Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả phát sinh 07

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (414.92 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ BÍCH TRÂM

HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÔ HIỆU
VÀ HẬU QUẢ PHÁT SINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

BÙI THỊ BÍCH TRÂM

HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÔ HIỆU
VÀ HẬU QUẢ PHÁT SINH
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Lê Văn Bính

Hà Nội – 2014


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Bùi Thị Bích Trâm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................6
CHƢƠNG 1 :NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁT SINH............................... 12
1.1. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán
hàng hóa vô hiệu............................................................................................12
1.1.1.Về hợp đồng nói chung
.........................................................................................................................
12

1.1.2.Về hợp đồng mua bán hàng hóa.
.........................................................................................................................
13

1.1.3. Khái niệm về hợp đồng và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu
.........................................................................................................................
16


1.2.Hậu quả phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu...............20
CHƢƠNG 2 :THỰC TRẠNG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÔ
HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁT SINH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM....35
2.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu theo pháp luật Việt Nam........35
2.1.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực theo pháp luật Việt Nam
.........................................................................................................................
35

2.1.2. Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu theo
pháp luật Việt Nam.
.........................................................................................................................
36

2.2. Pháp luật liên quan đến xử lý hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu 50
2.3. Một số ví dụ về hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu.........................67
2.4. Hậu quả phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu..............74
2.4.1. Hậu quả pháp lý chung đối với giao dịch dân sự vô hiệu
.........................................................................................................................
74

2.4.2. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu trong trường hợp tài sản đã
được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình
.........................................................................................................................
77

CHƢƠNG 3 :MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁT SINH............80
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán

hàng hóa.........................................................................................................80
3.2.1. Một số vấn đề cần chú ý khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
.........................................................................................................................
80

3.2.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng


hóa và xử lý hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu
.........................................................................................................................
91

KẾT LUẬN....................................................................................................97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................99


STT

Ký hiệu

1.

CIF

2.

L/C

3.


Grainco

4.

UNIDROIT

5.

VASS


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam đã thừa nhận
đa hình thức sở hữu, đa hình thức kinh doanh. Cùng với sự đa dạng của các hình thái
kinh tế là sự phong phú trong các hình thức hợp đồng hay thỏa thuận giữa các chủ
thể kinh doanh về một lĩnh vực nào đó, ví dụ như hợp đồng mua bán hàng hóa trong
nước và quốc tế. Tùy thuộc vào lĩnh vực kinh doanh và đối tượng kinh doanh mà các
bên giao kết hợp đồng (chủ thể của các loại hợp đồng này có thể là thương nhân
hoặc nhà nước) đặt tên gọi cho từng loại hợp đồng cụ thể với các tên gọi khác nhau,
ví dụ như: khế ước, thỏa thuận, giao ước, giao kèo, hiệp ước, hiệp định v.v...
Luật Thương mại năm 2005 đã được Quốc hội Việt Nam ban hành ngày
14/11/2005 quy định về hoạt động thương mại, luật đã chính thức có hiệu lực từ
ngày 01/01/2006 và thay thế cho luật thương mại năm 1997. Luật thương mại năm
2005 đã tạo ra một hành lang pháp lý cho các thương nhân trong hoạt động thương
mại. Khác với luật thương mại năm 1997, luật thương mại năm 2005 đã quy định
khá đầy đủ và cụ thể về mua bán hàng hóa và về hợp đồng mua bán hàng hóa. Tuy
nhiên, để ký kết các hợp đồng mua bán hàng hóa tuân thủ các quy định của pháp
luật, tránh các trường hợp ký kết hợp đồng vô hiệu đòi hỏi các bên, các thương nhân

cần có sự tiếp cận luật để nghiên cứu thấu đáo về các nội dung cần thiết phục vụ cho
việc ký kết hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, tránh ký
kết hợp đồng vô hiệu, hạn chế những tổn hại về thời gian và về kinh tế.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc ký kết hợp đồng nói chung và hợp đồng
mua bán hàng hóa nói riêng, học viên đã chọn nghiên cứu đề tài “Hợp đồng mua
bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả phát sinh“ làm luận văn tốt nghiệp. Đề tài đi sâu
nghiên cứu để trả lời những câu hỏi về hợp đồng nói chung, về hợp đồng vô hiệu là
gì, nó có hệ quả gì đối với các bên ký kết và đối với nền kinh tế và với toàn xã hội,
vì sao lại có hợp hồng mua bán hàng hóa vô hiệu và việc kiểm soát như thế nào, thực
tiễn quy định của pháp luật trong và ngoài nước về hợp đồng vô hiệu, cơ sở lý luận

