Tải bản đầy đủ (.docx) (125 trang)

Hoàn thiện khung pháp luật về xây dựng cơ bản ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (373.21 KB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VÕ THỊ QUYÊN

HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT
VỀ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VÕ THỊ QUYÊN

HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT
VỀ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

Mã số

:603801

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH ĐÀO TRÍ ÚC



HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Võ Thị Quyên


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆ

KHUNG PHÁP LUẬT VỀ XÂY DỰNG
VIỆT NAM

1.1.

Vị trí, vai trò của ngành xây dựng trong

1.1.1.

Khái niệm ngành xây dựng và các ngành

1.1.2.

Đặc điểm của sản phẩm xây dựng và các
vào quá trình hình thành công trình xây

1.1.3.

Vai trò của ngành xây dựng trong nền ki

1.2.

Khái niệm và cấu trúc của khung pháp lu

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động đầu tư xây dựng - đối

tượng điều chỉnh của pháp luật về xây d
1.2.2.

Vai trò và quá trình hình thành cơ chế qu

1.2.3.


Các nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật
cơ bản

1.3.

Nội dung của khung pháp luật về xây dự

1.4.

Kinh nghiệm quốc tế về đầu tư xây dựng

1.4.1.

Trung Quốc

1.4.2.

Malaysia

1.4.3.

Pháp

1.4.4.

Hoa Kỳ

Chương 2: THỰC TRẠNG KHUNG PH

XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM H

2.1.

Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu t

2.2.

Quy định của pháp luật Việt Nam về Xâ


2.2.1.

Pháp luật về quy hoạch xây dựng

2.2.2.

Pháp luật về dự án đầu tư xây dựng

2.2.3.

Pháp luật về khảo sát, thiết kế xây dựng

2.2.4.

Pháp luật về xây dựng công trình

2.2.5.

Pháp luật về lựa chọn nhà đầu tư và hợp

2.2.6.


Pháp luật về quản lý Nhà nước về xây d

2.3.

Những kết quả đạt được trong hoạt độn

pháp luật về Xây dựng cơ bản ở Việt Na
2.4.

Một số bất cập và hạn chế trong việc xâ
khung pháp luật về xây dựng cơ bản ở V

2.4.1.

Về hệ thống pháp luật

2.4.2.

Một số vấn đề khác

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁ
HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT
3.1.

CƠ BẢN Ở VIỆT NAM
Sự cần thiết phải hoàn thiện khung pháp
bản ở Việt Nam

3.2.


Những yêu cầu và phương hướng hoàn
về Xây dựng cơ bản ở Việt Nam

3.2.1.

Những yêu cầu hoàn thiện khung pháp
bản ở Việt Nam

3.2.2.

Phương hướng hoàn thiện

3.3.

Các giải pháp hoàn thiện khung pháp lu

3.3.1.

bản ở Việt Nam
Các giải pháp hoàn thiện khung pháp lu
dựng cơ bản ở Việt Nam

3.3.2.

Hoàn thiện, nâng cao tổ chức thực hiện
cơ bản

3.3.3.


Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ
dựng cơ bản
KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế - xã hội nước ta năm 2013 tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn của
kinh tế thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở Châu Âu
chưa được giải quyết triệt để. Hệ quả xấu vẫn đang tiếp diễn từ sự suy thoái
trong khu vực đồng euro với khủng hoảng tín dụng và tình trạng thất nghiệp
gia tăng tại các nước thuộc khu vực này. Thương mại toàn cầu bị tác động
mạnh, giá cả hàng hóa diễn biến phức tạp. Các nền kinh tế đầu tàu suy giảm
kéo theo sự giảm sút của các nền kinh tế khác. Một số quốc gia và khối liên
minh lớn có vị trí quan trọng trong quan hệ thương mại song phương với nước
ta như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật bản và EU đối mặt với nhiều thách thức, khó
khăn nên tăng trưởng chậm. Những bất lợi từ sự suy giảm của kinh tế thế giới
ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư trong
nước. Thị trường tiêu thụ hàng hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở mức cao, sức
mua giảm mạnh. Vấn đề nợ xấu ngân hàng ở mức đáng lo ngại. Nhiều doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động
hoặc giải thể, phá sản. Trong đó, ngành xây dựng là lĩnh vực chịu ảnh hưởng
trực tiếp, nhiều nhất từ khó khăn chung đó. Hầu hết các doanh nghiệp thuộc
ngành xây dựng đều phải hứng chịu thiệt hại nặng nề từ cơn bão khủng hoảng
kinh tế thế giới, chịu nhiều khó khăn do việc chậm tiêu thụ, tồn đọng hàng hoá
lớn, thất nghiệp tăng cao. Chủ đầu tư các dự án lại chậm thanh toán, lãi suất
cho vay còn cao, khó tiếp cận nguồn vốn... Đặc biệt như lĩnh vực xây lắp,
nhiều công trình không thể triển khai thi công tiếp do chưa thu xếp được vốn

