Chỉ ra các điểm bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật,

đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
về địa vị pháp lý của HĐXX cấp sơ thẩm và những giải pháp nâng cao hiệu
quả xét xử của Tòa án.
*

Phạm vi nghiên cứu

9


Luận văn này chỉ nghiên cứu về địa vị pháp lý của HĐXX cấp sơ
thẩm trong tố tụng hình sự. Tập trung làm rõ vị trí, quyền hạn và trách nhiệm
của HĐXX trong quá trình xét xử vụ án hình sự.
4.
*

Cơ sở lý luận, đối tƣợng nghiên cứu, phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, xây dựng
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
*


Đối tượng nghiên cứu

Nội dung đề tài được làm sáng tỏ dựa trên cơ sở nghiên cứu các quy
định của BLTTHS và các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật quy định về vị
trí, quyền hạn, trách nhiệm của HĐXX cấp sơ thẩm.
*

Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp
phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, phương pháp thống kê. Kết luận và đề
xuất của luận văn đều dựa trên cơ sở phân tích lý luận, cơ sở khoa học, phân
tích thực tiễn và phân tích xu hướng phát triển của hoạt động tố tụng hình sự
trong những năm tới.
5.

Đóng góp mới của luận văn

Luận văn làm rõ khái niệm về địa vị pháp lý của HĐXX cấp sơ thẩm.
Luận văn sẽ phân tích về vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của HĐXX cấp sơ
thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, thực tiễn áp dụng áp dụng
những quy định đấy và chỉ ra những hạn chế thiếu sót của pháp luật hiện tại từ
đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất giải pháp hoàn thiện.

10


Do đó luận văn có cả ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, đóng góp vào hệ
thống lý luận luật tố tụng hình sự, là tài liệu tham khảo bổ ích cho những
người nghiên cứu, học tập và làm công tác thực tiễn.

6.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm trong
tố tụng hình sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý
của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình
sự về địa vị pháp lý của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm trong tố tụng hình sự
trước yêu cầu cải cách tư pháp.

11


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ HỘI ĐỒNG XÉT XỬ CẤP SƠ THẨM

1.1. KHÁI NIỆM ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ CẤP SƠ THẨM.

1.1.1. Xét xử sơ thẩm
Xét xử là một hoạt động đặc thù mà chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất
có quyền thực hiện. Tòa án thay mặt Nhà nước xem xét bản chất pháp lý của
một vụ án từ đó đưa ra phán quyết. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình
sự nước ta, Tòa án xét xử theo hai cấp, đó là cấp xét xử sơ thẩm và cấp xét xử
phúc thẩm. Cấp xét xử sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên, mọi vụ án đã đưa ra xét
xử đều phải trải qua hoạt động xét xử sơ thẩm. Theo Từ điển Luật học "xét xử

sơ thẩm là một từ Hán Việt, có nghĩa lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một
Tòa án có thẩm quyền" [31, tr. 870]. Theo quan điểm của tác giả Đinh Văn
Quế "xét xử sơ thẩm là việc xét xử lần thứ nhất (cấp thứ nhất) do Tòa án
được giao thẩm quyền thực hiện theo quy định của pháp luật" [9, tr. 7].
Ta có thể nhận thấy xét xử sơ thẩm có các dấu hiệu sau: Đây là cấp xét
xử đầu tiên trong tố tụng hình sự, bất cứ vụ án nào đã đưa ra xét xử đều phải
qua hoạt động xét xử sơ thẩm. Xét xử sơ thẩm là hoạt động nằm trong giai
đoạt xét xử của quá trình tố tụng. Việc xét xử sơ thẩm chỉ được thực hiện trên
cơ sở có quyết định truy tố (bằng cáo trạng hay quyết định truy tố theo thủ tục
rút gọn) của Viện kiểm sát. Việc xét xử sơ thẩm được tiến hành tại một phiên
tòa do một HĐXX thực hiện theo những trình tự thủ tục pháp luật quy định.
Một vụ án bị Tòa án cấp trên hủy để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm cũng được
coi là xét xử lần đầu tiên, theo cấp xét xử đầu tiên.
Xét xử sơ thẩm được coi là giai đoạn trung tâm của hoạt động tư pháp
khi vụ án được đưa ra xét xử lần đầu tiên, HĐXX sơ thẩm phải giải quyết