6


và bài học kinh nghiệm gì cho các thương nhân tránh ký kết hợp đồng vô hiệu và
kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Trong hội nhập quốc tế hiện nay, việc nghiên cứu hợp đồng mua hán hàng hóa
vô hiệu không thể không đề cập đến hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hay hợp
đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài có hiệu lực và vô hiệu, trong quá trình
thực hiện luận văn tác giả sẽ đề cập và so sánh đối với loại hình hợp đồng mua bán
hàng hóa có yếu tố nước ngoài này.
Việc nghiên cứu toàn diện và có hệ thống từ những vấn đề lý luận, thực tiễn
về hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả pháp sinh là một vấn đề mang
tính thời sự, có ý nghĩa quan trọng nhằm góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
giữa các bên của hợp đồng trong hoạt động thương mại hay kinh doanh thương mại.
Đồng thời, việc đi sâu nghiên cứu chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán
hàng hóa sẽ phần nào giúp cho các thương nhân hay các loại hình doanh nghiệp Việt
Nam hiểu rõ, vận dụng có hiệu quả pháp luật trong quá trình giao kết và thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa. Từ đó đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt
Nam trong lĩnh vực này.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Về hợp đồng nói chung, hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng đã đề cập trong
nhiều văn bản pháp luật quốc gia trong nước và ngoài nước, trong pháp luật quốc tế,
trong các công trình nghiên cứu của các tác giả khác nhau. Ví dụ:
Pháp luật trong nước như: Bộ luật Dân sự năm 2005; Bộ luật Tố tụng Dân sự
năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011); Luật Thương mại năm 2005; Luật Doanh
nghiệp năm 2005; Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006; Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994; Các văn bản hướng dẫn thực hiện các luật
và pháp lệnh nói trên; Nghị quyết số 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội
đồng thẩm phán TANDTC về Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật
trong việc giải quyết các vụ án kinh tế; v.v…;
Pháp luật nước ngoài như: Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804; Bộ Luật thương
mại Thống nhất Hoa Kỳ UCC (Uniform Commercial Code); Luật bán hàng của Anh;
Luật Hợp đồng Trung Quốc năm 1999; Bộ luật Dân sự của Nga năm 1994; Bộ

7


luật Dân sự của Québec, Canada, năm 1994; Những quy định chung của Luật Hợp
đồng ở Pháp, Anh, Mỹ, Đức; v.v…;
Trong luật quốc tế như: Công ước Viên về hợp đồng mua bán quốc tế hàng
hóa năm 1980; Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành phán quyết
của Trọng tài nước ngoài; Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về hợp đồng thương mại
quốc tế năm 2004; 50 phán quyết trọng tài quốc tế chọn lọc. Hà Nội, năm 2002;
Công ước Rome ngày 19/6/1980 về xác định luật áp dụng đối với nghĩa vụ hợp
đồng; Tập quán INCOTERMS năm 2010; v.v…;
Trong các ấn phẩm và bài viết khác như: Giải quyết tranh chấp hợp đồng
thương mại quốc tế, nhận dạng tranh chấp, biện pháp ngăn ngừa và phương pháp
giải quyết. NXB CTQG. Hà Nội, 2010; Đại cương về pháp luật hợp đồng của Dịch
giả Trần Đức Sơn (Bản dịch tiếng Việt của Nhà pháp luật Việt - Pháp). NXB Văn

hóa thông tin Hà Nội, 2002; Những vấn đề cơ bản về Liên minh châu Âu và pháp
luật cộng đồng châu Âu (Nhà pháp luật Việt - Pháp). NXB Văn hóa - Thông tin. Hà
Nội, 2002; Trọng tài và các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn - Giải quyết
các tranh chấp thương mại như thế nào của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam;
Bài viết của Đỗ Văn Đại về “Nhầm lẫn trong chế định hợp đồng: Những bất cập và
hướng sửa đổi Bộ luật Dân sự” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp. Số 22(11/
2009) và Số 23 (12/2009); Dương Anh Sơn và Nguyễn Ngọc Sơn với bài viết về
“Tác động của các hình thức lỗi đến việc xác định trách nhiệm hợp đồng nhìn từ góc
độ trung thực và thiện chí” đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 1(38)/2007; Ví
dụ về hợp đồng vô hiệu đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 5/2005; Nguyễn Như Phát
viết về “Điều kiện thu hút sự tham gia của các nhà khoa học vào hoạt động xây dựng
pháp luật” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2006; v.v…;
Trong các giáo trình như: Giáo trình Luật Hợp đồng (Phần chung) và Giáo
trình Luật Thương mại (Phần chung và Thương nhân). NXB ĐHQG Hà Nội, 2013
của PGS.TS. Ngô Huy Cương; Giáo trình Thương mại quốc tế. NXB CTQG. Hà
Nội, 2005 của PGS.TS. Nguyễn Bá Diến; Việt Nam dân luật lược khảo. Quyển II –
Nghĩa vụ và khế ước. In lần thứ nhất, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản. Sài Gòn, 1963
của Vũ Văn Mẫu; Giáo trình Luật hợp đồng thương mại quốc tế. NXB ĐHQG Tp.
Hồ Chí Minh, 2005; Giáo trình Luật Dân sự Liên bang Nga. NXB Prospect. Tập 1.
8


M, 2000; Gusev. A.N. Bình luận BLDS Liên bang Nga. NXB INFRA. M, 2000;
Konrad Zweigert, Hein Kotz. So sánh luật trong lĩnh vực tư pháp. Tập 2, NXB Quan
hệ quốc tế. M, 1998; Anson V. Law of Contract, p.203; v.v…
Như vậy, về hợp đồng vói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa và các vấn
đề khác có liên quan đến hợp đồng đã được nghiên cứu ở rất nhiều cấp độ khá nhau.
Tuy nhiên, đề tài “Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả phát sinh“ nếu
xét trên góc độ và theo hướng nghiên cứu của đề tài, thì hiện tại chưa có một công
trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn diện và tổng thể dưới góc độ sách chuyên

khảo. Do dó, việc lựa chọn chuyên đề này để nghiên cứu chuyên sâu hơn là cần thiết
và luôn có tính mới cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề
tài Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Làm sáng tỏ bản chất của hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa
nói riêng, nghiên cứu hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu, nguyên nhân, hậu quả
phát sinh và hướng hắc phục.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về hợp đồng nói chung và hợp
đồng mua bán hàng hóa vô hiệu nói riêng;
- Phân tích và so sánh các căn cứ làm phát sinh hợp đồng mua bán hàng hóa vô
hiệu theo Luật thương mại Việt Nam năm 2005 và các văn bản có liên quan,
có so sánh với quy định Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc
tế và pháp luật một số nước, pháp luật khu vực;
Rút ra một số điểm còn bất cập, chưa hợp lý của pháp luật Việt Nam điều
chỉnh về hợp đồng, hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu;
- Kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam nhằm
loại bỏ việc ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và các biện pháp khắc
phục hậu quả phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của của Chủ nghĩa Mác – Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước về pháp
luật, về hội nhập quốc tế, về phát triển và hợp tác kinh tế.
9


Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đề tài đặc biệt coi trọng các phương pháp
hệ thống, lịch sử, logic, tổng hợp, phân tích, diễn giải, quy nạp và so sánh pháp luật.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Những phân tích, đánh giá và kiến nghị của đề tài có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn trong việc ký kết hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng,
giúp hạn chế rủi ro, tránh tối đa nguyên nhân phát sinh của hợp đồng vô hiệu và
tranh chấp phát sinh trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng;
So sánh pháp luật giữa các quốc gia khác nhau và luật quốc tế về lĩnh vực đề
tài nghiên cứu nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng. Đề tài
cũng giúp các thương nhân (doanh nghiệp) Việt Nam hiểu và vận dụng đúng pháp
luật trong quá trình ký kết hợp đồng và hợp đồng mua bán hàng hóa.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Đề tài luận văn là công trình được nghiên cứu một cách tổng thể các vấn đề về
lý luận và thực tiễn về hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả phát sinh từ
loại hợp đồng này.
Kết quả của đề tài có thể được dùng làm phương tiện tham khảo nhằm ngăn
chặn nguyên nhân phát sinh hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu, cũng như tham
khảo cho việc giải quyết hậu quả phát sinh từ hợp đồng vô hiệu.
Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật quốc gia có so sánh với pháp luật nước ngoài
và pháp luật quốc tế về hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu, các kiến nghị và giải
pháp mà luận văn đưa ra (để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định hiện hành
về nguyên nhân làm phát sinh và phương thức giải quyết hậu quả của hợp đồng mua
bán hàng hóa vô hiệu) có thể làm nguồn tư liệu tham khảo cho các cơ quan nhà
nước, cho công tác giảng dạy, nghiên cứu và học tập tại các cơ sở đào tạo luật.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu
và hậu quả phát sinh;

10



Chương II: Thực trạng hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả
phát sinh theo pháp luật Việt Nam;
Chương III: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu và hậu quả phát
sinh.
Trong đó Chương 1 đã khái quá hóa lý luận về các loại hợp đồng nói chung và
hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn trong việc
phát sinh hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu. Chương 2 đi sâu phân tích thực trạng
các vấn đề về nội dung cơ bản của hợp đồng và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu,
cũng như phương thức xử lý hợp đồng vô hiệu. Trong chương này có đề cập đến các
ví dụ làm minh chứng cho hợp đồng vô hiệu. Chương cuối đề cập đến hậu quả phát
sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu, nghiên cứu việc giải quyết quyền và
nghĩa vụ giữa hai bên: bên mua và bên bán hàng hóa theo hợp đồng, đưa ra các giải
pháp nhằm giúp cho các bên hợp đồng tránh được việc ký kết các hợp đồng mua bán
hàng hóa vô hiệu.

11


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÔ
HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁT SINH

1.1. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán hàng
hóa vô hiệu
1.1.1.Về hợp đồng nói chung

Chế định hợp đồng là một trong những chế định ra đời sớm nhất trong hệ
thống pháp luật. Kể từ khi loài người có nhu cầu hoạt động giao lưu, trao đổi với
nhau, thì đó cũng chính là lúc làm xuất hiện hợp đồng, mặc dù hợp đồng trong thời

buổi này còn rất sơ khai và có thể nói là đang ở dạng đơn giản nhất. Về cơ sở pháp
lý, hợp đồng là một trong những chế định quan trọng nhất trong hệ thống pháp luật,
nhất là trong pháp luật dân sự và pháp luật kinh doanh. Luật hợp đồng cũng bao hàm
nhiều kỹ thuật pháp lý nhất trong khoa học pháp lý. Vì vậy, các quy định về hợp
đồng luôn luôn chiếm một số lượng lớn trong các đạo luật thuộc lĩnh vực luật tư.
Hợp đồng là một sự thỏa thuận giữa các bên của hợp đồng về việc sẽ thực
hiện hay không thực hiện một điều gì đó. Hợp đồng là một phương tiện rất quan
trọng giúp cho con người thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt hàng ngày, nó đáp
ứng gần như tất cả các nhu cầu thiết yếu của con người không chỉ trong phạm vi
lãnh thổ của một quốc gia, mà còn trên phạm vi của cả cộng đồng quốc tế. Chính
hợp đồng đã tham gia tích cực góp phần gìn giữ và bảo vệ hòa bình, duy trì sự ổn
định quốc tế vì các điều ước quốc tế nói chung nếu xét về bản chất cũng chính là các
hợp đồng hay có bản chất hợp đồng. Khi con người hay quốc gia có nhu cầu trao đổi
hàng hóa với nhau đương nhiên cần dựa trên cơ sở hợp đồng, mà cụ thể ở đây là hợp
đồng mua bán hàng hóa có thể trong phạm vi một quốc gia hay hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế giữa các quốc gia, tức là trên phạm vi quốc tế. Một hợp đồng có
tính logic có nghĩa là nó có sự ràng buộc về mặt pháp lý và có hiệu lực. Mỗi điểm,
12