của chủ đầu tư, dẫn đến bị đình trệ hoặc tạm hoãn, khiến nhiều doanh nghiệp
bất động sản phải “gồng mình” gánh chi phí lãi vay và các chi phí đầu vào liên
tục tăng cao. Về nhà ở và hạ tầng, lượng vốn huy động từ xã hội lại rất thấp do
thị trường bất động sản đang đóng băng cùng những khó khăn, hạn chế trong
việc tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng đã làm
1


cho nhiều dự án phát triển nhà và đô thị phải dừng đầu tư, hoặc triển khai cầm
chừng. Theo dự tính của các chuyên gia kinh tế, khủng hoảng luôn mang tính
chất chu kỳ của kinh tế thị trường, chính vì vậy phần lớn các quốc gia trên thế
giới đều tính đến vai trò ngành xây dựng trong việc vực dậy nền kinh tế trong
thời gian ngắn hạn cũng như dài hạn. Do đặc thù ngành xây dựng trải rộng
khắp toàn quốc, trải đều trên nhiều vùng, với số lượng công việc đa dạng nên
khả năng kiến tạo và chuyển đổi việc làm nhanh, tiêu thụ nhiều sản phẩm đầu
ra của các ngành khác.
Trước tình hình kinh tế biến động phức tạp như vậy, Đảng, Quốc hội và
Chính phủ thẳng thắn nhìn nhận và chỉ ra những hạn chế, bất cập trong nội tại
nền kinh tế, đồng thời đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức hiện nay,
trên cơ sở đó ban hành nhiều văn bản quan trọng với những định hướng đúng
đắn trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành kinh tế-xã hội. Mà trọng yếu là Xây
dựng cơ bản, một ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn, tạo cơ sở hạ tầng quan
trọng cho sự phát triển đất nước, đồng thời bao trùm phổ rộng các loại quan hệ
xã hội tham gia vào đời sống kinh tế, vì vậy ngành này đứng trước yêu cầu cấp
bách là thay đổi căn bản cách thức quản lý nhà nước thông qua việc hoàn thiện
khung pháp luật về Xây dựng cơ bản, nhằm vượt qua những khó khăn thách
thức to lớn trước mắt của toàn ngành nói riêng cũng như của nền kinh tế nói
chung.
Những bất cập phát sinh trong quá trình thực hiện dự án, làm chậm tiến
độ, lỡ cơ hội đầu tư; việc quy định trách nhiệm của các chủ thể chưa rõ ràng,

các chế tài chưa đủ mạnh, nên tình trạng vi phạm pháp luật xây dựng vẫn còn
tràn lan, tiếp diễn phức tạp nhưng lại thiếu các căn cứ để xử lý. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến tồn tại này là hệ thống pháp luật điều chỉnh những
vấn đề về xây dựng cơ bản chưa được thống nhất, chưa được điều chỉnh kịp
thời. Phạm vi, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về xây dựng cơ bản cần đầy
đủ, toàn diện hơn: điều chỉnh toàn bộ các hoạt động xây dựng,
2