12


toàn bộ vụ án, mọi chứng cứ tài liệu được thu thập tại giai đoạn điều tra đều
phải được đưa ra xem xét, thẩm tra, đánh giá công khai tại phiên tòa, những
người tham gia tố tụng được trình bày ý kiến và tranh luận bình đẳng tại phiên
tòa. Điều này khác với tính chất của xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm chủ yếu chỉ xem xét những nội dung có kháng cáo, kháng nghị và xem
xét tính hợp pháp, có căn cứ của bản án, quyết định của Tòa án cấp dưới.
Theo quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) và BLTTHS
năm 2003, Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm là TAND cấp huyện, TAND cấp
tỉnh, Tòa án quân sự (TAQS) khu vực và TAQS cấp quân khu. Tòa án nhân dân
tối cao hiện nay không còn thẩm quyền xét xử sơ thẩm đồng thời là chung thẩm
như theo quy định của BLTTHS năm 1988. Số lượng các vụ án hình sự xét xử sơ

thẩm của toàn ngành Tòa án hàng năm là rất lớn. Năm 2007 toàn ngành Tòa án
xét xử sơ thẩm 55.299 vụ án, với 92.260 bị cáo, năm 2008 xét xử sơ thẩm 63.040
vụ án, với 109.338 bị cáo. Số liệu đó phần nào cũng phản ánh xét xử sơ thẩm là
một hoạt động thường xuyên, rất quan trọng của ngành Tòa án. Hoạt động này có
tác động đến rất nhiều mặt của cuộc sống như chính trị, kinh tế, xã hội, có liên
quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

1.1.2 Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm
Xét xử là một hoạt động được pháp luật quy định phải được thực hiện
bởi một tập thể. Tập thể đó được thành lập theo quy định của pháp luật, hoạt
động theo những nguyên tắc do pháp luật quy định. Tập thể đó có những
quyền hạn, trách nhiệm theo quy định của pháp luật, tập thể đó được pháp luật
gọi là HĐXX. Điều 6 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 quy định "Tòa
án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Thành phần Hội đồng
xét xử ở mỗi cấp xét xử do pháp luật tố tụng quy định" [14]. Tòa án xét xử tập
thể còn là một nguyên tắc đã được ghi nhận tại Điều 131 Hiến pháp nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam và Điều 18 BLTTHS. Quy định này xuất phát từ
việc coi trọng hoạt động xét xử, Nhà nước thấy rằng xét xử là một hoạt động

13


đặc thù, rất khó khăn, phức tạp, cần có sự thận trọng. Do đó Nhà nước trao
quyền xét xử cho một tập thể với mong muốn tập thể xét xử sẽ bảo đảm khách
quan, công bằng và chính xác hơn. Tại phiên tòa HĐXX giữ vị trí trung tâm,
mọi hoạt động tại phiên tòa đều nhằm mục đích giúp cho HĐXX xác định
được sự thật của vụ án từ đó ra bản án, quyết định đúng pháp luật. Trong quá
trình xét xử, HĐXX hoạt động theo nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật, nguyên tắc quyết định theo đa số và các quy định khác của pháp luật.
Khi xét xử, HĐXX có quyền nhân danh Nhà nước kết tội hoặc tuyên bố một