khoản, điều luật được thỏa thuận trong hợp đồng đều phải rõ ràng, có chủ thể đi kèm
để tránh những tranh chấp và kiện tụng có thể xảy ra. Chúng ta biết rằng khi có tranh
chấp hợp đồng và dẫn tới việc kiện cáo sẽ rất tốn kém nhưng lại không hiệu quả để
giải quyết các tranh chấp về hợp đồng khi có sự xuất hiện của cơ quan tài phán vì
các bên sẽ mất đi quyền kiểm soát mọi vấn đề liên quan đến tranh chấp khi với sự
xuất hiện toà án.
1.1.2.Về hợp đồng mua bán hàng hóa.

Hợp đồng mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó nội dung hợp
đồng ghi nhận về các quyền và nghĩa vụ của bên bán và bên mua, tức là: bên bán có

nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán;
bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa
theo thỏa thuận.
Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa
thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ
mua bán. Hàng hóa ở đây được hiểu là động sản, kể cả động sản hình thành trong
tương lai, và các vật gắn liền với đất. Như vậy, hàng hóa thuộc tài sản và có phạm vi
hẹp hơn tài sản. Từ đó cho thấy, hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại là
một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản. Điểm phân biệt giữa hợp đồng mua
bán hàng hóa trong thương mại và hợp đồng mua bán tài sản khác là: đối tượng là
hàng hóa và vì mục đích sinh lời.
Như vậy, chúng ta có thể tạm thời đưa ra khái niệm về hợp đồng mua bán
hàng hóa như sau: Hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp đồng được xác lập (hay ký
kết) giữa các bên (bên mua và bên bán), thỏa mãn về hình thức theo quy định của
luật, trong đó đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa được phép
mua bán theo quy định của pháp luật.

13


Căn cứ vào yếu tố chủ thể, đối tượng, nơi xác lập và thực hiện hợp đồng, hợp
đồng mua bán hàng hóa được chia thành hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước và
hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài (hay còn gọi là hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế).
Về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
không được định nghĩa trong Luật Thương mại năm 2005, nhưng qua quy định tại
Điều 758 Bộ Luật Dân sự năm 2005 về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, có thể
suy ra rằng một hợp đồng được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi có
một trong các yếu tố sau:
Một là, căn cứ vào yếu tố chủ thể, hợp đồng được giao kết bởi các bên không

cùng quốc tịch;
Hai là, căn cứ vào yếu tố đối tượng, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng đang
tồn tại ở nước ngoài;
Ba là, căn cứ vào nơi xác lập và thực hiện hợp đồng, hợp đồng được giao kết
ở nước ngoài (nước mà các bên chủ thể giao kết hợp đồng không mang quốc
tịch) và có thể được thực hiện ở nước mình hay nước thứ ba.
Điều cần chú ý ở hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các bên tham gia giao
kết hợp đồng sẽ rất dễ gặp phải các rủi ro đặc thù như xung đột pháp luật, do quá
trình vận chuyển, thanh toán, thực thi cam kết hợp đồng. Vì vậy, các bên cần thỏa
thuận và soạn thảo ra một bản hợp đồng chi tiết. Khoản 2 Điều 27 Luật Thương mại
năm 2005 đã quy định rằng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập thành
văn bản.
Theo Luật Thương mại Việt Nam năm 1997, đạo luật thương mại đầu tiên của
Việt Nam đã đưa ra khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa trong phạm vi quốc tế
với tên gọi là hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài, theo đó tại
điều 80 quy định rằng hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài là
hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt Nam với
14


một bên là thương nhân nước ngoài. Tiêu chí để xác định thương nhân nước ngoài
được quy định tại điều 81, theo đó chủ thể của hợp đồng là bên mua và bên bán phải
có đủ tư cách pháp lý. Chủ thể bên nước ngoài là thương nhân và tư cách pháp lý
của họ được xác định căn cứ theo pháp luật của nước mà thương nhân đó mang quốc
tịch.
Như vậy, tiêu chí quan trọng nhất để xác định hợp đồng mua bán hàng hóa với
thương nhân nước ngoài là yếu tố quốc tịch khác nhau của bên mua và bên bán, một
bên có quốc tịch Việt Nam và một bên có quốc tịch nước ngoài.
Như đã phân tích ở trên, việc xác định quốc tịch của pháp nhân nước ngoài
không hề dễ dàng với quy định quốc tịch pháp nhân của các quốc gia khác nhau là

không đồng nhất. Mặt khác, trong điều kiện thực tiễn thương mại Việt Nam, ngày
càng nhiều thương nhân mang quốc tịch nước ngoài đóng trụ sở thương mại tại Việt
Nam mua bán hàng hóa với thương nhân có quốc tịch nước ngoài đóng trụ sở ở nước
ngoài. Trong trường hợp này yếu tố quốc tịch khác nhau không còn ý nghĩa mà chỉ
cần trụ sở thương mại của các bên (bên mua và bên bán) đặt tại các nước khác nhau
là đủ để xác định hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Đồng thời, sự hình thành các
khu chế xuất với việc mua bán hàng hóa giữa thương nhân ngoài khu chế xuất với
thương nhân trong khu chế xuất thì quy định yếu tố quốc tịch khác nhau của các bên
là tiêu chí xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế không
còn phù hợp.
Luật Thương mại Việt Nam năm 2005, đây là luật hiện hành về thương mại
của Việt Nam đã không đưa ra khái niệm hay định nghĩa thế nào là hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế, cũng không đưa ra tiêu chí để xác định tính chất quốc tế của
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mà chỉ liệt kê ra các hình thức và cũng là các
hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế tại điều 27, bao gồm: xuất khẩu, nhập khẩu,
tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, chuyển khẩu. Khái niệm về các hoạt động mua
bán hàng hóa quốc tế được làm rõ tại các điều từ 28-30, cụ thể như sau: xuất khẩu
15


hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu
vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo
quy định của pháp luật” (khoản1, điều28); nhập khẩu hàng hoá là việc hàng hoá
được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên
lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật”
(khoản2, điều28); tạm nhập, tái xuất hàng hoá là việc hàng hoá được đưa từ lãnh thổ
nước ngoài hoặc từ các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu
vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam, có làm thủ tục nhập khẩu
vào Việt Nam và làm thủ tục xuất khẩu chính hàng hoá đó ra khỏi Việt Nam” [khoản
1, điều 29]; tạm xuất, tái nhập hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài

hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu vực
hải quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt
Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hoá đó vào Việt Nam” (khoản2,
điều29); chuyển khẩu hàng hoá là việc mua hàng từ một nước, vùng lãnh thổ để bán
sang một nước, vùng lãnh thổ ngoài lãnh thổ Việt Nam mà không làm thủ tục nhập
khẩu vào Việt Nam và không làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam” [khoản 1,
điều 30].
Từ những phân tích trên đây, dưới góc độ khoa học pháp lý, hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế có thể được hiểu là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự
thỏa thuận giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài, theo đó một
bên gọi là bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho một
bên gọi là bên mua, bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán tiền hàng cho bên
bán.
1.1.3. Khái niệm về hợp đồng và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu
Hợp đồng vô hiệu nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu nói riêng
là hợp đồng không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực theo quy định của
16


pháp luật. Chú ý rằng, chúng ta cần phân biệt một hợp đồng mua bán hàng hóa vô
hiệu khác với vô hiệu hóa một hợp đồng mua bán hàng hóa hay hủy bỏ một hợp
đồng mua bán hàng hóa do vô hiệu. Vô hiệu hóa một hợp đồng mua bán hàng hóa
hay hủy bỏ một hợp đồng mua bán hàng hóa do vô hiệu có thể được hiểu là một chế
tài áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa không đủ các tiêu chuẩn hoặc
vi phạm các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định, còn khi một hợp đồng
mua bán hàng hóa vô hiệu thì người ta luôn xem rằng hợp đồng mua bán hàng
hóa đó chưa từng tồn tại, điều đó cũng có nghĩa là hợp đồng mua bán hàng
hóa đó không có hiệu lực cả trong quá khứ, hiện tại và trong tương lai.
Hợp đồng vô hiệu nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu nói riêng
là hợp đồng không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực theo quy định của

pháp luật. Chú ý rằng, chúng ta cần phân biệt một hợp đồng mua bán hàng hóa vô
hiệu khác với vô hiệu hóa một hợp đồng mua bán hàng hóa hay hủy bỏ một hợp
đồng mua bán hàng hóa do vô hiệu. Vô hiệu hóa một hợp đồng mua bán hàng hóa
hay hủy bỏ một hợp đồng mua bán hàng hóa do vô hiệu có thể được hiểu là một chế
tài áp dụng đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa vi phạm các điều kiện có
hiệu lực do pháp luật quy định, còn khi một hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu thì
hợp đồng đó không có hiệu lực pháp lý.
Pháp luật nhiều quốc gia trên thế giới nói chung đều thừa nhận các yếu tố
làm hợp đồng vô hiệu nhƣ sau:
- Thứ nhất là sự tác động của chủ thể khác tới bên còn lại khi giao kết hợp
đồng. Sự tác động này có thể là gây nhầm lẫn cho chủ thể về nội dung hợp
đồng, hoặc lừa dối cung cấp thông tin sai sự thật, hoặc đe dọa ,ngăn cản tự do
ý chí. hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết do đe dọa cũng bị coi là vô
hiệu, đe dọa có thể là đe dọa về thể chất hoặc về tinh thần. Về nguyên tắc một
hành vi được coi là đe dọa trong khi ký kết hợp đồng phải có các dấu hiệu như
sau:
Một là, đe dọa phải có tính tức thời và nghiêm trọng. Tính tức thời và nghiêm
trọng này thể hiện ở chỗ bên bị đe dọa không còn sự lựa chọn nào khác tốt hơn là
17


phải ký hợp đồng, tức là ký hợp đồng trái với ý muốn của mình. Tính tức thời và
nghiêm trọng được đánh giá theo các tiêu chuẩn khách quan và chủ quan và tùy
thuộc vào từng trường hợp cụ thể;
Hai là, sự đe dọa không có lý do chính đáng;
Ba là, đe dọa làm ảnh hưởng đến uy tín, đến lợi ích kinh tế[10, tr.28-29].
Trong hoạt động thương mại, hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết do do
một trong các bên lừa dối cũng bị coi là vô hiệu, lừa dối là hành vi cố ý của một bên
nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệnh về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội
dung của hợp đồng nên đã ký kết hợp đồng.