như đầu tư xây dựng, từ việc lập quy hoạch xây dựng đến lập dự án đầu tư xây
dựng công trình, khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng, quản lý dự án, giám sát
việc xây dựng, nghiệm thu, thanh quyết toán... Tiếp tục tập trung hơn nữa vào
điều chỉnh, quản lý các hoạt động đầu tư xây dựng ở nông thôn - nơi đang gây
bức xúc do tốc độ đô thị hóa nhanh, như xây dựng lấn chiếm đất công, tranh
chấp, khiếu kiện, ô nhiễm môi trường... Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ
bản còn có những biểu hiện tuỳ tiện không tuân theo pháp luật và chưa đáp ứng
được yêu cầu ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, như tình trạng xây dựng tự
phát không tuân thủ quy hoạch, quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng, buông lỏng
công tác tiền kiểm của cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng trong giai đoạn
hình thành dự án dẫn đến việc chủ đầu tư có thể tùy tiện thay đổi, chỉnh sửa
thiết kế. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch được duyệt còn yếu
kém, chưa thu hút được sự tham gia rộng rãi của cộng đồng.Vấn đề quy định,
thủ tục về lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch còn mất nhiều thời gian, chưa
đáp ứng được thực tế yêu cầu phát triển. Ngoài ra, việc đầu tư nghiên cứu xây
dựng mới hệ thống các quy trình, quy phạm tiêu chuẩn và quy chuẩn, phương
pháp thiết kế quy hoạch xây dựng và quản lý các loại quy hoạch xây dựng
cũng chưa được quan tâm một cách thỏa đáng, chưa phù hợp với yêu cầu quản
lý và hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay và tương lai. Hệ thống các văn
bản quy phạm pháp trong lĩnh vực xây dựng cơ bản còn chưa đầy đủ, thiếu
đồng bộ, hiệu lực pháp lý thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý toàn diện

về phát triển xây dựng trong cả nước, tại các vùng, các khu vực đặc thù, như
các loại quy hoạch xây dựng vùng liên tỉnh, liên huyện; quy hoạch xây dựng
các khu kinh tế, khu du lịch sinh thái, quy hoạch xây dựng nông thôn ngoài các
điểm dân cư nông thôn… Các văn bản pháp luật còn thiếu và không đồng bộ
như vậy thì việc tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đã ban hành gặp nhiều
khó khăn, đã ảnh hưởng không nhỏ đến ý thức sống và làm việc theo pháp luật
của các
3


cá nhân, tổ chức tạo nên rào cản lớn gây trở ngại cho sự phát triển ổn định kinh
tế - xã hội của đất nước.
Từ những lý do trên, học viên đã lựa chọn đề tài là “Hoàn thiện khung
pháp luật về Xây dựng cơ bản ở Việt Nam” cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, có một số luận án đã nghiên cứu các vấn đề chuyên ngành của
luật xây dựng như: đề tài Phân cấp quản lý nhà nước về xây dựng của Ths. Đỗ
Thị Hồng Mai, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2007; đề tài Pháp luật về các
hình thức huy động vốn đầu tư xây dựng nhà ở tại Việt Nam, của Ths. Hà Thị
Thu Trang, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2014; đề tài Pháp luật về đăng ký
quyền sở hữu nhà ở Việt Nam của Ths. Nguyễn Mạnh Khởi, Đại học quốc gia
Hà Nội, năm 2010; đề tài Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực xây dựng, liên hệ qua thực tiễn ở thành phố Hà Nội của Ths.
Quân Ngọc Anh năm 2009. Các luận án mới chỉ nghiên cứu, đánh giá các quy
phạm pháp luật xây dựng ở từng lĩnh vực cụ thể mà chưa có công trình đánh
giá tổng thể hệ thống pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, tồn tại một luận án tiến sĩ về hệ thống văn bản pháp luật về xây dựng
cơ bản của Việt Nam là đề tài Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật của ngành xây dựng của TS. Bùi Sĩ Hiển, Đại học quốc gia Hà Nội, năm
2004 nhưng luận án đã sử dụng các văn bản pháp luật hiện nay đã hết hiệu lực,

chưa có đánh giá, so sánh với Luật xây dựng năm 2014 mới được ban hành
trong thời gian vừa qua. Chính vì vậy, đề tài “Hoàn thiện khung pháp luật về
Xây dựng cơ bản ở Việt Nam” là mới so với các đề tài nghiên cứu trước đây.

