Tải bản đầy đủ (.docx) (149 trang)

Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý bầu cử ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.08 KB, 149 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THẾ QUYẾT

ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ BẦU CỬ
Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN THẾ QUYẾT

ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ BẦU CỬ
Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Vũ Công Giao


HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thế Quyết


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới PGS, TS.
Vũ Công Giao, người hướng dẫn khoa học và có công rất lớn giúp tôi thực hiện
luận văn này. Thầy rất tận tâm, nhiệt tình để giúp tôi rõ hơn về chuyên môn bầu
cử, cung cấp nhiều tài liệu quý báu cho tôi và rất chu đáo trong việc xem xét,
hướng dẫn tôi chỉnh sửa luận văn.
Xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo lớp Cao học Lý
luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật đã giúp tôi lĩnh hội những kiến thức cơ bản
và kiến thức liên quan đến nội dung luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn Khoa Luật Đại học Quốc gia, các thầy cô giáo Khoa
Luật, Phòng Đào tạo và Bộ môn Luật Hiến pháp-Hành chính đã tạo điều kiện giúp

đỡ trong suốt thời gian khóa học và thực hiện luận văn.
Xin cảm ơn các bạn đồng môn, các cơ quan, các cá nhân đã trao đổi, thảo
luận và cung cấp những thông tin, tư liệu hữu ích liên quan đến đề tài luận văn.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình và những người bạn đã ủng hộ, động viên,
khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng

/201

Nguyễn Thế Quyết


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ, hình vẽ
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: Lý luận cơ bản về bầu cử và quản lý bầu cử
1.1

Bầu cử

1.1.1

Khái niệm, bản chất, vai trò c


1.1.2

Các nguyên tắc bầu cử phổ b

1.1.3

Các hệ thống bầu cử phổ biến

1.2

Quản lý (tổ chức) bầu cử

1.2.1

Khái niệm quản lý (tổ chức) b

1.2.2

Vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyề
cử

1.2.3

Các nguyên tắc thiết kế cơ qu

CHƯƠNG II: Tổ chức, hoạt động của cơ quan quản lý bầu cử
trên thế giới và ở Việt Nam
2.1


Khái quát về tổ chức, hoạt độ
cử trên thế giới

2.1.1

Các mô hình cơ quan quản lý

2.1.2

Mô hình cơ quan quản lý bầu

2.1.3

Xu hướng phát triển của cơ q

2.2

Thực trạng tổ chức, hoạt độn
cử ở Việt Nam

2.2.1

Khái quát sự phát triển của ch
1945 đến nay

2.2.2

Tổ chức, hoạt động của cơ qu
theo pháp luật hiện hành


2.2.3

Những điểm mới trong Hiến


CHƯƠNG III: Quan điểm, giải pháp đổi mới cơ quan quản lý bầu cử ở
Việt Nam

88

3.1

88

Nhu cầu cấp thiết phải đổi mớicơ quan quản lý bầu cử ở
nước ta

3.2

Quan điểm đổi mới cơ quan quản lý bầu cử ở nước ta

3.3

Một số ý kiến về dự thảo Luật bầu cử đại biểu quốc hội và đại
biểu HĐND

3.4

Giải pháp đổi mới cơ quan quản lý bầu cử ở nước ta


Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục: Cơ quan quản lý bầu cử ở 214 quốc gia và vùng lãnh thổ
trên thế giới

89
92
94
105
107


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
EMB:

Cơ quan quản lý bầu cử (Electional Management Bodies)

ICCPR:

NXB:

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (Covenant on
Civil and Political Rights)
Viện quốc tế về Dân chủ và Hỗ trợ bầu cử (The International
Institute for Democracy and Electoral Assistance)
Nhà xuất bản

UBND:

Ủy ban nhân dân


HĐND:

Hội đồng nhân dân

UBMTTQVN:

Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

UBTVQH:

Ủy ban thường vụ Quốc hội

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

IDEA:


DANH MỤC CÁC BẢNG
STT

Nội d

1

Bảng 1: Cơ quan bầu cử độc

2


Bảng 2: Đặc điểm của các cơ
hình Chính phủ

3

Bảng 3: Đặc điểm của cơ qu
hỗn hợp

4

Bảng 4. So sánh 3 mô hình c

5

Bảng 5: Tổng hợp kết quả bầ
Khóa XIII

6

Bảng 6: Các tổ chức quản lý

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
STT
1

Nội d

Biểu đồ 1: Tỷ lệ hiến pháp tr
cơ quan bầu cử quốc gia


2

Biểu đồ 2: Tỷ lệ hiến pháp tr

cơ quan bầu cử quốc gia tính

3

Biểu đồ 3: Ba mô hình cơ qu


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng một nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa mang các đặc tính của một nhà nước của dân, do dân và vì dân. Để
mục tiêu đó trở thành hiện thực, để nhân dân thực sự làm chủ đất nước, nhất thiết
phải có một chế độ bầu cử tiến bộ, bình đẳng, công bằng, minh bạch và hiệu quả.

