Tải bản đầy đủ (.docx) (138 trang)

Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 138 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ QUẢNG OAI

DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2006


Diện và hàng thừa kế theo pháp luật
dân sự Việt Nam : Luận văn ThS / Đỗ
Quảng Oai ; Nghd. : TS. Phạm Công Lạc .
- H. : Khoa Luật, 2006 . - 123 tr. + Tóm
tắt + Đĩa mềm

MỞ ĐẦU

Chương 1: Khái quát chung về thừa kế
1.1.

Khái niệm chung

1.2.

Diện và hàng thừa kế

Chương 2: Diện và hàng thừa kế theo quy định củ


sự Việt Nam

2.1

Diện thừa kế

2.2.

Hàng thừa kế
Chương 3: thực tiễn áp dụng pháp luật và phươn

những quy định của pháp luật việt nam
thừa kế

3.1.

Thực trạng và diễn biến của tình hình giải qu

chấp về thừa kế trong những năm gần đây (t
2005)
3.2.

Nguyên nhân và dự báo

3.3.

Những vụ án cụ thể liên quan đến diện và hà
những nội dung pháp lý cần quan tâm

3.4.


Những đề xuất về hướng hoàn thiện các quy
và hàng thừa kế theo pháp luật


KẾT LUẬN

117

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

119


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động có ích của mỗi người là nguồn gốc tạo ra của cải xã hội.
Song để biến lao động thành một hoạt động tự giác, phát huy được tính năng
động, sáng tạo của người lao động thì xã hội phải quan tâm tới lợi ích của họ.
Chính vì thế chế định quyền sở hữu nói chung và chế định quyền thừa kế nói
riêng ra đời là một trong những phương thức pháp lý cần thiết để bảo toàn và
gia tăng tích lũy của cải trong xã hội. Về mặt tâm lý cá nhân không chỉ muốn
mình có quyền năng đối với khối tài sản của mình khi còn sống, mà còn muốn
chi phối nó ngay cả khi đã chết. Vì vậy, Nhà nước đã công nhận quyền thừa
kế của cá nhân đối với tài sản, coi thừa kế là một trong những căn cứ xác lập
quyền sở hữu. Điều này không chỉ có tác dụng kích thích tính tiết kiệm trong
sản xuất và tiêu dùng mà còn tạo động lực phát triển lòng say mê, kích thích
sự quản lý năng động của mỗi con người, tạo ra sự thi đua thầm lặng của mỗi
cá nhân nhằm nhân khối tài sản của mình lên bằng sức lực và khả năng sáng

tạo mà họ có. Khi họ chết, các tài sản của họ để lại sẽ trở thành di sản và được
phân chia cho các thế hệ con cháu. Và nếu như con cháu chính là sự hóa thân
của ông bà, bố mẹ, là sự kéo dài nhân thân của mỗi người thì sự chuyển dịch
di sản theo chế định thừa kế chính là sự nối tiếp về quyền sở hữu. Vì vậy, một
người coi là đã chết nhưng chết chưa hẳn là đã chấm dứt mà một phần con
người đó còn hiện hữu, tồn tại trong con cháu, trong những di sản mà họ để
lại. Pháp luật công nhận quyền thừa kế của cá nhân đã đáp ứng một phần
mong mỏi của con người là tồn tại mãi mãi. Chính vì thế, pháp luật thừa kế
trên thế giới nói chung và pháp luật thừa kế ở Việt Nam nói riêng đã không
ngừng phát triển và hoàn thiện.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, sau Hiến pháp 1992, Bộ luật dân
sự (BLDS) chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, tạo lập hành lang pháp lý cho các

1


cá nhân khi thực hiện quyền thừa kế. Được quy định tại phần thứ tư, bao gồm
4 chương, 56 điều, từ Điều 631 đến Điều 687 của BLDS năm 2005 chế định
thừa kế đã tạo chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các chủ thể khi tham
gia quan hệ thừa kế, góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Chế
định quyền thừa kế trong BLDS đã kết tinh những thành tựu của khoa học
pháp lý nhân loại góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát
huy những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp đã ăn sâu vào tiềm thức và
lưu truyền qua bao đời của dân tộc Việt Nam.
Hiện nay các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày càng gia tăng và
trở nên phức tạp hơn. Sự nhận thức không đầy đủ về pháp luật của cá nhân, sự
áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp Tòa án là những yếu tố làm
cho các vụ kiện gặp nhiều khó khăn, thời gian giải quyết kéo dài, ảnh hưởng
không tốt đến truyền thống đạo đức tốt đẹp vốn có từ lâu đời của dân tộc Việt
Nam. Đặc biệt, một trong những khó khăn vướng mắc lớn khi áp dụng các

quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp thừa kế chính là vấn đề xác
định sao cho đúng về diện và hàng thừa kế.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, phân tích, kiến nghị để làm sáng
tỏ một số vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế trong chế định thừa kế theo
pháp luật là một đòi hỏi tất yếu, khách quan cả về mặt lý luận cũng như thực
tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế.
2. Tình hình nghiên cứu
Do tầm quan trọng của vấn đề thừa kế nên nội dung này đã được rất
nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm, nghiên cứu. Tiến sĩ Phùng Trung Tập
đã giới thiệu với bạn đọc tác phẩm "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt
Nam từ năm 1945 từ trước đến nay"; Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện là tác giả của
cuốn "Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam"; Phó
giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Thanh - Trần Hữu Biền có tác phẩm "Hỏi đáp về
pháp luật thừa kế". Ngoài ra, còn có nhiều bài viết về đề tài này được đăng tải