4


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
-

Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm đánh giá thực

trạng hệ thống pháp luật về xây dựng cơ bản, để xác định phương hướng và nội
dung hoàn thiện khung pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay.

-

Phân tích cơ sở lý luận của sự hình thành và phát triển pháp luật về xây

dựng cơ bản, những đặc điểm, đặc trưng pháp luật về xây dựng cơ bản;
-

Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về xây dựng cơ bản và từ

thực tiễn thi hành pháp luật về xây dựng cơ bản trong thời gian qua, xác định
phương hướng, đề xuất nội dung cụ thể hoàn thiện pháp luật về xây dựng cơ
bản;
-

Trên cơ sở những vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật về xây dựng cơ


bản, thực tiễn thi hành pháp luật về xây dựng cơ bản trong thời gian qua và có
tham khảo một cách chọn lọc pháp luật của một số quốc gia khác, đề xuất các
quan điểm, giải pháp hoàn thiện nội dung, hình thức pháp luật về xây dựng cơ
bản ở Việt Nam hiện nay. Trong đó tập trung vào việc hoàn thiện các quy định
pháp luật về xây dựng cơ bản tạo khung pháp lý tối ưu cho việc tổ chức và
hoạt đông quản lý xây dựng cơ bản đáp ứng yêu cầu đổi mới hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và hội nhập kinh
tế thế giới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, học viên vận dụng các phương pháp
khoa học như: phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
phương pháp xã hội học, kết hợp phương pháp thống kê, phương pháp hệ
thống hóa, phương pháp phân tích mô tả, phương pháp so sánh luật học,
phương pháp tiếp cận thu thập thông tin, phương pháp nghiên cứu tài liệu…
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống pháp luật hiện hành về

xây dựng cơ bản ở Việt Nam. Qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng hệ
5


thống pháp luật về xây dựng cơ bản, luận văn đề xuất hệ thống các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay.
-

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu công tác xây


dựng pháp luật về xây dựng cơ bản trên cơ sở hệ thống các văn bản quy phạm
pháp luật xây dựng cơ bản và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
Luận văn phân tích và khái quát các yêu cầu cụ thể chuyên ngành liên quan
đến xây dựng cơ bản để làm nổi bật vấn đề quan tâm chủ yếu: hoàn thiện
khung pháp luật về xây dựng cơ bản nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
6. Những điểm mới và ý nghĩa của đề tài
-

Luận văn là công trình mới, đầu tiên, không trùng lặp với bất kỳ đề tài

khoa học nào đã công bố trước đây và nghiên cứu một cách toàn diện, tập
trung và trực tiếp vấn đề lý luận về pháp luật xây dựng cơ bản nhằm mục đích
đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xây dựng cơ bản bao gồm hoàn
thiện về hình thức và nội dung, theo hướng ngày càng đồng bộ, thống nhất, khả
thi theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị
Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
-

Luận văn hướng tới làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp luật về xây

dựng cơ bản, tạo tiền đề quan trọng cho hoàn thiện khung pháp luật về xây
dựng cơ bản góp phần tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đúng với
định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, góp phần hoàn
thiện cơ chế, chính sách kinh tế vĩ mô, tạo hành lang pháp lý an toàn ổn định
thúc đẩy sự phát triển bền vững đưa ngành xây dựng cơ bản nước nhà nhanh
chóng tiến kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới.
-