Bầu cử là một chế định trọng tâm của nền dân chủ, là cách thức cơ bản,
quan trọng nhất để nhân dân thực hiện quyền làm chủ đất nước của mình. Về vấn đề
này, Liên minh Nghị viện thế giới đã khẳng định “Yếu tố then chốt của một nền dân
chủ là một chế độ bầu cử tự do và trung thực”[7, tr.20] [66].Hiến chương Paris cho
một châu Âu mới 1990 (Charter of Paris for a New Europe 1990) đã tuyên bố “Ý
chí của nhân dân thông qua bầu cử tự do, công bằng và định kỳ là nền tảng cho
một nhà nước dân chủ”[7, tr.20].Hội nghị Trung ương V khóa XI cũng đã khẳng
định về sự quan trọng và vai trò của bầu cử trong một nền dân chủ: “Tăng cường
hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn hiện chế độ bầu cử”. [40]
Xét về hình thức, có thể thấy nước ta có một chế độ bầu cử dân chủ, tiến bộ,
bình đẳng, các cuộc bầu cử thường được tổ chức thành công, thể hiện qua các yếu tố

như: Số người có quyền bầu cử chiếm tỷ lệ cao, tỷ lệ người thực tế đi bỏ phiếu cao
(trên dưới 90%); các cuộc bầu cử được tổ chức đúng quy định, minh bạch; đại biểu
trúng cử với số phiếu cao; an ninh, trật tự trong thời gian diễn ra bầu cử được đảm
bảo…Đóng góp quan trọng vào thành công đó là các cơ quan quản lý bầu cử.
Ở nước ta, hệ thống cơ quan quản lý bầu cử bao gồm các cơ quan cả ở trung

ương và địa phương, có nhiệm vụ tổ chứccác cuộc bầu cử trong cả nước; kiểm tra,
đôn đốc việc thi hành các quy định pháp luật về bầu cử. Mặc dù trong thời gian qua
hệ thống cơ quan quản lý bầu cử đã khẳng định được vị trí và tầm quan trọng của
mình, song cũng đã bộc lộ một số tồn tại, thiếu sót trong tổ chức và hoạt động. Vẫn
còn những sự trùng chéo về nhiệm vụ, sự thiếu rõ ràng, rành mạch về thẩm quyền,
sự lúng túng trong cách thức tổ chức hoạt động bầu cử.
1


Để có một cuộc bầu cử thành công, để nhân dân lựa chọn được những người
tài giỏi, xứng đáng thay mặt mình lãnh đạo, điều hành đất nước, cần không ngừng
đổi mới, hoàn thiện chế độ bầu cử nói chung và tổ chức, hoạt động của các cơ quan
quản lý bầu cử nói riêng. Điều này càng trở lên quan trọng trong bối cảnh hiện nay
khi đất nước ta đã bước vào một giai đoạn phát triển mới sau gần 30 năm đổi mới,
với những vận hội và thách thức đan cài, đòi hỏi phải có những cải tổ hơn nữa các
cơ chế và phương thức thực thi dân chủ, mà trong đó bầu cử là một trong những yếu
tố then chốt.
Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Đổi mới tổ chức và hoạt động
của các cơ quan quản lý bầu cử ở Việt Nam”làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học với
mong muốn góp phần làm rõ thêm những khía cạnh lý luận, thực tiễn trong vấn đề
này, qua đó góp phần thúc đẩy sự nghiệp cải tổ cơ quan quản lý bầu cử ở nước ta
trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước tới nay, đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề bầu cử nói

chung, về quản lý bầu cử nói riêng, trong đó tiêu biểu như:
- Luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Văn Nhiêm “Chế độ bầu cử ở nước ta,

những vấn đề lý luận và thực tiễn”, bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm 2009.
- Cuốn sách “Mối quan hệ giữa Quốc hội và thiết chế Hội đồng bầu cử quốc

gia”của Viện Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội, năm 2011.

- Văn phòng Quốc hội - Vụ Công tác đại biểu, “Đại biểu Quốc hội và bầu cử

đại biểu Quốc hội”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, TS. Phan Trung Lý là chủ
nhiệm đề tài, năm 2004.
- PTS. Vũ Hồng Anh, “Chế độ bầu cử của một số nước trên thế giới”, sách

chuyên khảo, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.
- Vũ Thị Loan,“Hoàn thiện chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội nước ta hiện

nay”, Luận án Thạc sĩluật học, bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội, năm 2003.
2


- TS. Đặng Đình Tân (Chủ biên), “Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở

Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”, sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, 2006.
Những công trình nghiên cứu kể trên đã cung cấp một lượng kiến thức, thông
tin lớn về bầu cử và quản lý bầu cử, tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu
riêng biệt, chuyên sâu về tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý bầu cử. Vì
vậy, luận văn nàylà cần thiết,không trùng lặp với các công trình khoa học đã được
công bố.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu luận văn
- Mục đích nghiên cứu: Làm rõ hơn những vấn đề lý luận và đánh giá thực

tiễn tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý bầu cử ở Việt Nam, trên cơ sở đó
đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan
quản lý bầu cử ở nước ta trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của các cơ

quan quản lý bầu cử, phân tích cơ sở hình thành, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ,
ưu điểm, nhược điểm của các mô hình cơ quan quản lý bầu cử trên thế giới.
+ Phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý bầu cử
ở Việt Nam qua các giai đoạn, chỉ ra những ưu, nhược điểm và nguyên nhân của

những ưu, nhược điểm đó.
+ Dựa trên kết quả những phân tích ở trên, đề xuất những quan điểm, giải

pháp góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý bầu
cử ở nước ta trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:Những vấn đề lý luận và thực trạngcác mô hình tổ

chức, hoạt động của các cơ quan quản lý bầu cử ở trên thế giới và ở Việt Nam, trong
đó tập trung vào những cơ quan quản lý ở Việt Nam.