2


trên các sách báo, tạp chí. Đặc biệt hơn, còn có rất nhiều các cử nhân, học
viên chọn nội dung này làm đề tài cho các luận văn tốt nghiệp của mình.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng, mang tính toàn
diện, bao quát cả chế định pháp luật về thừa kế, và đưa ra những kiến nghị để
ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về thừa kế. Riêng với đề tài
"Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam", tác giả tập trung đi
sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung, bản chất của diện và hàng thừa kế được
quy định trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra một số
kiến nghị mang tính giải pháp để ngày càng hoàn thiện hơn những quy định
về nội dung này trong luật.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, nội dung, bản chất quy

định của pháp luật về quyền thừa kế nhằm làm sáng tỏ diện và hàng thừa kế.
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả đã tham khảo toàn bộ các quy định của nước ta
về diện và hàng thừa kế gắn với từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước,
đồng thời nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế giới cũng như các
sách chuyên khảo và những tài liệu liên quan đến vấn đề này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Bên cạnh đó còn có sự phối hợp với
một số phương pháp khác như: phương pháp thống kê, phương pháp phân
tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ nội dung và bản chất của
diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam qua từng giai
đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, xác định đúng, chính xác

3


những người thuộc diện thừa kế và thứ tự hưởng ưu tiên theo quy định của
BLDS năm 2005.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả rút ra những vướng mắc còn tồn
tại khi áp dụng quy định của pháp luật về diện và hàng thừa kế. Từ đó đưa ra
những đề xuất, kiến nghị mang tính giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế,
tồn tại, góp phần hoàn thiện hơn các quy định về thừa kế.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
lĩnh vực thừa kế. Có những công trình khoa học nghiên cứu vấn đề nội dung
này một cách toàn diện, bao quát, nhưng cũng có những công trình chỉ nghiên
cứu một khía cạnh nhỏ của chế định thừa kế trong luật. Tuy nhiên, chưa có
công trình nào nghiên cứu chi tiết, cụ thể về diện và hàng thừa kế gắn với

từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Đây là luận văn ở cấp độ thạc sĩ
đầu tiên nghiên cứu từng diện và từng hàng thừa kế gắn với từng quy định của
mỗi giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, tác giả nghiên
cứu làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hiện hành và tìm ra những
vướng mắc còn tồn tại trên thực tế và đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn
thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế trong BLDS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về thừa kế.
Chương 2: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện
những quy định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế.

4


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ

1.1. KHÁI NIỆM CHUNG

1.1.1. Thừa kế và quyền thừa kế
Một trong những yếu tố để đánh giá sự vững mạnh của một quốc gia
đó chính là sự bảo hộ của Nhà nước về các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân cũng như việc kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng
đồng. Trên tinh thần đó, quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của
công dân được pháp luật bảo vệ. Điều 58 Hiến pháp năm 1992 của Việt Nam
quy định "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của
công dân".

Để hiểu và nhận thức sâu sắc về khái niệm quyền thừa kế trước hết
phải làm sáng tỏ nội dung khái niệm thừa kế. Theo Từ điển tiếng Việt: "Thừa
kế là hưởng của người khác để lại cho". Theo các tác giả của Giáo trình Luật
dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội, thừa kế được hiểu là: "Việc dịch
chuyển tài sản của người đã chết cho những người còn sống". Khái niệm này
đã phản ánh chính xác bản chất cũng như nội dung thừa kế.
Thừa kế luôn gắn với quan hệ sở hữu xuất hiện đồng thời với quan hệ sở
hữu và sự phát triển của xã hội loài người. Khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời
thì quan hệ sở hữu và quan hệ thừa kế đã tồn tại như một tất yếu khách quan.
Thừa kế xuất hiện phụ thuộc vào quan hệ sở hữu. Nếu sở hữu là yếu tố quyết
định thừa kế, thì thừa kế là phương tiện duy trì và củng cố quan hệ sở hữu.

Thừa kế và sở hữu là hai phạm trù kinh tế cùng tồn tại song song trong
một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, chúng có mối liên hệ biện chứng với
nhau, chỉ đạo, chi phối lẫn nhau, cùng phát triển theo sự phát triển của xã hội
loài người.

5


Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất
hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người - chế độ cộng sản
nguyên thủy. Trong thời kỳ này, quan hệ thừa kế chỉ đơn thuần là một quan hệ
xã hội, việc thừa kế chỉ nhằm di chuyển tài sản của người chết cho những
người còn sống được tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những
phong tục tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định.
Khi nhà nước ra đời việc chiếm giữ của của vật chất giữa người với
người được điều chỉnh bằng pháp luật theo hướng có lợi cho giai cấp thống
trị. Nhà nước đã sử dụng pháp luật là công cụ để bảo vệ tài sản và quyền tài
sản của người chết cho những người còn sống, quy định quyền của các chủ sở

hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình. Lúc này các
quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu không chỉ tồn tại một cách khách quan với
ý nghĩa là một phạm trù kinh tế nữa, mà những quan hệ này đã bị ràng buộc
bởi những quy phạm pháp luật và làm xuất hiện khái niệm quyền thừa kế.
Nếu thừa kế là một phạm trù kinh tế tồn tại khách quan thì quyền thừa
kế là một phạm trù pháp lý chỉ phát sinh khi có nhà nước và pháp luật. Nếu
thừa kế là một quan hệ xã hội phát sinh ngay cả khi xã hội chưa phân chia giai
cấp, chưa có nhà nước và pháp luật, thì quyền thừa kế lại là một quan hệ pháp
luật chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội đã phân chia giai cấp và dẫn tới sự ra đời
của nhà nước.
Quyền thừa kế được xem xét rất nhiều góc độ. Với tính chất là một
chế định pháp luật dân sự, quyền thừa kế bao gồm tổng thể các quy phạm
pháp luật do nhà nước đặt ra nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho người khác còn
sống theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định do pháp luật quy định.
Đồng thời, quy định quyền và nghĩa vụ cũng như các phương thức bảo vệ các
quyền và nghĩa vụ đó của những chủ thể trong quan hệ thừa kế.
Với tính chất là một quyền năng dân sự, quyền thừa kế là những
quyền năng cụ thể của chủ thể trong việc để lại di sản thừa kế và nhận di sản

6


thừa kế. Đó là những khả năng mà các chủ thể được phép xử sự theo quy định
của pháp luật: Được để lại di sản thừa kế như thế nào, việc lập di chúc phải
tuân thủ những yêu cầu gì, ai là người được nhận di sản thừa kế, khi nào thì bị
tước quyền hưởng di sản thừa kế... Trong các quan hệ về thừa kế, các chủ thể
chủ động hiện thực hóa những quyền năng đó để biến nó thành những quyền
dân sự cụ thể qua đó đáp ứng được nhu cầu và thực hiện được lợi ích cho bản
thân mình.

Nói tóm lại, quyền thừa kế là một chế định của Luật dân sự, bao gồm
tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết
sang cho người khác còn sống dựa trên cơ sở ý chí của người để lại di sản
hoặc theo quy định của pháp luật.


mỗi một chế độ khác nhau, tùy thuộc vào tính chất của chế độ sở

hữu, thông qua pháp luật, nhà nước quy định một chế định thừa kế và coi đó
là một phương tiện để bảo vệ quyền lợi cho các cá nhân cũng như quyền lợi
của giai cấp lãnh đạo xã hội.
Trong nhà nước chủ nô, quyền để lại thừa kế về nô lệ của giai cấp chủ
nô là sự chuyển lại quyền sở hữu đối với những "công cụ biết nói" và cũng
chính là sự truyền lại quyền lực chính trị để duy trì sự áp bức bóc lột của giai
cấp chủ nô đối với nô lệ.
Trong nhà nước phong kiến và nhà nước tư sản, giai cấp bóc lột luôn
sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội và di sản mà họ để lại cho
con cháu cũng chính là những di sản ấy, việc thừa kế chỉ là sự thay thế kẻ
thống trị này bằng kẻ thống trị khác trong cùng một giai cấp mà thôi.
Pháp luật thừa kế ở nước ta trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho
người lao động, tôn trọng thành quả lao động do họ làm ra cũng như chuyển
thành kết quả đó cho những người thừa kế sau khi họ chết. Mặt khác, quyền
thừa kế ở nước ta là một trong những phương tiện để củng cố và phát triển các
quan hệ hôn nhân gia đình, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong

7


quan hệ thừa kế, đặc biệt bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên hoặc đã

thành niên nhưng không có khả năng lao động. Qua đó góp phần bảo đảm
quyền sở hữu cho mọi cá nhân trong xã hội.
Tóm lại, thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của một người đã chết sang
cho người còn sống theo những trình tự luật định. Quyền thừa kế của một cá
nhân gắn bó chặt chẽ với quyền sở hữu của cá nhân đó. Quyền sở hữu là tiền
đề, là cơ sở của quyền thừa kế và ngược lại, quyền thừa kế là căn cứ thiết lập
quyền sở hữu mới. Vì vậy, hệ thống pháp luật dân sự của tất cả các nước trên
thế giới bao giờ cũng qui định về vấn đề thừa kế như là một phương thức bảo
đảm quyền sở hữu của chủ sở hữu.
1.1.2. Di sản thừa kế
Quyền sở hữu tài sản là một trong những quyền cơ bản của công dân
được nhà nước bảo hộ. Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở… Khi còn sống họ có quyền đưa các loại tài sản của mình
lưu thông dân sự hoặc lập di chúc cho người khác hưởng tài sản của mình sau
khi chết. Trường hợp công dân có tài sản thuộc quyền sở hữu riêng, không lập
di chúc sau khi chết, tài sản này được chia theo luật và toàn bộ tài sản thuộc
quyền sở hữu hợp pháp của người đã chết được gọi là di sản thừa kế.
Theo Từ điển tiếng Việt: "Di sản là của cải, tài sản của người chết để
lại" [51].
Điều 634 BLDS năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng
của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người
khác" [9].
Di sản được Điều 634 BLDS quy định một cách ngắn gọn nhưng khá
đầy đủ và có tầm khái quát cao, không dùng phương pháp liệt kê bao gồm
những tài sản gì như những quy định trước đây. Bởi lẽ, quyền tài sản đã nằm

8


trong khái niệm tài sản được quy định tại Điều 163 BLDS: "Tài sản bao gồm

vật, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [9].
Như vậy, di sản là toàn bộ những tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp
của người đã chết cũng như các quyền về tài sản của người đó bao gồm:
-

Tư liệu sinh hoạt.

Tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý được dùng làm đồ trang sức

hoặc dùng làm của cải để dành, tiền tiết kiệm ngân hàng, tiền lương, tiền
thưởng chưa lĩnh.
-

Nhà ở thuộc sở hữu của người chết.

-

Vốn, cổ phần, vật tư, tư liệu sản xuất của người chết.

-

Tài liệu, dụng cụ máy móc của người làm công tác nghiên cứu.

Cây cối mà người được giao sử dụng đất trồng và hưởng lợi trên
đất đó.

-

Các quyền về tài sản đó là quyền đòi nợ đồ vật đã cho mượn, cho


thuê, chuộc lại tài sản đã cầm cố, quyền đối với tài sản đã thế chấp, đã bồi
thường thiệt hại về tài sản, hưởng những quyền lợi của tác giả hoặc chủ sở
hữu văn bằng, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả đối với tác
phẩm. Tuy nhiên, quyền tài sản gắn với nhân thân của người chết như tiền cấp
dưỡng, tiền lương hưu không được coi là di sản thừa kế.
-

Theo quy định của pháp luật, để khắc phục những rủi ro xảy ra cá

nhân có thể mua bảo hiểm cho bản thân mình. Trên cơ sở đóng phí bảo hiểm
và khi có sự kiện bảo hiểm thì cơ quan bảo hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm
dựa trên mức đóng phí bảo hiểm. Ở loại hình bảo hiểm nhân thọ là loại hình
bảo hiểm tuổi thọ của con người và khi người đó chết sẽ được hưởng số tiền
bảo hiểm đó. Và lúc này số tiền bảo hiểm trở thành một phần trong tổng tài
sản của người chết để lại cũng là di sản thừa kế.

9


-

Phần tài sản của người chết trong khối tài sản với người khác. Sự

phát triển của đời sống xã hội khiến cho tài sản của mỗi người càng trở nên
phong phú và đa dạng hơn. Ngoài tài sản riêng có được do thu nhập hợp pháp,
của để dành hoặc do được thừa kế thì một loại tài sản nữa của người chết là
một phần tài sản của người này trong khối tài sản chung với người khác, có
thể do vợ chồng cùng tạo lập hoặc nhiều người cùng góp vốn để sản xuất kinh
doanh.
Trong thời kỳ hôn nhân mọi tài sản của vợ chồng đều thuộc sở hữu

chung hợp pháp. Điều 27 Luật Hôn nhân và Gia đình (HN&GĐ) 2000 quy
định: "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập
do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp
khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung" [30].
Khối tài sản đó được cả vợ và chồng cùng nhau tạo lập, phát triển bằng công
sức của mỗi người nên khó có thể phân định được phần của mỗi người là bao
nhiêu. Do đó, cả hai vợ chồng đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong
việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Khi một bên chết trước nếu
cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia làm đôi, một nửa khối tài sản
chung đó là tài sản của người chết được chuyển thành di sản thừa kế và được
chia cho người thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế.
-

Khác với hình thức sở hữu chung hợp nhất, hình thức sở hữu chung

theo phần được hình thành khi có nhiều người cùng góp vốn để cùng sản xuất
kinh doanh. Khi đó tài sản có được thuộc quyền sở hữu chung của nhiều người,
nếu một trong số những người đó chết thì di sản của người chết còn bao gồm cả
phần tài sản thuộc sở hữu của người đó đã đóng góp trong khối tài sản chung.

Đặc biệt, thừa kế quyền sử dụng đất là một vấn đề mới được đưa vào
chương VI phần 4 BLDS 1995 và tiếp tục được ghi nhận và mở rộng tại
chương XXXIII phần 5 BLDS năm 2005. Qui định thừa kế quyền sử dụng tại

10


chương XXXIII phần 5 BLDS năm 2005 đáp ứng các qui định quyền của
người sử dụng đất được qui định tại Luật Đất đai năm 2003, Nghị định

181/2004/ NĐ-CP ngày 29/10/2004, đã tạo điều kiện thuận lợi cho những
người có nhu cầu trực tiếp sử dụng đất và có quyền thừa kế quyền sử dụng
đất.
Tóm lại, di sản được Điều 634 BLDS quy định một cách ngắn gọn
nhưng đầy đủ và có tính khái quát cao. Điều này thể hiện trình độ và kỹ thuật
lập pháp của nước ta đã đạt được một kết quả nhất định.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp và có liên quan đến nhiều vấn đề
khác trong quan hệ thừa kế mà chỉ được quy định trong một điều luật nên khi
nghiên cứu cũng như khi xét xử phải đặt nó trong mối liên hệ biện chứng với các
quy phạm pháp luật khác liên quan trực tiếp đến việc xác định và phân chia di sản.

Bởi vậy, việc xác định quyền sở hữu của một người để từ đó xác định
di sản khi người đó chết còn gặp nhiều vướng mắc về mặt lý luận cũng như
thực tiễn.
1.1.3. Ngƣời để lại di sản thừa kế
Quyền để lại thừa kế là một quyền cơ bản của cá nhân được pháp luật
Việt Nam ghi nhận và bảo hộ. BLDS năm 2005 quy định rõ: "Cá nhân có
quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho
người thừa kế theo pháp luật" (Điều 631) và "Mọi cá nhân đều bình đẳng về
quyền để lại tài sản của mình cho người khác" (Điều 632) [9].
Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu của mọi công dân đối với những thu nhập
hợp pháp của mình. Theo đó bất kỳ ai cũng có quyền quyết định đối với số phận
của các loại tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của mình. Vì thế cá nhân có quyền
lập di chúc cho người khác hưởng tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của mình sau
khi mình chết, nếu không có di chúc tài sản này thì chia theo pháp luật.