Luận văn hoàn thành sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho các cơ


quan quản lý nhà nước về lĩnh vực xây dựng cơ bản, đặc biệt là các cơ quan

6


ban hành chính sách pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, và các trường cao
đẳng, đại học áp dụng, nghiên cứu ứng dụng trong công tác giảng dạy.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, thì nội dung
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện khung pháp luật về xây dựng
cơ bản ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng Khung pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện khung pháp luật về
xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT VỀ
XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM
1.1. Vị trí, vai trò của ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân
1.1.1. Khái niệm ngành xây dựng và các ngành trực tiếp có liên quan
Ngành xây dựng là một ngành cơ bản trong nền kinh tế quốc dân của mỗi
quốc gia. Ngành xây dựng còn được gọi là lĩnh vực đầu tư và xây dựng. Theo
nghĩa này thì ngành xây dựng được hiểu là toàn bộ các hoạt động liên quan đến
việc đầu tư và xây dựng các công trình như tư vấn đầu tư và xây dựng (lập dự

án, khảo sát, thiết kế, quản lý thực hiện dự án…), cung ứng vật tư, thiết bị xây
dựng; thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị vào công trình, các tổ chức tài chính
ngân hàng phục vụ xây dựng, các tổ chức nghiên cứu và đào tạo phục vụ xây
dựng, các cơ quan Nhà nước trực tiếp liên quan đến hoạt động xây dựng và các
tổ chức dịch vụ khác phục vụ xây dựng… [52, tr.7].
Lĩnh vực đầu tư mà ngành xây dựng quan tâm là lĩnh vực đầu tư được
thực hiện thông qua việc xây dựng công trình để vận hành, sinh lợi và không
bao gồm các lĩnh vực đầu tư khác như đầu tư tài chính, đầu tư không kèm theo
các giải pháp xây dựng công trình.
Trong nền kinh tế quốc dân, bên cạnh ngành xây dựng thì còn một số
ngành nghề khác trực tiếp có liên quan và đóng một số vai trò nhất định đối với
ngành xây dựng như ngành công nghiệp xây dựng, ngành công nghiệp vật liệu
xây dựng, ngành cơ khí xây dựng. Ngành công nghiệp xây dựng được hiểu là
ngành thực hiện các hoạt động thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị thuộc công
trình. Ngành công nghiệp xây dựng đóng vai trò là ngành kết thúc giai đoạn
cuối cùng tạo thành công trình xây dựng. Ngành công nghiệp xây dựng hiện
nay bao gồm tất cả các doanh nghiệp xây dựng và lắp máy thuộc quyền quản lý
của nhiều ngành, bộ, địa phương [50, tr.7].
8


Ngành công nghiệp vật liệu xây dựng là ngành sản xuất các vật liệu xây
dựng và cấu kiện xây dựng. Về bản chất, đây là ngành công nghiệp sản xuất
vật chất độc lập. Thông thường trong các doanh nghiệp xây dựng vẫn có các
hoạt động sản xuất kinh doạnh vật liệu xây dựng. Ngành cơ khí xây dựng là
ngành sản xuất các máy móc, thiết bị xây dựng để cung cấp cho ngành công
nghiệp xây dựng.
1.1.2. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng và các chủ thể tham gia vào quá
trình hình thành công trình xây dựng
Ngành xây dựng tạo ra sản phẩm cuối cùng được gọi là sản phẩm xây

dựng và sản phẩm xây dựng có những đặc điểm riêng, khác với sản phẩm của
các ngành nghề khác trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.2.1. Khái niệm về sản phẩm xây dựng
Theo nghĩa rộng, sản phẩm xây dựng với tư cách là công trình xây dựng
đã hoàn chỉnh là tổng hợp và kết tinh sản phẩm của nhiều ngành sản xuất khác
như các ngành chế tạo máy, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, ngành năng
lượng, hóa chất, luyện kim… và cuối cùng là của ngành xây dựng đóng vai trò
tổ chức cấu tạo công trình ở khâu cuối cùng để đưa vào hoạt động.
Sản phẩm trực tiếp của ngành công nghiệp xây dựng chỉ bao gồm phần
kiến tạo các kết cấu xây dựng làm chức năng nâng đỡ, bao che và phần lắp đặt
các thiết bị máy móc cần thiết vào công trình cât dựng để đưa chúng vào hoạt
động. Các sản phẩm xây dựng thường rất lớn và phải xây dựng trong thời gian
dài nên để phù hợp với công việc thanh quyết toán cần phân biệt sản phẩm
trung gian và sản phẩm cuối cùng của xây dựng. Sản phẩm trung gian có thể là
công việc xây dựng, các giai đoạn, các đợt xây dựng đã hoàn thành và bàn
giao. Sản phẩm cuối cùng là các công trình hay hạng mục công trình xây dựng
đã hoàn chỉnh và có thể bàn giao đưa vào sử dụng. [57,tr.12]
1.1.2.2. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng
Sản phẩm xây dựng với tư cách là công trình xây dựng có rất nhiều đặc
điểm riêng biệt khác với các sản phẩm của ngành sản xuất khác.
9