3


- Phạm vi nghiên cứu:Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu tổ chức và hoạt


động của các cơ quan quản lý bầu cử, không đi sâu nghiên cứu tất cả các vấn đề về
bầu cử.
Luận văn tập trung nghiên cứu tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý
bầu cử ở Việt Nam. Tuy luận văn có khảo sát, phân tích mô hình tổ chức và hoạt
động của các cơ quan quản lý bầu cử trên thế giới nhưng chỉ ở mức khái quát, làm
cơ sở để đối chiếu, so sánh với tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý bầu cử
ở Việt Nam.
Trong hai yếu tố tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý bầu cử, luận
văn tập trung nhiều hơn vào yếu tố thứ nhất (tổ chức). Yếu tố thứ hai (hoạt động)
tuy cũng được khảo sát, phân tích nhưng ở mức độ khái quát, do những hạn chế về
nguồn lực và thời gian của một đề tài thạc sĩ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; pháp
luật của Nhà nước; đường lối, chính sách của Đảng về đổi mới đất nước, phát huy
dân chủ, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể để làm rõ những
vấn đề đặt ra, bao gồm: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, trao đổi…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về lý luận, luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan quản lý bầu cử ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, luận văn khái quát, giới thiệu thực trạng tổ chức và hoạt
động của các cơ quan quản lý bầu cử ở Việt Nam, phân tích, rút ra những bài học
kinh nghiệm và đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan
quản lý bầu cử ở nước ta.
Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn như vậy, luận văn có thể làm dùng làm tài
liệu tham khảo ở các cơ sở đào tạo sinh viên ngành luật.
4



7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, đề tài được cấu trúc làm ba chương gồm:
Chương 1: Lý luận cơ bản về bầu cử và quản lý bầu cử
Chương 2:Tổ chức, hoạt động của cơ quan quản lý bầu cử trên thế giới và ở
Việt Nam
Chương 3: Quan điểm, giải pháp đổi mới cơ quan quản lý bầu cử ở Việt
Nam

5


CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẦU CỬ VÀ QUẢN LÝ BẦU CỬ
1.1. Bầu cử
1.1.1. Khái niệm, bản chất, vai trò của bầu cử
a.Khái niệm
Bầu cử là một chế định trọng tâm của các nhà nước dân chủ kiểu đại diện. Có
nhiều định nghĩa về bầu cử, tuy nhiên, từ góc độ khái quát, có thể hiểu bầu cử là
một quy trình chính trị -pháp lý trong đó người dân tự do bỏ phiếu lựa chọn ra
những người vào làm việc trong bộ máy nhà nước để thay mặt mình quản lý xã hội.

Đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là nhiệm vụ cơ bản của Hiến
pháp.Hiện nay có hai hình thức cơ bản để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
thuộc về mình, đó là dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp là
cách thức người dân tự thể hiện quan điểm, ý kiến của mình trong các cuộc trưng
cầu dân ý. Dân chủ gián tiếp, hay còn được gọi là dân chủ đại diện, là việc người
dân bầu ra những người đại diện cho mình, thay mặt mình giải quyết các công việc
của đất nước. Hiện nay, hình thức dân chủ trực tiếp được áp dụng còn khá hạn chế.

[9, tr.100]
Bầu cử hiện là cách thức được hầu hết quốc gia trên thế giới sử dụng để thiết
lập lên cơ quan lập pháp (quốc hội, nghị viện) và cơ quan đại diện của chính quyền
địa phương (nghị viện/hội đồng địa phương). Ở một số nước, bầu cử còn được sử
dụng để bầu thẩm phán của các tòa án hoặc các quan chức đứng đầu cơ quan hành
pháp, ví dụ như bầu cử tổng thống ở Hoa Kỳ hoặc bầu thị trưởng ở một số quốc
gia...
Chế độ bầu cử được xác định bởi tổng thể các mối quan hệ xã hội được hình
thành trong quá trình tiến hành các cuộc bầu cử, từ lúc lập danh sách cử tri cho đến
khi kết thúc việc xác định được danh sách những người trúng cử. Qua những mối
quan hệ xã hội đó cho phép đánh giá chế độ bầu cử của một đất nước là dân chủ hay
áp đặt, có đảm bảo cho nhân dân tự nguyện thể hiện ý chí của mình để tìm ra
6


được những người xứng đáng làm đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân quản lý
và điều hành đất nước hay không. [3, tr.300]
Trong chế độ đại nghị, nhân dân trực tiếp bầu ra hạ nghị viện, đảng đa số tại
hạ nghị viện hay liên minh các đảng cầm quyền thành lập ra một Chính phủ do Thủ
tướng đứng đầu. Thủ tướng phải chịu trách nhiệm trước lập pháp. Còn trong chế độ
cộng hòa tổng thống, chính phủ và người đứng đầu chính phủ không phải chịu trách
nhiệm trước lập pháp mà chịu trách nhiệm trước nhân dân. Tổng thống do nhân dân
trực tiếp bầu ra do đó Tổng thống chịu trách nhiệm trước nhân dân [3, tr. 301-302].

b. Bản chất của bầu cử
John Stuart Mill, tác giả của tác phẩm kinh điển “Chính thể đại diện” đã viết
“Chỉ có Chính phủ toàn dân tham dự là thỏa mãn đầy đủ mọi nhu cầu cấp bách của
tình trạng xã hội… và rằng không có gì đáng mong muốn hơn là sự thừa nhận của
mọi người cùng chia sẻ chủ quyền nhà nước. Nhưng vì trong một cộng đồng vượt
quá một đô thị đơn lẻ nhỏ bé thì không thể tất cả mọi người đều đích thân tham dự

vào mọi công việc công cộng, ngoại trừ một phần công việc nhỏ bé nào đó. Từ đó
suy ra rằng loại chính thể hoàn hảo lý tưởng nhất phải là chính thể mang tính đại
diện”. Phương thức nhân dân lựa chọn ra người đại diện và ủy thác quyền lực cho
người đại diện chính là bầu cử [7, tr.9].
Bản chất của bầu cử được thể hiện như sau:
- Thứ nhất, bầu cử là sự lựa chọn của nhân dân. Nhân dân chọn từ các ứng cử

viên ra người mà họ thấy rằng có năng lực, phẩm chất, chuyên môn tốt có thể thực
hiện được các hoài bão, công việc mà nhân dân mong muốn. Phổ biến hiện nay ở
các nước là bầu cử để chọn ra người vào cơ quan lập pháp. Các nước tư sản được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc phân chia quyền lực, vì vậy bầu cử không những
là phương thức thành lập ra cơ quan lập pháp mà còn là phương thức để lựa chọn
các chức danh trong các nhánh quyền lực như Tổng thống, Thị trưởng và có thể là
các chức danh trong cơ quan Tư pháp. Với nước ta, bầu cử là cách thức để hình
thành nên Quốc hội, Hội đồng nhân dân địa phương. [7, tr.10-11]
7