người là vô tội, HĐXX cũng có quyền thay mặt Nhà nước giải quyết những
vấn đề có liên quan đến vụ án như áp dụng hình phạt, bồi thường dân sự hay
khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân...
Theo quy định của BLTTHS thành phần HĐXX xét xử ở cấp sơ thẩm
gồm có Thẩm phán và các Hội thẩm.
Thẩm phán là người được Nhà nước bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán,
chuyên làm công tác xét xử tại Tòa án. Thẩm phán được Nhà nước trao cho
nhiều quyền hạn và trách nhiệm để thực hiện nhiệm vụ của mình. Trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ của mình Thẩm phán có thể có nhiều quyết định
hoặc hành động có liên quan đến quyền và lợi ích của Nhà nước, của các tổ
chức và công dân. Do vậy Nhà nước quy định tiêu chuẩn của một Thẩm phán
rất chặt chẽ. Khoản 1 Điều 37 Luật Tổ chức TAND quy định:
Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩ Việt Nam, có phẩm chất đạo đức
tốt, liêm khiết, trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế
xã hội chủ nghĩa, có trình độ cử nhân luật và đã được đào tạo về
nghiệp vụ xét xử, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định
của pháp luật, có năng lực làm công tác xét xử, có sức khỏe bảo
đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao có thể được tuyển chọn và bổ
nhiệm làm Thẩm phán [14].

14


Quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng hình sự được
quy định tại Điều 39 BLTTHS như sau:
1.

Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử các vụ án


hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: a) Nghiên cứu
hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa; b) Tham gia xét xử các vụ án
hình sự; c) Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những
vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐXX; d) Tiến hành các hoạt động tố
tụng khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án.
2.

Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa, ngoài

những nhiệm vụ quyền hạn được quy định tại khoản 1 điều này còn
có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: a) Áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật này; b), Quyết
định trả hồ sơ điều tra bổ sung; c)Quyết định đưa vụ án ra xét xử,
quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; d)Quyết định triệu tập
những người tham gia tố tụng đến phiên tòa; Tiến hành các hoạt
động tố tụng khác theo sự phân công của Chánh án Tòa án [15].
Thẩm phán là một nghề vinh quang nhưng cũng rất khó khăn, vất vả,
chịu nhiều sức ép, thậm chí có cả hiểm nguy khi thực hiện nhiệm vụ. Tuy
nhiên, hiện nay tại Việt Nam nghề Thẩm phán chưa được quan tâm đúng mức,
vị thế trong xã hội được coi trọng, chế độ đãi ngộ còn chưa tương xứng.
Hội thẩm là người được pháp luật quy định là thành viên của HĐXX.
Vai trò của Hội thẩm trong hoạt động xét xử rất quan trọng, họ đại diện cho
nhân dân tham gia xét xử, tham gia giám sát hoạt động xét xử của Tòa án.
Trong thành phần HĐXX cấp sơ thẩm bắt buộc phải có sự tham gia của Hội
thẩm, đây là một đặc điểm riêng về thành phần của HĐXX cấp sơ thẩm. Tại
TAND có các Hội thẩm nhân dân, tại TAQS có các Hội thẩm quân nhân. Hội
thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân bầu ra, Hội thẩm quân nhân do được cử

15



ra. Pháp luật quy định tiêu chuẩn về Hội thẩm rất rõ ràng, khoản 2 Điều 37
Luật Tổ chức TAND quy định:
Công dân Việt Nam trung thành với tổ quốc và Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất, đạo đức
tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức pháp lý, có tinh thần kiên
quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có sức khỏe bảo đảm hoàn
thành nhiệm vụ được giao, thì có thể được bầu hoặc cử làm Hội
thẩm [14].
Hội thẩm tham gia xét xử các vụ án hình sự có các quyền hạn và trách
nhiệm được quy định tại Điều 40 BLTTHS như sau:
1.

Hội thẩm được phân công xét xử các vụ án hình sự có

những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án
trước khi mở phiên tòa; b)Tham gia xét xử các vụ án hình sự theo
thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm; c)Tiến hành các hoạt động tố tụng và
biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử.
2.

Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về

những hành vi và những quyết định của mình [15].
Trách nhiệm, quyền hạn của Thẩm phán và Hội thẩm trong hoạt động
tố tụng được quy định trong pháp luật tố tụng, nhưng Thẩm phán và Hội thẩm
còn có trách nhiệm, quyền hạn theo các quy định khác của pháp luật. Khoản 4
Điều 37 Luật tổ chức TAND quy định:
Thẩm phán, Hội thẩm chịu trách nhiệm trước pháp luật về
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình và phải giữ bí mật công

tác theo quy định của pháp luật; nếu có hành vi vi phạm pháp luật
tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý theo quy định của
pháp luật. Thẩm phán, Hội thẩm khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Thẩm phán, Hội thẩm đó

16


thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Thẩm
phán, Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa
án theo quy định [14].
Thành phần HĐXX khi xét xử bắt buộc phải có Thẩm phán. Họ là các
chuyên gia pháp lý được trang bị kiến thức pháp luật đầy đủ, có kinh nghiệm
áp dụng pháp luật, nắm vững các quy định có liên quan để đảm bảo việc xét
xử có căn cứ pháp lý vững chắc. Tuy nhiên, xét xử là một hoạt động mang
tính xã hội nên cần phải có đại diện của nhân dân tham gia, những người đại
diện đó là các Hội thẩm. Hội thẩm tham gia xét xử thể hiện tính dân chủ, họ
thể hiện sự tham gia của nhân dân vào quản lý và điều hành đất nước, thể hiện
tinh thần lấy dân làm gốc. Sự tham gia của Hội thẩm cũng là sự giám sát của
nhân dân với hoạt động xét xử của Tòa án, họ bổ sung cho các Thẩm phán
những kinh nghiệm xã hội, họ nói lên tiếng nói của con người bình thường khi
nhìn nhận một sự kiện pháp lý, một hành vi bị đề nghị xử lý theo luật hình sự.
Sự kết hợp giữa Thẩm phán và Hội thẩm trong HĐXX là rất cần thiết.
Điều 185 BLTTHS quy định:
Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội
thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp,
thì Hội đồng xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Đối
với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có
mức cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm phán và
ba Hội thẩm. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa điều khiển việc xét xử

tại phiên tòa và giữ gìn kỷ luật phiên tòa [15].
Nghiên cứu BLTTHS năm 2003 nhận thấy thành phần HĐXX sơ thẩm
có thể có hai loại:
-

Loại thứ nhất là HĐXX có 3 thành viên, trong đó có 1 Thẩm phán và

2 Hội thẩm. HĐXX này xét xử các vụ án không có tính chất nghiêm trọng,

17


không phức tạp và không có bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình
phạt có mức cao nhất là tử hình.
-

Loại thứ hai là HĐXX có 5 thành viên, để xét xử các vụ án có tính

chất nghiêm trọng, phức tạp, các vụ án có bị cáo bị truy tố, xét xử về tội có
khung hình phạt mức cao nhất là tử hình. HĐXX có 5 thành viên trong đó
phải có 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm.
Đối với bất kỳ HĐXX nào Chủ tọa phiên tòa phải là Thẩm phán, pháp
luật không quy định Hội thẩm được làm chủ tọa phiên tòa. Chủ tọa phiên tòa
là người điều khiển việc xét xử tại phiên tòa và duy trì kỷ luật tại phiên tòa.
Ngoài các thành viên chính thức của HĐXX, HĐXX còn có thể có các
thành viên dự khuyết. Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết phải có mặt tại phiên
tòa từ đầu mới được tham gia xét xử.
Nếu HĐXX có 5 thành viên mà phải thay thế Thẩm phán đang làm
Chủ tọa phiên tòa thì Thẩm phán còn lại trong Hội đồng sẽ làm chủ tọa phiên
tòa, Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên của HĐXX. Với

HĐXX có 3 thành viên mà phải thay thế Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa thì
đương nhiên Thẩm phán dự khuyết sẽ làm chủ tọa phiên tòa. Nếu phải thay
thế thành viên của HĐXX mà không có thành viên dự khuyết tương xứng thì
phải hoãn phiên tòa và phiên tòa mới sẽ phải bắt đầu lại từ đầu. Hiện nay có
nhiều ý kiến khác nhau về thành phần HĐXX cấp sơ thẩm, nhưng chủ yếu có
hai quan điểm chính.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Thành phần HĐXX theo quy định như
hiện nay là phù hợp, sự tham gia của Hội thẩm đại diện cho nhân dân tham
gia xét xử với tỷ lệ như hiện nay là hợp lý.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Thành phần HĐXX hiện nay không phù
hợp vì vai trò và của Hội thẩm tại các phiên tòa là rất mờ nhạt, trình độ pháp
luật của các Hội thẩm nhìn chung còn hạn chế, trách nhiệm của Hội thẩm