Sản phẩm xây dựng bao gồm các đặc điểm:
Thứ nhất, sản phẩm xây dựng có tính lưu động và thiếu ổn định. Điều này
có thể được lý giải bởi sản phẩm xây dựng là công trình, nhà cửa được xây
dựng và sử dụng tại chỗ nhưng lại phân bố tản mạn khắp các vùng lãnh thổ.
Thứ hai, sản phẩm xây dựng có kích thước lớn, thời gian xây dựng và sử
dụng lâu dài; trong quá trình hình thành nên sản phẩm xây dựng đòi hỏi nhu
cầu về vốn, lao động, vật tư, máy móc, thiết bị thi công rất lớn. Do đó, các chủ

thể tham gia vào quá trình tạo nên sản phẩm phải tránh những sai sót, giảm
thiểu lãng phí.
Thứ ba, sản phẩm xây dựng đa dạng, phức tạp, có tính cá biệt cao về công
dụng, về chế tạo.
Thứ tư, sản phẩm xây dựng có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lực lượng
khác nhau cùng hợp thành. Vì vậy, việc quản lý đầu tư xây dựng rất phức tạp.
Thứ năm, sản phẩm xây dựng ảnh hưởng và tác động lớn đến kiến trúc
cảnh quan, môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và do đó liên quan rất nhiều
đến lợi ích của công đồng dân cư địa phương nơi xây dựng công trình. Ví dụ,
khi xây dựng một nhà máy thủy điện tại một địa phương, việc xây dựng, vận
hành nhà máy thủy điện sẽ có tác động tới nguồn lợi đất và hệ sinh thái trên
đất; tác động đến thế giới động vật do hồ chứa nước của các công trình thủy
điện chiếm dịch tích lớn mất đi hệ quần thể thực vật vốn là thức ăn nuôi sống
động vật; tác động đến người dân sinh sống từ trước ở khu vực hồ nước như
phải di chuyển nơi sinh sống đến khu tái định cư mới…
Thứ sáu, sản phẩm xây dựng mang tính chất tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế,
xã hội, văn hóa, nghệ thuật và quốc phòng.
1.1.3. Vai trò của ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân
Nhìn chung, mỗi ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân đều có một sứ
mệnh cụ thể và đóng góp lợi ích nhất định trong việc hình thành, duy trì và
10


phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia. Trong đó, ngành xây dựng được coi là
một ngành có vai trò đặc biệt quan trọng, điều này được thể hiện ở một số điểm
sau đây:
Thứ nhất, ngành xây dựng là một trong những ngành kinh tế lớn (ngành cấp
1) của nền kinh tế, đóng vai trò chủ chốt ở khâu cuối cùng tạo nên cơ sở vật chất,
kỹ thuật và tài sản cố định cho mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội dưới mọi hình
thức. Nhìn vào diện mạo đô thị Việt Nam ngày nay thì có thể thấy phần nào vị trí

quan trọng và sức lớn mạnh của ngành xây dựng để khẳng định vị trí của một
ngành kinh tế mũi nhọn trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Theo sự đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì ngành xây dựng ở nước ta là một
ngành có khả năng dẫn dắt nền kinh tế và đem lại nguồn thu nhập quốc dân rất
lớn. Ngoài ra, với sự phát triển của ngành xây dựng thì mạng lưới đô thị quốc gia
được sắp xếp lại, mở rộng và phát triển trên cả nước, góp phần quan trọng tạo
động lực phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực nông
thôn và đô thị. Ngành xây dựng cũng huy động mọi nguồn vốn đầu tư, phát triển
để xây dựng nhà ở… đáp ứng nhu cầu của xã hội. [50, tr.10]