- Thứ hai, bầu cử là sự trao quyền lực của nhân dân cho đại biểu được lựa

chọn. Nhân dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội thay mặt cho nhân dân thực hiện quyền
lập pháp, điều đó có nghĩa là nhân dân đã trao cho Quốc hội quyền lập pháp. Nhân
dân bầu ra Tổng thống, Tổng thống thực hiện quyền hành pháp, điều đó có nghĩa
nhân dân trao cho Tổng thống quyền hành pháp. Quá trình bỏ phiếu để lựa chọn
được người đại diện cho nhân dân chính là quá trình chuyển giao quyền lực, là quá
trình trao quyền lực từ nhân dân sang người được lựa chọn. Ai, tổ chức nào được
lựa chọn thì chủ thể đó nhận quyền lực từ nhân dân. [7, tr.11-12]
Tóm lại, bầu cử là sự lựa chọn và trao quyền chính trị, là quá trình mà nhân
dân lựa chọn ra các đảng phái, các lực lượng chính trị và trao quyền cho các chủ thể
đó. Bầu cử biến ý chí của nhân dân thành “ghế” trong cơ quan đại diện. [7, tr.14-15]


c. Vai trò của bầu cử
- Bầu cử là phương thức hợp pháp hóa chính quyền [7, tr.27].
Theo Giáo sư Nguyễn Đăng Dung, chế độ bầu cử được coi là phương thức
chính thống thay đổi quyền lực nhà nước[2, tr.347]. Bầu cử là phương thức để tạo
lập chính quyền một cách hợp pháp [5, tr.165-166]. Thông qua bầu cử, người dân
lựa chọn được những người tài giỏi, tư cách đạo đức tốt và trao cho họ quyền thay
mình lãnh đạo đất nước. Ở một xã hội dân chủ, nơi mà quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân thì bầu cử chính là cách thức hợp pháp, chính thống nhất để chuyển hóa
quyền lực từ người dân sang đại biểu. Đại biểu có được quyền lực là do sự đồng ý
của người dân chứ không phải do cách thức khác như truyền ngôi thế tập, bạo lực,
chiến tranh… Cách thức này đã được công nhận trên toàn thế giới. J. Locke cho
rằng chính quyền được xây dựng trên cơ sở sự bằng lòng của dân chúng, hành động
của chính quyền không được sự đồng lòng của dân chúng là không có giá trị hay
không được ủy quyền [7, tr.29]. Những chính quyền được tạo thành từ chiến tranh,
nội chiến hay đảo chính là những chính quyền không được sự đồng ý của nhân dân,
do đó không có tính chính danh, không được người dân và cộng đồng quốc tế công
nhận. Sự đồng thuận của cử tri càng lớn, càng nhiều thì chính quyền đó càng vững
chắc.
8


- Bầu cử có nhiệm kỳ là phương thức để nhân dân lựa chọn đường lối chính

trị cho mình
Qua quá trình bầu cử, mỗi đảng phái, mỗi ứng viên sẽ có những đường lối, kế
hoạch cho riêng mình nếu trúng cử. Họ trình bày đường lối, kế hoạch này trong quá
trình vận động tranh cử và nếu trúng cử, họ phải thực hiện theo đường lối, kế hoạch
đó. Như vậy, khi nhân dân thích một đường lối nào thì họ sẽ chọn đảng phái, ứng
viên có đường lối như vậy. Qua đó, có thể nhận thấy, nếu đảng phái nào, ứng viên

nào đươc lựa chọn thì đường lối của đảng phái, ứng viên đó được đa phân người
dân ủng hộ. Đảng phái, ứng viên khi đã trúng cử thì cần cụ thể hóa đường lối, kế
hoạch mà họ đã “hứa” với nhân dân trong quá trình tranh cử.
- Bầu cử có nhiệm kỳ là phương thức để nhân dân giám sát quyền lực nhà

nước, chế ngự sự tha hóa, lạm quyền của quyền lực nhà nước [7, tr.40].
Đại biểu khi trúng cử cần thực hiện đương lối, kế hoạch mà họ đã trình bày
trong khi vận động tranh cử. Nếu họ không thực hiện những lời hứa đó, gây mất
lòng tin của người dân thì người dân sẽ bãi miễn họ, hoặc không bầu cho họ trong
nhiệm kỳ tiếp theo. Nếu họ là người tha hóa về đạo đức, lạm quyền thì nhân dân sẽ
thấy họ không xứng đáng với quyền lực mà họ đang được nhân dân trao cho. Vì
vậy, đại biểu nào muốn tiếp tục trúng cử trong nhiệm kỳ tiếp theo cần phải luôn cố
gắng, nỗ lực nhằm đáp ứng được yêu cầu của dân chúng, của cử tri, nếu không thì
họ sẽ bị loại ngay khỏi cuộc đua mà ở đó có rất nhiều người luôn cạnh tranh và
muốn giành chiến thắng. Cho nên, bầu cử có nhiệm kỳ chính là phương tiện để nhân
dân giám sát các đại biểu,chế ngự sự tha hóa, lạm quyền .
- Bầu cử là chìa khóa cho đồng thuận xã hội, là phương thức để giải quyết