18


chưa rõ ràng, nhiều Hội thẩm tham gia xét xử mang tính hình thức thậm chí
không hiểu rõ ràng về vụ án đặc biệt là khi xét xử các tội phạm liên quan đến
kinh tế, tin học, chứng khoán…
Thành phần của HĐXX cũng là một nội dung cần nghiên cứu xem xét
để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, nâng cao chất lượng xét xử.
Trong thủ tục đặc biệt đối với người chưa thành niên khoản 1 Điều 307
BLTTHS còn quy định: "Thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm là
giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh" [15].

Quy định này nhằm bảo đảm phải có thành viên trong HĐXX là người
am hiểu tâm, sinh lý của người chưa thành niên để có hiểu biết về hành vi, suy
nghĩ của người chưa thành niên. Giáo viên và cán bộ Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh là người thường xuyên tiếp xúc với người chưa thành niên
nên hiểu tâm, sinh lý của người chưa thành niên hơn những người khác. Họ

có sẽ giúp HĐXX hiểu hơn về suy nghĩ và hành vi của bị cáo đến bị truy tố,
xét xử và họ cùng có thể có cách hỏi tại phiên tòa phù hợp hơn với tâm, sinh
lý của người chưa thành niên giúp bị cáo trình bày, bào chữa rõ ràng hơn, đầy
đủ hơn.
BLTTHS hiện nay không quy định về thủ tục thành lập, hình thức
thành lập HĐXX. Tại điểm b khoản 1 Điều 38 BLTTHS về trách nhiệm,
quyền hạn của Chánh án Tòa án trong việc phân công Thẩm phán, Hội thẩm
tham gia giải quyết, xét xử vụ án hình sự. Thực tế hoạt động của Tòa án cho
thấy rất hiếm Chánh án Tòa án có quyết định bằng văn bản phân công Thẩm
phán, Hội thẩm tiến hành tố tụng đối với mỗi vụ án cụ thể và cũng không có
quyết định bằng văn bản thành lập HĐXX. Thông thường, sau khi Tòa án thụ
lý vụ án, Chánh án Tòa án giao hồ sơ vụ án cho Thẩm phán bằng cách cho
Thẩm phán ký nhận trong sổ phân công Thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa.
Thẩm phán đó có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án trong thời hạn luật
định. Nếu thấy có đủ điều kiện để đưa vụ án ra xét xử thì báo cáo với Chánh

19


án để Chánh án phân công Hội thẩm tham gia xét xử. Đối với Hội thẩm cũng
rất ít Chánh án có quyết định phân công Hội thẩm tiến hành tố tụng bằng văn
bản, thông thường chỉ phân công miệng hoặc có giấy mời Hội thẩm tham gia
xét xử. Sau khi Chánh án Tòa án phân công Hội thẩm, Thẩm phán ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử. quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ họ tên
những người tiến hành tố tụng, đây là văn bản pháp lý đầu tiên chính thức xác
lập vị trí, quyền hạn, trách nhiệm Thẩm phán, Hội thẩm trong HĐXX. Hiện
nay, BLTTHS không quy định hình thức phân công Thẩm phán, Hội thẩm tiến
hành tố tụng đối với mỗi vụ án, do đó Chánh án Tòa án không ban hành quyết
định bằng văn bản thành lập HĐXX hoặc quyết định phân công Thẩm phán,
Hội thẩm tiến hành tố tụng bằng văn bản chưa tạo ra cơ sở pháp lý chặt chẽ để