11


Như vậy, BLDS năm 2005 ghi nhận quyền định đoạt tài sản của người

chết thông qua việc lập di chúc để chỉ định thừa kế, truất quyền hưởng di sản
của người thừa kế. Phần lớn những người được hưởng thừa kế theo di chúc là
những người có quan hệ thân thiết với người lập di chúc như: Cha, mẹ, vợ,
chồng, con. Tuy nhiên, pháp luật cho phép người lập di chúc có quyền chỉ
định người thừa kế, vì thế họ có quyền chỉ định bất cứ ai có thể là cá nhân
trong hay ngoài diện thừa kế theo quy định của pháp luật, thậm chí cũng có
thể là nhà nước hoặc tổ chức nào đó. Ngoài ra, pháp luật về thừa kế còn cho
phép người lập di chúc được truất quyền hưởng di sản của một người thừa kế
nào đó cho dù họ có đủ các điều kiện để có thể thừa kế tài sản theo pháp luật.
Cần lưu ý rằng, người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, không thể là
các pháp nhân hay tổ chức. Các pháp nhân hay tổ chức được thành lập với
những mục đích và nhiệm vụ khác nhau và tài sản của các pháp nhân, tổ chức
đó nhằm để phục vụ cho các hoạt động của chính mình. Khi các pháp nhân, tổ
chức đó đình chỉ hoạt động của mình (phá sản, giải thể...) tài sản của các pháp
nhân, tổ chức được giải quyết theo các quy định của pháp luật. Các pháp
nhân, tổ chức chỉ tham gia quan hệ thừa kế với tư cách là người được hưởng
di sản theo di chúc.
1.1.4. Ngƣời thừa kế
Người thừa kế là người hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo
quy định của pháp luật. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, tổ chức
nhưng người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và phải có quan hệ
hôn nhân, gia đình hoặc nuôi dưỡng đối với người để lại di sản. Giữa người
để lại di sản và người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ pháp lý với nhau.
Người thừa kế có quyền sở hữu đối với phần di sản thừa kế, đồng thời họ phải
gánh vác những nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản.
Điều 635 BLDS năm 2005 quy định:

12



Người thừa kế phải là cá nhân còn sống vào thời điểm mở
thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng
đã thành thai trước khi người để lại di sản chết
Trong trường hợp người thừa kế là cơ quan tổ chức thì phải
là cơ quan tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế [9].
Như vậy, pháp luật quy định chỉ những người còn sống mới có năng
lực hưởng thừa kế. Tuy nhiên, đối với những người sắp sinh ra pháp luật cũng
quy định họ cũng có thể là người thừa kế nếu vào thời điểm mở thừa kế (lúc
người để lại di sản chết) họ đã thành thai. Nếu một người chưa thành thai vào
thời điểm mở thừa kế hoặc thành thai trước thời điểm mở thừa kế nhưng sinh
ra không sống thì không được hưởng di sản thừa kế.
Pháp luật quy định: "Người thừa kế đang là thai nhi nếu sinh ra sau
khi mở thừa kế và phải còn sống". Thực tế khó xác định được như thế nào là
sinh ra và còn sống. Nghị định 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính
phủ về đăng ký hộ tịch quy định: nếu thai nhi sinh ra chết sau một ngày vừa
phải khai sinh và vừa phải khai tử. Trường hợp chết trong vòng một ngày
không phải khai sinh và khai tử. Do vậy, có thể coi trường hợp này nhà nước
chưa quản lý về hộ tịch của đứa trẻ dưới một ngày. Như vậy có thể hiểu rằng,
đứa trẻ sinh ra sau một ngày thì coi như là còn sống.
Có quan điểm cho rằng, một đứa trẻ sinh ra phải có những căn cứ pháp
lý, đó là giấy khai sinh mới được coi là một cá nhân trong xã hội. Thực tế, ở
nhiều gia đình do không có điều kiện nên chưa làm giấy khai sinh được thì đứa
trẻ sinh ra được coi là một cá nhân trong xã hội hay chưa? Có được thừa kế hay
không? Thông thường một đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời đã là một con người
trong xã hội. Vì vậy, không có lý do gì mà không thừa nhận sự tồn tại của chúng
trong xã hội. Vấn đề này cũng cần được quy định cụ thể để tránh hiểu lầm và có
căn cứ áp dụng pháp luật thống nhất. Vì vậy, để bảo đảm quyền lợi cho người
thừa kế là trẻ sơ sinh nên chăng cần quy định cụ thể việc xác định một đứa trẻ
sinh ra bao lâu được coi là còn sống. Nhưng cần quy định một


13


khoảng thời gian cụ thể để xác định đứa trẻ sau khi sinh được coi là còn sống,
để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của những thai nhi thuộc diện thừa kế.
Người hưởng thừa kế theo di chúc còn có thể là các cơ quan, tổ chức
có tư cách pháp nhân vào thời điểm mở thừa kế.
Bên cạnh việc quy định cụ thể về người thừa kế, pháp luật còn ghi
nhận một số trường hợp người không được quyền nhận di sản, người thừa kế
từ chối nhận di sản, người thừa kế bị truất quyền hưởng di sản và trường hợp
người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
*

Trường hợp người không được quyền nhận di sản

Là những trường hợp người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật
bị tước quyền hưởng di sản vì họ không xứng đáng được hưởng quyền đó.
Khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005 quy định những trường hợp sau đây
không được quyền hưởng di sản [9]:
-

"Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe

hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm
phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó".
Những hành vi nói trên phải do Tòa án xét xử, kết án và có bản án có hiệu
lực pháp luật, không phụ thuộc vào loại hình phạt và dù rằng đã được xóa án.

"Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi người để lại di
sản".

Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, cha mẹ có nghĩa vụ nuôi
dưỡng con chưa thành niên và con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình (Điều 36 khoản 1); Anh, chị em có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong
trường hợp không còn cha, mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện nuôi dưỡng
con (Điều 48); Ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu chưa
thành niên hoặc cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự,
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình và không có

14


ai nuôi dưỡng (Điều 47); người vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng là người có khả
năng mà không nuôi dưỡng, làm cho người thân thích và hàng xóm xung
quanh bất bình. Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng chứng minh
được họ không có thu nhập để thực hiện nghĩa vụ thì không bị coi là vi phạm
nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng.
-

"Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế

khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có
quyền hưởng".
Trường hợp này cũng cần phải có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án. Nếu giết người thừa kế khác không nhằm mục đích hưởng di
sản thì không rơi vào trường hợp này.
-

"Người đã có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di


sản trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái vớí ý chí của người để lại di sản".

Mặc dù những trường hợp nói trên là những trường hợp không được
quyền hưởng di sản nhưng khoản 2 Điều 643 BLDS quy định những người đó
vẫn được hưởng di sản"nếu người để lại di sản biết những hành vi của những
người đó nhưng vẫn cho họ hưởng thừa kế theo di chúc".
Việc không cho hưởng quyền nhận di sản được thực hiện sau khi mở
thừa kế. Trong thực tế xảy ra trường hợp làm giả mạo giấy tờ về người thừa
kế khác từ chối nhận di sản thừa kế để cho người đó được hưởng nhiều hơn.
Giấy tờ này không có giá trị pháp lý nhưng pháp luật không quy định trường
hợp này là trường hợp không được hưởng quyền nhận di sản. Đây là một vấn
đề mà các nhà lập pháp cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật hơn
nữa.
*

Trường hợp người thừa kế từ chối nhận di sản

15


Điều 642 BLDS năm 2005 quy định về việc người thừa kế có quyền từ
chối nhận di sản từ thời điểm mở thừa kế. Nếu người thừa kế theo pháp luật
được thừa kế theo di chúc mà từ chối nhận di sản theo di chúc thì họ vẫn có
quyền thừa kế theo pháp luật. Pháp luật quy định người thừa kế không bắt
buộc phải nhận thừa kế. Vì vậy khoản 1 Điều 642 BLDS quy định: "Người
thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn
tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác" [9].
Tuy nhiên, người thừa kế phải thể hiện rõ ý chí của mình bằng văn
bản, báo cho những người thừa kế khác biết, người phân chia di sản, cơ quan

công chứng nhà nước hoặc Ủy ban nhân dân (UBND) xã, phường, thị trấn nơi
mở thừa kế. Pháp luật cũng không quy định người thừa kế nào có quyên từ
chối nhận di sản. Vậy trường hợp người dưới mười tám tuổi có quyền từ chối
nhận di sản hay không? Nếu dưới mười tám tuổi mà từ chối nhận di sản phải
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý mới hợp lý vì thực tế những người
dưới mười tám tuổi chưa đủ năng lực hành vi để quyết định mọi việc.
Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng kể từ thời điểm mở thừa kế.
Việc quy định này cũng là điều bất hợp lý vì có trường hợp người được thừa
kế không biết thời điểm mở thừa kế ảnh hưởng đến quyền lợi của họ, kể từ
thời điểm mở thừa kế người hưởng thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ đối với
người chết. Do vậy, pháp luật quy định thời hạn sáu tháng là chưa hợp lý.
Người thừa kế không được từ chối nhận di sản nếu việc từ chối nhằm
trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người khác
Việc nhận hay không nhận di sản thừa kế là quyền của người thừa kế.
Tuy nhiên, khi thực hiện quyền này người thừa kế phải tuân theo những quy
định của pháp luật.
*

Trường hợp người thừa kế bị truất quyền hưởng di sản

Người bị truất quyền hưởng di sản khác với người không được quyền
hưởng di sản ở chỗ: Các trường hợp không có quyền hưởng di sản là do pháp