mâu thuẫn, xung đột xã hội bằng phương pháp hòa bình [7, tr.46].
Đồng thuận là yếu tố quan trọng nhất của một quốc gia trong việc giữ gìn hòa
bình và phát triển đất nước. Nếu không có sự đồng thuận của đông đảo dân chúng
thì chế độ đó, đất nước đó không thể tồn tại lâu được, sớm muộn gì cũng bị phá bỏ.
Thông qua bầu cử, các đảng phái, các đường lối chính trị sẽ được quy tụ lại để tạo
thành một chế độ chính trị của một nước. Do thông qua bầu cử nên đường lối đó
được đa phần dân chúng ủng hộ, đồng thuận và thực thi. Không phải
9


xã hội nào cũng có sự ổn định về chính trị. Có những đảng phái, những con người
với những đường lối khác nhau, thậm chí mâu thuẫn, đối lập nhau. Nếu họ không

thông qua bầu cử mà giành chính quyền bằng bạo lực hay một cách gì đó không
chính thống thì họ sẽ không tạo được sự đồng thuận trong xã hội. Thông qua bầu cử,
thông qua sự lựa chọn của người dân, các đảng phái chấp nhận con đường mà nhân
dân lựa chọn bằng hình thức thể hiện ở một đảng phái, đại biểu khác. Đó chính là
cách thức hợp lý để hòa hợp dân tộc, để giải quyết mâu thuẫn, xung đột xã hội.

- Bầu cử là công cụ nhìn nhận, đánh giá về một nhà nước, một xã hội
Thông qua các cuộc bầu cử, có thể đánh giá được nhiều vấn đề của một đất
nước. Ở những nước có xung đột sắc tộc, tôn giáo, an ninh chính trị không ổn định,
khi có kết quả bầu cử, đảng phái thua cuộc có thể không chấp nhận, thậm chí dùng
bạo lực đàn áp đảng phái khác để giành chính quyền. Những nước mà kết quả bầu
cử không được chấp nhận thì đa phần bất ổn về chính trị. Còn ở những nước mà các
cuộc bầu cử đều diễn ra thành công, suôn sẻ, nhân dân, các đảng phái chấp nhận,
đồng ý với kết quả bầu cử thì thường có nền chính trị ổn định.
Trong quá trình bầu cử, các đảng phái, các ứng viên trình bày những nội
dung, kế hoạch hành động của họ khi thắng cuộc. Đó có thể là mọi mặt của đời sống
xã hội như kinh tế, chính trị, y tế, môi trường, giáo dục, khoa học công nghệ… Qua
những bản kế hoạch đó, những con đường mà các ứng viên trình bày, chúng ta có
thể phần nào phác họa về một xã hội. Các yếu tố khác cũng giúp chúng ta đánh giá
về một đất nước thông qua bầu cử như: an ninh trong quá trình diễn ra bầu cử, số cử
tri trên tổng số dân, phần trăm số cử tri đi bầu, cơ cấu thành phần trúng cử, sự
chuyên nghiệp trong cách thức tổ chức bầu cử, hệ thống bầu cử, tính minh bạch, dân
chủ của bầu cử…
- Chế độ bầu cử là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cơ chế chính trị, cơ chế

hoạt động của cơ quan đại diện [7, tr.33]
Chế độ bầu cử có ảnh hưởng lớn đến cơ chế chính trị. Trong cơ chế chính trị
đa đảng, chế độ bầu cử còn quyết định đến sức mạnh, uy quyền của các đảng phái.
Chẳng hạn, đối với hệ thống bầu cử theo đa số, nhất là áp dụng đơn vị bầu cử một
10



đại diện (Mỹ, Anh) thì hệ thống chính trị thường có hai đảng lớn chi phối, tác động
mạnh tới đời sống chính trị quốc gia đó.Còn đối với chế độ bầu cử áp dụng phương
pháp tỉ lệ thường tạo ra Nghị viện và thể chế chính trị nhiều đảng phái, các đảng
nhỏ, các ứng viên tự do cũng có khả năng được ngồi vào những chiếc ghế trong
nghị trường. Ngoài ra, chế độ bầu cử còn là yếu tố tác động mạnh đến Chính phủ và
các cơ quan nhà nước khác mà theo như Giovanni Sartori “Bầu cử là công cụ điều
khiển mạnh mẽ nhất của chính trị” [7, tr.33-36].
1.1.2. Các nguyên tắc bầu cử phổ biến trên thế giới
Các nguyên tắc bầu cử là yếu tố quyết định chế độ bầu cử của một nước có
tiến bộ, minh bạch và hiệu quả hay không. Theo luật nhân quyền quốc tế và quan
niệm phổ biến trên thế giới, có 5 nguyên tắc bầu cử đó là: tự do, phổ thông, bình
đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các nguyên tắc này thống nhất và có mối quan hệ
biện chứng chặt chẽ với nhau, là yếu tố đảm bảo cho cuộc bầu cử khách quan, dân
chủ và tiến bộ.
a. Nguyên tắc bầu cử tự do
Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên lý về nguồn gốc của quyền lực nhà
nước. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tuy nhiên nhân dân không trực tiếp
thực hiện tất cả quyền lực này mà trao một phần cho một số người thay mặt họ thực
hiện (bộ máy nhà nước) trong những khoảng thời gian nhất định (định kỳ, nhiệm
kỳ). Những người này được lựa chọn thông qua các cuộc bầu cử. Như thế, bầu cử hay quá trình người dân lựa chọn người để trao quyền - nhất định phải tự do, bởi
người chủ của quyền lực phải được tự do trong việc quyết định trao quyền lực của
mình cho ai.
Bầu cử tự do có nghĩa là người dân có toàn quyền quyết định đề cử, ứng cử,
bỏ phiếu bầu ra người đại diện thay mặt mình thực thi quyền lực nhà nước mà
không phải chịu bất kỳ sự áp đặt, cưỡng chế hay chi phối bất hợp pháp hay không
chính đáng nào từ bất kỳ chủ thể nào, bao gồm các nhà nước, các đảng phái chính
trị, tổ chức hay cá nhân. Tự do này chỉ có thể bị hạn chế theo luật định nhằm bảo
đảm lợi ích hợp lý, chính đáng và tương xứng của toàn xã hội, ví dụ: người chưa