xác định vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán, Hội thẩm trong quá
trình giải quyết vụ án. Đây là một hạn chế của BLTTHS cần phải xem xét,
nghiên cứu.
1.1.3 Địa vị pháp lý của Hội đồng xét xử
Địa vị pháp lý là một thuật ngữ có thể được hiểu theo nhiều cách khác
nhau. Có cách hiểu địa vị pháp lý đơn giản là các quyền và nghĩa vụ của một
chủ thể theo quy định của pháp luật. Có cách hiểu địa vị pháp lý là quyền hạn
và trách nhiệm của chủ thể nào đó trong các mối quan hệ được pháp luật điều
chỉnh. Theo Từ điển tiếng Việt: "Địa vị là vị trí, vai trò của cá nhân trong
quan hệ xã hội do chức vụ, cấp bậc, quyền lực mà có" [23, tr. 501]. Còn theo
Từ điển luật học:
Địa vị pháp lý là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan
hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của
pháp luật. Địa vị pháp lý của chủ thể pháp luật thể hiện thành một
tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập
cũng như giới hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của
mình [31, tr. 244].

20


Mỗi chủ thể trong xã hội có những vị trí khác nhau, các chủ thể đó
cũng có các mối quan hệ xã hội khác nhau, do vậy pháp luật quy định họ có
những quyền và nghĩa vụ khác nhau. Nhưng nhìn từ cách khác, chính các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể đó tạo ra cho chủ thể có những vị trí
khác nhau trong xã hội, các quyền và nghĩa vụ đấy cũng xác lập hay giới hạn
khả năng của các chủ thể trong phạm vi của mình. Quyền của các chủ thể
được hiểu là pháp luật ghi nhận và đảm bảo để chủ thể đó được làm hoặc
không làm một việc gì đó. Khi thực hiện quyền, chủ thể có thể thực hiện hoặc
không thực hiện một công việc gì mà không phải gánh chịu bất kỳ một hậu

quả pháp lý nào. Nghĩa vụ có thể nhìn nhận là trách nhiệm của chủ thể phải
làm hoặc không được làm một việc nào đó theo quy định của pháp luật, nếu
chủ thể đó không thực hiện nghĩa vụ của mình có thể sẽ phải gánh chịu những
hậu quả pháp lý xấu mà pháp luật đã quy định. Khi nói tới địa vị pháp lý của
một cá nhân người ta hay nói tới quyền và nghĩa vụ của cá nhân đó theo pháp
luật, nhưng khi nói tới địa vị pháp lý của một tập thể hay một tổ chức người ta
nói tới quyền hạn, trách nhiệm của tổ chức đó trước pháp luật. Quyền hạn
được Từ điển tiếng Việt định nghĩa là:" quyền được xác định về nội dung,
phạm vi và mức độ" [23]. Từ điển Luật học định nghĩa quyền hạn là: "quyền
được xác định lại trong phạm vi không gian, thời gian, lĩnh vực hoạt động,
cấp và chức nhất định" [31, tr. 651]. Quyền hạn được thể hiện qua các quy
định của pháp luật, hành vi vượt quá quyền hạn là lạm quyền, lộng quyền.
Còn trách nhiệm được định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt là "phần việc được
giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu
hậu quả" [23, tr. 1576]. Hiện nay BLTTHS và các văn bản pháp luật khác
không có một quy định riêng rõ ràng nào về quyền hạn và trách nhiệm của
HĐXX cấp sơ thẩm. Quyền hạn, trách nhiệm của HĐXX cấp sơ thẩm được
thể hiện rải rác trong các quy định của BLTTHS.
Theo quy định của BLTTHS năm 2003, HĐXX được hình thành từ
sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử và chấm dứt hoạt động sau khi kết

21


thúc phiên tòa. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cá nhân Thẩm phán và Hội
thẩm có quyền thực hiện một số hành vi tố tụng như Thẩm phán có quyền ra
một số quyết định như: Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung; quyết định
đình chỉ; quyết định tạm đình chỉ vụ án… Hội thẩm có quyền nghiên cứu hồ
sơ. Nhưng các quyền hạn, trách nhiệm này họ thực hiện nhân danh cá nhân
chứ không thay mặt HĐXX. Quyền hạn, trách nhiệm của Thẩm phán, Hội