16


luật quy định và dự liệu trước, còn người bị truất quyền hưởng di sản là do ý
chí của người để lại di sản không muốn cho hưởng.
Tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người để lại di sản thừa kế
thì họ có quyền định đoạt đối với tài sản đó nghĩa là họ có quyền quyết định

cho ai? Cho cái gì? Và họ cũng có quyền truất quyền thừa kế của những người
thừa kế mà không cần phải có lý do.
Theo quy định tại Điều 648 BLDS năm 2005, người để lại di sản có
quyền lập di chúc truất quyền hưởng di sản của những người mà theo quy
định của pháp luật họ sẽ được hưởng thừa kế khi người để lại di sản chết.
Pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt của người để lại di sản thừa kế. Họ có
quyền để lại di chúc để cho một người hưởng một phần hay toàn bộ di sản,
hoặc cho hưởng ít hơn phần lẽ ra người thừa kế được hưởng. Đặc biệt hơn họ
còn có thể truất bỏ quyền thừa kế của người thừa kế. Có quan điểm cho rằng,
những người không được chỉ định trong di chúc cũng gián tiếp bị truất quyền.
Quan điểm này là không chính xác vì truất quyền hưởng di sản là sự trừng
phạt của người có di sản để lại đối với người thừa kế khi người này có những
hành vi bất kính với người để lại di sản hoặc giữa người để lại di sản và người
thừa kế đã tồn tại những mâu thuẫn. Việc không chỉ định trong di chúc cũng
có thể do người không được chỉ định trong di chúc đã có cuộc sống ổn định
không cần đến di sản nữa. Hai trường hợp này về bản chất là khác biệt nhau
hoàn toàn và nếu hiểu như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những
người không được chỉ định trong di chúc. Thực tế người không được chỉ định
trong di chúc vẫn có quyền thừa kế tài sản của người chết theo pháp luật đối
với những phần tài sản chưa được định đoạt trong di chúc hoặc người thừa kế
theo di chúc không nhận phần di sản theo di chúc thì phần tài sản này được
cho những người thừa kế khác không có tên trong di chúc.
*
Trường hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di
chúc

17


Nhằm đảm bảo lợi ích của một số các thành viên trong gia đình pháp luật

còn quy định một số trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Điều 669 BLDS năm 2005, quy định rõ con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng
hoặc con đã thành niên mà không có khả năng lao động vẫn được hưởng di sản
bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo luật nếu họ không thuộc
trường hợp từ chối nhận di sản hoặc không có quyền hưởng di sản. Quy định này
phù hợp với phong tục tập quán, truyền thống đạo đức của người Việt Nam.
1.2. DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ

1.2.1. Khái quát chung về diện và hàng thừa kế
*

Diện thừa kế

Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định
thừa kế, tuy nhiên vấn đề này lại chưa được các nhà làm luật quy định cụ thể,
chi tiết trong luật. Khái niệm diện thừa kế chỉ được quan tâm nghiên cứu
trong lĩnh vực khoa học pháp lý. Còn luật thực định từ trước đến nay chưa có
văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề này. BLDS 1995 cũng như BLDS năm
2005 chưa có nội dung nào quy định về khái niệm diện thừa kế là gì và diện
thừa kế bao gồm những ai? Đây là một vấn đề cần được khắc phục trong quá
trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Theo các tác giả của giáo trình Luật dân sự - Đại học Luật Hà Nội
khái niệm diện thừa kế được hiểu là "phạm vi những người có quyền hưởng di
sản của người chết theo quy định của pháp luật" [54, tr. 266].
Nhìn chung, khái niệm nêu trên đã phản ánh đầy đủ nội dung cũng
như bản chất của diện thừa kế.
Diện thừa kế chỉ được đặt ra trong trình tự thừa kế theo pháp luật. Mà
pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào quan hệ sản xuất của từng giai đoạn phát triển
xã hội. Vì thế ở mỗi một chế độ xã hội nhất định mà phạm vi những người thuộc
diện thừa kế theo pháp luật lại được quy định ở diện rộng hẹp khác nhau.


18


Tiếp cận và tìm hiểu những quy định của pháp luật của một số nước
trên thế giới về diện thừa kế cho thấy mặc dù có sự khác nhau về trình độ phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhưng nhìn chung dù ở chế độ xã hội nào những
người thuộc diện thừa kế theo pháp luật đều có đặc điểm chung là những
người thân thích gần gũi với người để lại di sản thừa kế và do quan hệ hôn
nhân và gia đình chi phối.
Pháp luật của Nhật và các nước Nam Mỹ quy định diện thừa kế bao
gồm các con của người chết; cha, mẹ, anh, chị, em ruột của người chết; bà con
xa, gần khác.
Một số nước như Đức, Áo, Thụy Sĩ quy định: Bà con bậc trên, thế hệ
trên của người chết như: cha, mẹ, cố, cụ; bà con bậc dưới, thế hệ dưới của
người chết như con, cháu.
Điều 1629 Bộ luật thương mại Thái Lan quy định diện thừa kế là: Con
cái; bố, mẹ; anh, chị, em cùng huyết thống; anh, chị, em cùng cha khác mẹ, cùng
mẹ khác cha; ông bà; chú, bác, cô, dì; người vợ (hoặc người chồng còn sống).



nước ta, trước năm 1945 dưới chế độ thực dân phong kiến, tư tưởng

trọng nam khinh nữ nặng nề đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc xác định diện thừa
kế. Địa vị của người vợ trong quan hệ gia đình luôn bị đẩy xuống bậc thứ yếu
so với các con và người chồng trong những quan hệ xã hội thông thường và
ngay cả trong quan hệ thừa kế.
Ngược lại với bản chất pháp luật của chế độ thực dân, phong kiến,
pháp luật thừa kế dưới chế độ mới ở nước ta đã được thể hiện rõ bản chất

ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
Điều 9 Hiến pháp 1946 quy định: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi
phương diện" [24], trong đó người vợ có quyền thừa kế như những người con
khác khi chồng chết trước. Đặc biệt, khi sắc lệnh số 97-SL ngày 22 tháng 5
năm 1950 được ban hành, diện thừa kế theo pháp luật theo tinh thần của Điều
10 và Điều 11 bao gồm: con cháu, vợ hay chồng của người để lại di sản [15].