thành niên, người thiểu năng trí tuệ và người bị kết tội bởi tòa án thì không có
11


quyền bầu cử, vì những đối tượng này chưa hoặc không có khả năng lựa chọn
những người xứng đáng thay mặt nhân dân quản lý xã hội.
Từ một góc độ khác, bầu cử tự do còn có nghĩa là công dân có thể quyết định
thực hiện hay không thực hiện các quyền bầu cử (đề cử, ứng cử, bỏ phiếu) mà
không phải chịu bất kỳ chế tài pháp lý nào. Nói cách khác, theo cách tiếp cận này,
bầu cử là quyền và trách nhiệm xã hội chứ không phải là nghĩa vụ pháp lý. Người
dân có thể ủng hộ, tham gia hoặc phản đối, tẩy chay một cuộc bầu cử mà không ai,
kể cả nhà nước, có thể can thiệp hay trừng phạt.
b) Nguyên tắc bầu cử phổ thông
Đây là nguyên tắc rất quan trọng của bầu cử. Nguyên tắc này trả lời cho câu
hỏi “Ai có quyền bầu cử?”, vì vậy nólà một trong những yếu tố thể hiện rõ nét mức
độ dân chủ của một đất nước, phản ánh mức độ sự tham gia vào công việc nhà nước
của nhân dân.Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu có ý nghĩa nhằm đảm bảo cho cuộc
bầu cử được dân chủ, công khai, có sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân,
các thành phần dân cư trong xã hội. Nguyên tắc này đối lập với việc hạn chế quyền
bầu cử và ứng cử như ở một số nước phản dân chủ trước đây. [3, tr.311]
Nguyên tắc bầu cử phổ thông trước hết là việc bỏ phiếu được phổ thông. Sau
đó, là nhà nước phải tạo điều kiện cho công dân được ứng cử, được bầu vào các cơ
quan đại diện. Nguyên tắc bầu cử phổ thông được thể hiện: công dân đến tuổi
trưởng thành, không phân biệt về dân tộc, tầng lớp, địa vị, ngôn ngữ, tôn giáo, kinh
tế… đều có quyền bầu cử. [7, tr.69]
Ở Việt Nam, Điều 27 Hiến pháp 2013, Điều 2 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội

năm 1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2001, 2010) và Điều 2 Luật Bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2010)quy định về nguyên tắc bầu
cửphổ thông như sau:“Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không

phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn
hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21
tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
theo quy định của pháp luật”.
12


c. Nguyên tắc bình đẳng
Bình đẳng là nguyên tắc cơ bản trong các cuộc bầu cử tiến bộ và công bằng.
Bình đẳng là nguyên tắc được áp dụng xuyên suốt quá trình bầu cử, từ khi lập danh
sách cử tri cho đến khi xác định được kết quả bầu cử, nhằm đảm bảo cho mọi công
dân có quyền như nhau trong việc tham gia bầu cử và ngăn ngừa mọi sự phân biệt
đối xử.
Nguyên tắc bình đẳngcó tác dụng đảm bảo cho cuộc bầu cử được khách
quan, công bằng.Thể hiện của nguyên tắc này là mỗi cử tri tương ứng với một phiếu
bầu;mỗi cử tri chỉ được ghi tên bầu cử và tham gia ứng cử ở một đơn vị bầu cử; số
lượng dân như nhau thì được bầu số đại biểu bằng nhau; giá trị của các phiếu bầu là
như nhau… Nói cách khác, mỗi cử tri không những có một lá phiếu mà lá phiếu đó
cần có giá trị như nhau trong việc bầu cử. Tuy nhiên, để giá trị của các phiếu bầu là
như nhau là một vấn đề khá phức tạp, đặc biệt là đối với chế độ bầu cử có cách tính
kết quả bầu cử theo phương pháp đa số. Chẳng hạn, hai đại biểu được bầu ở hai đơn
vị có số dân khác nhau thì lá phiếu của cử tri ở đơn vị có dân số ít hơn sẽ có giá trị
hơn. [25]
Trong nguyên tắc này, bình đẳng giữa các ứng cử viên, giữa các đảng phái
chính trị cũng cần được đảm bảo. Bình đẳng giữa các ứng cử viên được thể hiện:
Không ai có thể bị hạn chế quyền ứng cử (trừ những người do pháp luật qui định),
bình đẳng trong việc vận động tranh cử, trong việc tiếp cận thông tin, trong việc
khiếu nại, tố cáo… Giữa các đảng phái chính trị cũng cần được bình đẳng, không có
đảng phái nào đươc ưu tiên hơn đảng phí nào, không có việc đảng phái này là quan
trọng hơn đảng phái khác.Ngoài ra, nguyên tắc bình đẳng còn đòi hỏi phải có sự