Pháp luật của nhiều quốc gia quy định rằng nhầm lẫn có thể được coi là căn
cứ để yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, tuy nhiên thế nào là nhầm lẫn được
xem xét không giống nhau trong pháp luật của các quốc gia khác nhau. Pháp luật của
các nước hầu như không đưa ra khái niệm nhầm lẫn, còn trong khoa học pháp lý, về
vấn đề này được nhìn nhận theo nhiều cách khác nhau.
Có các quan đỉểm khác nhau về nhầm lẫn khi giao kết hợp hợp đồng, ví dụ
nhầm lẫn là những trường hợp hợp đồng được ký kết nhưng ý chí của một hoặc của
các bên được hình thành không đúng vì nhiều lý do khác nhau. Nhầm lẫn có thể do
các bên chưa thoả thuận hết mọi điều khoản của hợp đồng, có thể do các bên không
thể hiện sự cẩn thận cần phải có, cũng có thể do sự tự tin thái quá của chủ thể hoặc
hành vi của người thứ ba [11, tr.261]; hoặc nhầm lẫn có nghĩa là hợp đồng được ký
kết không phản ánh ý chí đích thực của các bên, không có khả năng mang lại kết quả
mà các bên hướng đến tại thời điểm ký kết hợp đồng[12, tr.322].
Có thể nói rằng nhầm lẫn là khi ý chí của các bên không giống với ý chí của
họ trong giai đoạn thống nhất ý chí mặc dù không bị đe doạ hoặc lừa dối. Việc coi
nhầm lẫn là căn cứ để tuyên bố hợp đồng vô hiệu gặp phải hai vấn đề phức tạp trong
khoa học pháp lý và trong thực tiễn. Thứ nhất, xuất phát từ thuyết ý chí, nhầm lẫn
được coi là việc hợp đồng được ký kết trái với ý chí đích thực của chủ thể và vì vậy
nên cần phải coi hợp đồng đó là vô hiệu; và Thứ hai, nếu trong mọi trường hợp khi
hợp đồng được ký kết trái với ý chí đích thực của chủ thể sẽ bị vô hiệu, điều này sẽ
tạo ra sự không ổn định, mất trật tự trong lưu thông dân sự và trong hoạt động kinh
doanh thương mại, điều mà không ai muốn. Chính vì vậy nên Toà án cần phải thận
18


trọng khi tuyên hợp đồng vô hiệu. Để tìm giải pháp hài hoà các mối quan hệ trên cần
phải phân biệt hai loại nhầm lẫn: một là, nhầm lẫn không có ý nghĩa pháp lý, tức là
không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng; và hai là, nhầm lẫn có ý nghĩa pháp lý,
đây là căn cứ để đề nghị toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Như vậy, không phải mọi nhầm lẫn đều có ý nghĩa pháp lý đối với bên nhầm

lẫn, điều này đã được ghi nhận trong các hệ thống pháp luật[13, tr.118-119]. Tuy
nhiên, trong thực tiễn việc phân biệt hai loại nhầm lẫn nói trên là không hề đơn giản,
trong khi đó hậu quả pháp lý của chúng lại khác nhau. Nhầm lẫn nếu nhìn từ góc độ
là điều kiện để yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu là một trong những vấn đề
phức tạp nhất của pháp luật hợp đồng và gây ra nhiều khó khăn cho người nghiên
cứu.
Người bán bán cho người mua một bình gốm Trung Quốc với giá rẻ vì cho
rằng, đó là bình gốm giả cổ do người địa phương làm ra. Sau đó người mua phát
hiện ra rằng đó là một tác phẩm nghệ thuật vô giá được làm từ thời Nhà Minh. Trong
trường hợp này người bán có quyền yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và đòi
lại bình cổ với lý do đã không đánh giá chính xác được giá trị của chiếc bình cổ đó.
Có hay không có ý nghĩa việc người bán là chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực đồ cổ
và có thể đánh giá đúng giá trị của chiếc bình nhưng đã bất cẩn khi thực hiện việc
đánh giá. Có quan trọng hay không việc người mua biết chính xác hoặc đoán biết
được đó là bình cổ nhưng đã giấu người bán. Sẽ như thế nào nếu cả người bán và
người mua của hợp đồng ban đầu đều là các chuyên gia trong lĩnh vực đánh giá đồ
cổ. Có ý nghĩa hay không việc người mua vì tin vào hiệu lực của hợp đồng đã bỏ ra
một khoản tiền lớn để phục hồi chiếc bình với mục đích bán lại, hoặc đã bán lại cho
người khác. Nếu người mua, một cách trung thực cam kết với người bán rằng, đó là
bình giả cổ và yêu cầu người bán thực hiện hợp đồng. Và cuối cùng, nếu người bán
yêu cầu người mua trả lại bình, người mua đồng ý nhưng yêu cầu trả mức chênh lệch
giá [13, tr.119].
- Thứ hai là tự thân chủ thể giao kết hợp đồng không thể nhận thức được việc tham
gia giao kết hợp đồng. Điều này có thể là chủ thể không đủ năng lực hành vi, không

19


có khả năng nhận thức , hoặc một pháp nhân kinh doanh không có quyền tham
gia giao kết một số dạng hợp đồng mua bán có đối tượng không nằm trong phạm

vi đăng ký kinh doanh hoặc một tổ chức không đăng ký kinh doanh tham gia kinh
doanh lĩnh vực đó.
- Thứ ba, hợp đồng vô hiệu do tự thân hợp đồng . Nó có thể là hình thức của hợp
đồng không được pháp luật công nhận, nội dung hợp đồng trái pháp luật và trật tự
công cộng xã hội, hoặc che đậy một hợp đồng khác.
1.2.Hậu quả phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu
Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu là hợp đồng vi phạm một trong các
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Do đó, khi xảy ra vi phạm các bên sẽ phải chịu
chế tài. Từ Công ước Viên 1980 và hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia trên thế
giới, ta có thể rút ra một số chế tài điển hình sau :
-

Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng: Buộc thực hiện đúng hợp đồng là

chế tài áp dụng đối với bên vi phạm hợp đồng khi Bên bị vi phạm vẫn mong muốn
và yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc thực hiện các
biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện. Ví dụ, thương nhân Việt Nam ký hợp
đồng xuất khẩu gạo với thương nhân Đức. Đến thời hạn giao hàng, Bên bán giao
thiếu hàng, giao hàng không đúng chất lượng – như vậy bên bán đã vi phạm hợp
đồng, do đó bên mua yêu cầu bên bán phải giao đủ hàng, đối với số lượng gạo
không đạt chất lượng thì bị trả lại và bên bán phải giao hàng đủ về số lượng, đúng về
chất lượng theo Hợp đồng – tức là yêu cầu bên bán thực hiện đúng hợp đồng. Ngược
lại, khi bên bán đã thực hiện nghĩa vụ mà bên mua không thanh toán theo đúng tiến
độ thì bên bên bán có quyền yêu cầu bên mua thực hiện đúng hợp đồng là thanh toán
tiền hàng theo quy định của Hợp đồng.
Công ước Viên năm 1980 quy định chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng
được áp dụng trong các trường hợp vi phạm như sau:
20



Một là, người bán giao hàng không phù hợp với hợp đồng. Tại khoản 2 Điều
46 của Công ước Viên năm 1980 quy định rằng nếu hàng hóa không phù hợp với
hợp đồng thì người mua có thể đòi người bán phải giao hàng thay thế nếu sự không
phù hợp đó tạo thành một sự vi phạm cơ bản hợp đồng; và khoản 3 Điều 46 quy
định rằng người mua có quyền đòi người bán phải loại trừ sự không phù hợp ấy.
Điều 46 và điều 39 cũng quy định việc yêu cầu thay thế hàng hoặc loại bỏ những
hàng hóa không phù hợp phải được thực hiện song song với việc thông báo về sự
không phù hợp của hàng hóa hoặc trong thời hạn 2 năm kể từ ngày hàng hóa được
chuyển giao cho bên mua - nếu bên mua không thực hiện các công việc này thì mất
quyền khiếu nại yêu cầu bên bán thực hiện đúng hợp đồng.
Hai là, người bán không giao hàng: trường hợp này cũng dễ xảy ra khi bên
bán gặp sự cố không thể giao hàng hoặc phát sinh cơ hội khác cho bên bán lớn hơn
quyền lợi đã giao kết với bên mua. Khi xảy ra sự việc này, người mua có quyền yêu
cầu áp dụng chế tài buộc người bán thực hiện đúng hợp đồng, tức là giao hàng
đúng quy định của hợp đồng. Quyền này của bên mua được quy định tại khoản 1
điểm b Điều 49. Để tạo điều kiện cho bên bán giao hàng, bên mua có thể gia hạn
thêm thời gian giao hàng cho bên bán theo quy định tại khoản 1 Điều 47, theo đó
người mua có thể cho người bán thêm một thời hạn bổ sung hợp lý để người bán
thực hiện nghĩa vụ.
Ba là, các trường hợp khác mà các bên có quyền áp dụng chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng: Người bán giao thiếu hàng thì người mua có quyền
yêu cầu giao đủ hàng, giao hàng mà không có chứng từ thì phải bổ sung chứng
từ đầy đủ, giao chậm hàng thì các lần giao hàng tiếp theo phải giao đúng hạn,…
Khi áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, các bên có thể gia hạn hoặc
bổ sung cho bên kia thêm một khoảng thời gian hợp lý để bên vi phạm thực hiện
nghĩa vụ theo hợp đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 47 và khoản 1 Điều 63 của
Công ước. Nếu trong khoản thời gian được bổ sung hoặc gia hạn, bên vi phạm
21



không thực hiện nghĩa vụ thì đương nhiên sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý
bất lợi.
Đồng thời, khoản 2 Điều 45 đã quy định rằng người mua không mất quyền
đòi bồi thường thiệt hại khi họ sử dụng quyền dùng một biện pháp bảo hộ pháp lý
khác. Như vậy, khi áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm
vẫn đồng thời có quyền đòi bồi thường đối với bên vi phạm khi có thiệt hại do vi
phạm hợp đồng gây ra.
Theo Bộ luật Thương mại thống nhất của Mỹ (UCC), buộc thực hiện đúng
hợp đồng được áp dụng trong một số trường hợp sau:
Thứ nhất, khi hàng hóa là duy nhất - có tính chất đặc trưng không thể thay thế
được và trong các bối cảnh cụ thể;
Thứ hai, buộc thực hiện đúng hợp đồng áp dụng cho các khoản mục và điều
kiện như: thanh toán theo đúng hợp đồng, thiệt hại và các khoản trợ giúp khác mà
Tòa án coi là chính đáng;
Thứ ba, áp dụng biện pháp tương tự nhằm thực hiện đúng hợp đồng trong
trường hợp hàng hóa có lỗi và bên mua yêu cầu bên bán thay thế hàng hóa theo nội
dung mà hợp đồng đã quy định, nếu sau những nỗ lực hợp lý mŕ người mua không
thể mua bù được hàng hóa đó, hoặc trong hoàn cảnh thực tế cho thấy rằng nỗ lực
như vậy cũng trở lên vô ích và không đảm bảo an toàn nếu được thực hiện trong
hoàn cảnh ấy.
Luật hợp đồng của Trung Quốc không quy định thế nào là buộc thực hiện
đúng hợp đồng, tuy nhiên tại các điều 93, 94 và 114 quy định khi một bên không
thực hiện hoặc thực hiện không tốt nghĩa vụ của mình thì bên còn lại có quyền yêu
cầu bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ, chịu phạt vi phạm theo quy định của hợp đồng
hoặc hủy hợp đồng. Luật này cũng quy định tương tự buộc thực hiện đúng hợp
đồng là bên vi phạm phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định tại hợp đồng
hoặc sử dụng các biện pháp khác để thực hiện hợp đồng.
22



Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 cũng như pháp luật của hầu hết các
nước trên thế giới đều quy định khá tương đồng với Công ước Viên về chế tài buộc
thực hiện đúng hợp đồng. Chế tài này được áp dụng tương đối phổ biến bởi nó
chứa đựng các hướng khắc phục vi phạm, tạo điều kiện cho các bên nỗ lực thực
hiện hợp đồng trước khi áp dụng các biện pháp khác nhằm bảo vệ quyền lợi chính
đáng của bên bị vi phạm, giảm thiểu các thiệt hại đáng tiếc và giữ gìn quan hệ
thương mại giữa hai bên.
-

Chế tài phạt vi phạm. Phạt vi phạm hợp đồng cũng là chế tài được các bên

tham gia quan hệ hợp đồng, đặc biệt là hợp đồng mua bán hang hóa quốc tế thường áp
dụng. Đối với chế tài này, bên bị vi phạm không cần chứng minh thiệt hại xảy ra mà
chỉ cần chứng minh bên kia đã phạm quy định của điều khoản phạt trong hợp đồng là
có quyền yêu cầu bên vi phạm chịu phạt. Đồng thời tiên liệu trước việc vi phạm hợp
đồng để đưa ra mức phạt đủ và thậm chí là cao hơn mức lợi ích một bên có thể có
được khi tham gia hợp đồng làm cho các bên buộc phải có ý thức nghiêm túc trong
việc thực hiện hợp đồng. Chính hai mục đích này làm cho chế tài phạt vi phạm hợp
đồng luôn được ít nhất một bên chú ý khi soạn thảo hợp đồng.

Chế tài phạt vi phạm thường được các bên lựa chọn áp dụng vì nó thực hiện
hai chức năng:
Thứ nhất, là chế tài đảm bảo thực hiện hợp đồng; và
Thứ hai, là hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Về mức phạt do vi phạm hợp đồng, tại Điều 301 Luật Thương mại năm 2005
quy định rằng mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với
nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần
nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Tiền phạt có thể được coi là khoản bồi thường thiệt hại
được tính trước cho bên bị vi phạm khi một bên không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng cam kết trong hợp đồng. Thường khi áp dụng chế tài này bên vi phạm chỉ phải trả

cho bên bị vi phạm khoản tiền phạt mà không phải trả thêm
23


bất cứ chi phí nào. Do đó khi quy định điều khoản phạt trong hợp đồng các bên phải
tính toán kỹ tất cả thiệt hại có thể xảy ra đối với mình nếu bên kia không thực hiện
hoặc thực hiện không tốt hợp đồng như giao hàng chậm, giao hàng không đúng quy
cách, chất lượng, chậm thanh toán…; nếu không lường trước tất cả thì rất có thể
mức phạt sẽ thấp hơn nhiều thiệt hại thực tế xảy ra cho bên bị vi phạm.
Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật nhiều quốc gia có quy định về chế tài
phạt vi phạm. Tuy nhiên, Công ước Viên năm 1980 lại không có quy định về chế tài
phạt vi phạm. Do đó, khi áp dụng chế tài này trong hợp đồng mua bán hang hóa
quốc tế thì các bên phải lựa chọn áp dụng pháp luật quốc gia để điều chỉnh hợp
đồng.
-

Chế tài bồi thường thiệt hại

Bồi thường thiệt hại là một hình thức trách nhiệm pháp lý được các bên
trong hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế áp dụng
phổ biến cả trong trường hợp không thực hiện và thực hiện không đúng hợp đồng.
Khi xảy ra việc vi phạm hợp đồng, bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm bồi thường
các thiệt hại xảy đến với mình.
Theo Công ước Viên năm 1980 thì tất cả các trường hợp vi phạm hợp đồng
bên bị vi phạm đều có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại [điểm b,
khoản 1, Điều 45 Công ước Viên năm 1980]. Việc áp dụng Công ước Viên năm
1980 làm văn bản pháp lý để đòi bồi thường thiệt hại áp dụng cho cả hai trường hợp
đối với quốc gia của bên mua và bên bán đã là (hoặc chưa là) thành viên của Công
ước Viên năm 1980, tuy nhiên điều kiện áp dụng khác nhau:
Thứ nhất, đối với trường hợp quốc gia mà bên mua và bên bán có quốc tịch

đều là thành viên của Công ước Viên năm 1980 thì các bên được áp dụng quy định
của Công ước này để yêu cầu bồi thường thiệt hại dù hợp đồng có hoặc không có
quy định Công ước là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng; và

24


×