19


Như vậy, diện thừa kế theo pháp luật dưới chế độ mới ở nước ta kể từ
năm 1945 đến nay luôn được xác định theo quan hệ huyết thống, quan hệ hôn
nhân và quan hệ nuôi dưỡng giữa người để lại di sản và người thừa kế.
Một người có thể trở thành người thừa kế theo pháp luật đối với di sản
của người chết thì giữa họ phải có mới quan hệ nhất định khi người để lại di
sản còn sống. Mối quan hệ này là sợi dây ràng buộc họ bởi quyền của người
này và nghĩa vụ của người kia hoặc là bổn phận và trách nhiệm giữa họ khi
người để lại di sản còn sống. Những mối quan hệ được bắt nguồn từ sâu xa
của giá trị đạo đức truyền thống cùng sự phù hợp với pháp luật của một chế
độ xã hội nhất định.
Theo BLDS hiện hành thì những người thuộc diện thừa kế gồm: Vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, mẹ nuôi, cha nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; ông
nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh, chị, em ruột của người chết; cháu ruột
của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cụ nội,
cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột chắt ruột
của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Tóm lại, diện thừa kế bao gồm các cá nhân còn sống có quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản được
tính đến thời điểm mở thừa kế của người đó và những cá nhân sinh ra và còn
sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di

sản chết. Phạm vi những cá nhân thuộc diện thừa kế được xác định theo số
người được pháp luật chỉ định trong các hàng thừa kế theo pháp luật của
người để lại di sản.
*

Hàng thừa kế

Khác với thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật phải xác định được
người thuộc diện thừa kế là ai? Nhưng không phải tất cả những người thuộc diện
thừa kế đều được hưởng di sản thừa kế như nhau, mà theo mức độ quan

20


hệ với người để lại di sản thừa kế, pháp luật phân những người thuộc diện
thừa kế thành các hàng thừa kế.
Hàng thừa kế là những nhóm, người thừa kế được pháp luật xếp trong
cùng một hàng. Việc chia hàng thừa kế có ý nghĩa thiết thực, đảm bảo để
những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những
người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng
thừa kế trước đó đã chết, hoặc do không có quyền hưởng di sản; hoặc bị truất
quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Nghiên cứu và phân tích một số các quy định về hàng thừa kế theo
pháp luật của một số nước trên thế giới cho thấy việc xác định hàng thừa kế ở
mỗi nước có khác nhau nhưng cũng như diện thừa kế, việc quy định hàng
thừa kế cũng đều dựa trên quan hệ huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng.
Điều 731 BLDS Pháp quy định hàng thừa kế được chia thành bốn lớp:
+

Lớp thứ nhất gồm: con, cháu của người chết


+ Lớp thứ hai gồm: cha, mẹ và anh, chị, em ruột … của người
chết
+
+

Lớp thứ ba gồm: Ông, bà, cụ, kỵ của người chết.

Lớp thứ tư gồm: cháu chú, cháu bác, cháu cậu, cháu dì, cháu già của

người chết [6].
Khái niệm hàng thừa kế là gì cũng không được quy định cụ thể trong
hệ thống pháp luật của Việt Nam và cũng chưa có tác giả nào đưa ra khái
niệm chính xác, đầy đủ thể hiện rõ nội dung của hàng thừa kế
Điều 676 BLDS năm 2005 quy định những người thừa kế theo pháp
luật được sắp xếp theo ba hàng thừa kế sau đây:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết

21


Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là
cụ nội, cụ ngoại [9].
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, hàng thừa kế cũng
được sắp xếp dựa trên cơ sở mức độ thân thích với người để lại di sản. Những

người thừa kế ở hàng thứ nhất và hàng thứ hai đều có mối quan hệ huyết
thống, hôn nhân, nuôi dưỡng với người để lại di sản, giữa họ đều có nghĩa vụ
nuôi dưỡng, giám hộ và đại diện đương nhiên của nhau khi thỏa mãn các điều
kiện phải giám hộ cho nhau nhất định. Những người thừa kế ở hàng thứ ba
được cơ cấu gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc trên dưới khác nhau theo quan hệ
huyết thống nhưng giữa họ không có sự ràng buộc về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng nhau.
Với mục đích làm nổi bật tính độc lập và tính hiện đại của pháp luật
thừa kế Việt Nam quy định về diện và hàng thừa kế theo pháp luật, cần thiết
phải có sự so sánh với một số nội dung cơ bản pháp luật thừa kế một số nước
trên thế giới nhằm làm rõ những nét đặc thù của pháp luật Việt Nam.
Theo BLDS của Nhật Bản, hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Con
(cháu) trực hệ. Khác với pháp luật dân sự của Việt Nam, Nhật Bản quy định
hàng thừa kế thứ nhất chỉ dựa trên quan hệ huyết thống. Vợ hoặc chồng của
người để lại di sản không được quy định cụ thể trong một hàng thừa kế nào
mà phụ thuộc vào các hàng và bậc thừa kế theo quan hệ huyết thống nội tộc
của người để lại di sản. Theo đó, phần di sản người vợ hoặc chồng chết trước
để lại sẽ tùy thuộc người vợ hoặc chồng còn sống được xếp vào cùng hàng
thừa kế với những người có quan hệ huyết thống ở các bậc khác nhau của
người để lại di sản [10].

22


×