phân bổ hợp lý cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu để bảo đảm tiếng nói đại diện
của các vùng, miền, địa phương, các tầng lớp xã hội, các dân tộc thiểu số và phụ nữ
phải có tỷ lệ đại biểu thích đáng trong Nghị viện, Quốc hội. [7, tr.71-76]
d. Nguyên tắc bầu cử trực tiếp
Bầu cử trực tiếp là cách thức nhân dân trực tiếp bầu ra cơ quan đại diện mà
không thông qua trung gian. Trong nguyên tắc này, cử tri trực tiếp lựa chọn người
mình tín nhiệm vào cơ quan quyền lực nhà nước thông qua việc bỏ phiếu cho
13


người đómà không qua các cấp đại diện cử tri và người được nhân dân tín nhiệm sẽ
nhận quyền lực trực tiếp từ nhân dân. Nguyên tắc này sẽ góp phần tăng tính khách
quan cho một cuộc bầu cử. [7, tr.76]
Đa số Nghị viện của các nước theo chế độ một Viện và Hạ viện của các nước
theo chế độ hai Viện đều áp dụng chế độ bầu cử trực tiếp. Một số Thượng viện (Ba
Lan, Mỹ, Italy) cũng áp dụng bầu cử trực tiếp, các Thượng nghị sĩ đều do nhân dân
toàn liên bang bầu ra. Thông qua bầu cử trực tiếp, nhân dân có cơ hội thể hiện ý chí,
nguyện vọng của mình, lựa chọn những người làm đại biểu trong Nghị viện. [63]

Không phải tất cả các nước đều sử dụng nguyên tắc này trong bầu cử. Ở
nhiều nước, bầu cử được thực hiện gián tiếp. Theo nguyên tắc này, cử tri không trực
tiếp bầu ra người đại diện cho mình mà bầu ra thành viên của Tuyển cử đoàn, sau đó
Tuyển cử đoàn mới bầu ra cơ quan đại diện hay chức danh nhà nước. Bầu cử gián
tiếp có thể qua hai cấp như bầu Thượng viện Pháp, bầu tổng thống Mỹ (cử tri bầu ra
Đại cử tri đoàn), hoặc bầu ra ba cấp như bầu Quốc hội Trung Quốc (Đại hội đại biểu
nhân dân toàn Trung Quốc). Thượng viện nước Pháp được bầu theo chế độ gián tiếp
bởi cử tri đoàn trong mỗi tỉnh gồm các hạ nghị sĩ, đại biểu Hội đồng vùng, đại biểu
Hội đồng hàng tỉnh và đại diện của các hội đồng xã. Bầu cử Nghị viện theo chế độ
gián tiếp hiếm khi được áp dụng [63].Ở Trung Quốc, bầu cử trực tiếp được thực
hiện trong Đại hội đại biểu nhân dân của thành phố không lập khu, thành phố trực

thuộc khu, huyện, huyện tự trị, hương, hương dân tộc, trấn. [6, tr.31]

Việc bầu cử trực tiếp, như ở nước ta, là cử tri trực tiếp đến nơi tổ chức bầu cử
để bỏ phiếu. Tuy nhiên, nếu như cử tri bầu cử thông qua các phương tiện như
Internet, máy bỏ phiếu tại nơi công cộng thì đó cũng được coi là bầu cử trực tiếp vì
đây chỉ là các công cụ, máy móc giúp cử tri thể hoàn thành nhiệm vụ bầu cử và nó
cũng không ảnh hưởng tới ý chí, tới đối tượng tín nhiệm của cử tri.
e. Nguyên tắc bỏ phiếu kín
Hoạt động bầu cử cần đảm bảo tính dân chủ và công khai, nhưng chỉ riêng
phần bỏ phiếu là kín. Nguyên tắc bỏ phiếu kín hàm ý chỉ có cử tri biết sự lựa chọn
14


của mình, sự lựa chọn đó được giữ kín, đảm bảo bí mật. Khi cử tri viết phiếu bầu
không ai được đến gần, kể cả cán bộ, nhân viên các tổ chức phụ trách bầu cử; không
ai được biết và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của cử tri. Cử tri viết phiếu bầu kín
đáo và bỏ phiếu vào hòm phiếu. Phiếu bầu hoặc để trống để cử tri điền tên ứng viên,
đảng mà mình lựa chọn, hoặc in sẵn tên các ứng viên để cử tri đánh dấu vào ô bên
cạnh tên ứng viên mình lựa chọn. [55]
Nguyên tắc bỏ phiếu kín loại trừ sự theo dõi và kiểm soát từ bên ngoài sự thể
hiện ý chí (sự bỏ phiếu) của cử tri. Mục đích của nguyên tắc này là nhằm đảm bảo
tự do đầy đủ sự thể hiện ý chí của cử tri, để có sự khách quan trong việc lựa chọn,
bỏ phiếu. Đây là một yêu cầu khách quan của chế độ bầu cử, nhằm bảo đảm sự lựa
chọn của cử tri trở thành hiện thực, làm cho các ứng cử viên và các đảng phái có cơ
hội bình đẳng trong tuyển cử. Nguyên tắc này luôn được coi là một nguyên tắc cơ
bản của mọi cuộc tuyển cử và được thể chế hóa thông qua việc quy định chặt chẽ
các phương thức và trình tự bỏ phiếu.[55]
Bỏ phiếu kín xuất hiện từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại. Ở Pháp, nguyên tắc
bỏ phiếu kín được pháp luật bầu cử quy định từ năm 1789, Hiến pháp năm 1795 và
1848 của nước này quy định “mọi cuộc bầu cử phải bỏ phiếu kín”. Louis Napoléon