thẩm tập trung nhất khi họ tham gia xét xử tại phiên tòa với tư cách là thành
viên HĐXX. Họ thực hiện những quyền năng pháp lý và chịu trách nhiệm
trước pháp luật về những hành vi, quyết định của mình. Do vậy theo TS.
Nguyễn Văn Tuân" khi xem xét địa vị pháp lý của Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân cần phải xem xét họ trong thành phần Hội đồng xét xử" [27].
HĐXX là một chủ thể đặc biệt, không phải là cá nhân, cùng không
phải là pháp nhân, đó là một tập thể được thành lập theo quy định của pháp
luật gồm có Thẩm phán và các Hội thẩm. HĐXX thay mặt Nhà nước xét xử
một vụ án hình sự. Khi xét xử, HĐXX thể hiện quyền lực của Nhà nước phán
xét về một vụ án. Hoạt động của HĐXX là nhân danh Nhà nước và nhân danh
Tòa án nơi nó thực hiện nhiệm vụ. Khi xét xử, HĐXX được Nhà nước trao
cho rất nhiều quyền hạn và trách nhiệm. Địa vị pháp lý của HĐXX thể hiện
thông qua các quy định của pháp luật về quyền hạn và trách nhiệm của
HĐXX, cũng như qua các mối quan hệ của HĐXX với các chủ thể khác trong
hoạt động tố tụng hình sự. Đối với HĐXX quyền hạn và trách nhiệm không
thể tách rời, quyền hạn đồng thời là trách nhiệm của HĐXX do vậy rất khó để
phân biệt rạch ròi đâu là quyền hạn, đâu là trách nhiệm của HĐXX. Ví dụ:
Khi xét xử, HĐXX có quyền xét hỏi bị cáo nhưng đây cũng chính là trách
nhiệm của HĐXX. Hoặc như HĐXX có quyền áp dụng một mức hình phạt
nào đó đối với bị cáo đã bị kết tội, nhưng hình phạt đó đó phải phù hợp với
tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo. Việc tuyên
một mức án đúng pháp luật vừa là quyền hạn vừa là trách nhiệm của HĐXX.

22


Vì vậy khi xem xét địa vị pháp lý của HĐXX ta phải gắn quyền hạn với trách nhiệm
của HĐXX không thể tách ra đâu là quyền hạn, đâu là trách nhiệm một cách giản
đơn. Quyền hạn, trách nhiệm của HĐXX cấp sơ thẩm xuất hiện từ sau khi có quyết
định đưa vụ án ra xét xử đến khi kết thúc phiên tòa và được quy định tập trung trong

một số nội dung của "Phần thứ nhất: Những quy định chung" và trong "Phần thứ ba:
Xét xử sơ thẩm" của BLTTHS. Vì vậy khi xem xét địa vị pháp lý của HĐXX cấp sơ
thẩm trong tố tụng hình sự, cần tập trung xem xét quyền hạn, trách nhiệm của
HĐXX qua những quy định tại các phần này.

Từ các phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm về địa vị pháp lý của
HĐXX trong tố tụng hình sự như sau: Địa vị pháp lý của HĐXX cấp sơ thẩm
trong tố tụng hình sự là vị trí của HĐXX trong mối quan hệ với những người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng trên cơ sở các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi kết thúc phiên tòa.
Địa vị pháp lý của HĐXX cấp sơ thẩm được thể hiện thông qua tổng thể những
quyền hạn, trách nhiệm của HĐXX trong hoạt động xét xử sơ thẩm.
1.2 MỘT SỐ NGUYÊN TẮC LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI
ĐỒNG XÉT XỬ CẤP SƠ THẨM

Theo Từ điển tiếng Việt: "Nguyên tắc là điều cơ bản định theo, nhất
thiết phải tuân theo" [23, tr. 1077]. BLTTHS quy định các nguyên tắc nhằm
bảo đảm việc thực hiện Bộ luật được thống nhất. Các nguyên tắc này chi phối
một, một số hoặc toàn bộ các giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự, nó bảo
đảm cho hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng được đúng pháp luật. Cũng như các hoạt động tố tụng
hình sự khác, hoạt động xét xử cũng phải tuân theo những nguyên tắc đã được
quy định trong BLTTHS.
Đối với HĐXX xét xử sơ thẩm phải tập trung vào thực hiện đúng các
nguyên tắc sau: Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ

23



×