Bonaparte dự định bãi bỏ nguyên tắc bỏ phiếu kín vào năm 1851 nhưng gặp phải sự
phản đối kịch liệt nên đành thôi. Tuy nhiên, theo trang web của Quốc hội Pháp, đến
năm 1913, bỏ phiếu kín mới được áp dụng trong thực tế bầu cử một cách thường
xuyên ở nước này. Nước Anh áp dụng nguyên tắc bỏ phiếu kín cho các cuộc bầu cử
từ năm 1872; bỏ phiếu kín lần đầu tiên xuất hiện ở Úc vào năm 1856.
Ở Hoa Kỳ, hầu hết các tiểu bang chuyển sang bỏ phiếu kín sau cuộc bầu cử Tổng

thống năm 1884; còn hiện tại một số bang cho phép bỏ phiếu qua bưu điện [55]. Ở
Trung Quốc, nguyên tắc này được thể hiện với tên gọi là nguyên tắc bỏ phiếu không
ghi tên. Khi bầu cử, để đảm bảo quyền bí mật được viết trên phiếu, phiếu bầu phải
do đích thân người đi bầu điền vào chỗ trống, không ghi họ tên người đi bầu. Cử tri
nếu là người khiếm thị hoặc vì khuyết tật mà không thể viết lên phiếu bầu thì có thể
ủy thác cho người khác viết thay [6, tr.36].

15


Trong thực tế, việc bỏ phiếu đôi khi được vận dụng trái với nguyên tắc bỏ
phiếu kín. Các phiếu bầu có ghi mã số của cử tri sẽ cho phép những người làm công
việc bầu cử đối chiếu mã số và tìm ra tên của cử tri. Ví dụ như ở Singapore, trong
mỗi phiếu bầu đều có mã số của cử tri trùng với tên và mã số trong danh sách cử tri.
Vì vậy, mặc dù Hiến pháp Singapore quy định việc bỏ phiếu kín, các phương thức
áp dụng xem ra không đảm bảo cho việc tuân thủ nguyên tắc này. Chính vì vậy, ở
một số nước đã có những vụ kiện liên quan đến nguyên tắc bỏ phiếu kín.[55]

1.1.3. Các hệ thống bầu cử phổ biến trên thế giới
Hệ thống bầu cử (hay cơ chế bầu cử - Electoral System) nếu hiểu theo nghĩa
rộng là tổng hợp các qui định của pháp luật bầu cử và những nguyên lý vận hành
của hệ thống chính trị có tác động, ảnh hưởng đến quá trình bầu cử của mỗi quốc
gia. Còn nếu hiểu theo nghĩa hẹp, hệ thống bầu cử là cách thức, phương thức

chuyển hóa từ những lá phiếu (ý chí của nhân dân) thành “ghế” trong cơ quan dân
cử [7, tr.131-132].
Hệ thống bầu cử trên thế giới rất phong phú và đa dạng. Căn cứ vào cách
thức chuyển hóa từ những lá phiếu thành “ghế” trong cơ quan dân cử, có thể chia hệ
thống bầu cử thành các dạng như sau [7, tr.138]:
a. Hệ thống đa số (plurality/majority systems)
Nguyên lý của hệ thống này là ứng cử viên nào, đảng phái nào giành được
nhiều phiếu hơn sẽ trúng cử. Hệ thống này có 5 biến cách:
- Phương pháp ai về trước là người thắng cuộc (First Past the Post -FPTP)
- Phương pháp lá phiếu khối (Block Vote - BV)
- Phương pháp lá phiếu có thể thay thế (Alternative Vote - AV)
- Phương pháp hai vòng (Two-round System - TRS)
- Phương pháp lá phiếu khối theo đảng phái chính trị (Party Block Vote -

PBV)
b. Hệ thống đại diện tỷ lệ (Proportional Systems)
16


Hệ thống này được áp dụng để bầu cơ quan lập pháp. Theo đó, cơ quan lập
pháp được bầu trên cơ sở các đảng phái chính trị. Các đảng phái nhận được số
“ghế” tương ứng với tỷ lệ số phiếu được bầu. Yêu cầu của hệ thống này là mỗi đơn
vị bầu cử phải bầu ít nhất hai đại biểu. Nếu số lượng đại biểu được bầu càng nhiều
thì tính cân đối, hợp lý càng cao. Hệ thống này có 2 biến thể chính [7, tr.144]:
- Hệ thống đại diện tỷ lệ theo danh sách (List Proportional Representation List PR)
- Hệ thống bầu cử lá phiếu duy nhất có thể chuyển nhượng (Singer

Transferable Vote - STV)
c.Hệ thống hỗn hợp (Mixed Systems)
Hệ thống bầu cử hỗn hợp là sự kết giữa hệ thống đa số và hệ thống đại diện tỉ

lệ. Hệ thống này có 2 biến cách là [7, tr.147]:
- Đại diện tỷ lệ hỗn hợp (Mix Member Proportional - MMP)
- Phương pháp song song (Parallel Systems - PR)

d. Một số hệ thống khác
Ngoài ra, trên thế giới còn có một số hệ thống bầu cử khác như [7, tr.149]:
- Phương pháp bầu cử lá phiếu duy nhất không chuyển nhượng (Sing Nontransferable Vote - SNTV)
- Phương pháp lá phiếu hạn chế (Limited Vote)
- Phương pháp Borda Count

1.2. Quản lý (tổ chức) bầu cử
1.2.1. Khái niệm quản lý (tổ chức) bầu cử, cơ quan quản lý bầu cử
a. Quản lý (tổ chức) bầu cử:
Quản lý bầu cử (election management) là những hoạt động, quy trình, thủ tục
cần thiết để tổ chức một cuộc bầu cử theo các tiêu chuẩn dân chủ được cộng đồng
quốc tế thừa nhận. Do tầm quan trọng của bầu cử, cần phải quản lý sao cho cuộc
bầu cử diễn ra thành công và hiệu quả. Công việc quản lý bầu cử diễn ra
17


×