Thứ hai, ngành xây dựng trực tiếp góp phần thay đổi các mối quan hệ phát
triển giữa các ngành kinh tế như: quan hệ giữa phát triển công nghiệp với nông
nghiệp, quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa giáo dục và các
mối quan hệ khác. Về mặt kinh tế các công trình được xây dựng lên là thể hiện
cụ thể đường lối phát triển kinh tế của nền kinh tế quốc dân, góp phần tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho đất nước, làm thay đổi cơ cấu của nền kinh
tế quốc dân, đẩy mạnh tốc độ và nhịp điệu tăng năng xuất lao động xã hội và
phát triển của nền kinh tế quốc dân. Về mặt chính trị và xã hội các công trình
được xây dựng lên sẽ góp phần mở rộng các vùng công nghiệp và các khu đô
thị mới. Về mặt văn hóa và nghệ thuật các công trình được xây dựng lên ngoài
việc góp phần mở mang đời sống cho nhân dân, đồng thời còn làm phong phú
thêm cho nền nghệ thuật của đất nước.
11


1.2. Khái niệm và cấu trúc của khung pháp luật về Xây dựng cơ bản
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động đầu tư xây dựng - đối tượng
điều chỉnh của pháp luật về xây dựng cơ bản
a) Khái niệm đầu tư xây dựng
Xét về nghĩa chung nhất, đầu tư được hiểu là sự sử dụng các nguồn lực

hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định
trong tương lai. Nguồn lực được sử dụng có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên,
sức lao động và trí tuệ và thu được các kết quả có thể là sự tăng thêm các tài
sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực.
Căn cứ vào bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, đầu tư được
phân biệt thành các loại như sau:
Thứ nhất, đầu tư tài chính. Đây là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ
tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất trước (gửi tiết
kiệm, mua trái phiếu...). Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh
tế, chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư.
Thứ hai, đầu tư thương mại. Đây là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ
tiền ra để mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận cho
chênh lệch giá khi mua và bán. Giống như đầu tư tài chính, đầu tư thương mại
không tạo ra tài sản mới cho nên kinh tế mà chỉ tăng tài chính của người đầu tư
trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người
bán với người đầu tư, giữa người đầu tư với khách hàng.
Thứ ba, đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển là việc chỉ dùng vốn trong
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài
sản vật chất (nhà máy, thiết bị, công trình...) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ
năng...), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát
triển. Tùy theo nội dung tiếp cận mà hoạt động này sẽ bao gồm nhiều nội dung
khác nhau. Căn cứ vào lĩnh vực phát huy tác dụng, nội dung đầu tư phát triển
bao gồm: đầu tư phát triển sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng- kỹ
12


thuật chung của nền kinh tế, đầu tư phát triển văn hoá giáo dục, y tế và dịch vụ
xã hội khác, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và những nội dung khác.
Theo khái niệm, nội dung đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư phát triển những
tài sản vật chất, đầu tư phát triển những tài sản vô hình. Đầu tư phát triển tài sản

vật chất bao gồm: đầu tư tài sản cố định (đầu tư xây dựng) và đầu tư vào hàng tồn
trữ. Đầu tư phát triển tài sản vô hình bao gồm: đầu tư nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, đầu tư nghiên cứu các hoạt động khoa học, kỹ thuật...

Như vậy, có thể thấy đầu tư xây dựng là một nội dung của đầu tư phát
triển, là hoạt động nhằm tái tạo tài sản cố định.
Từ những phân tích nêu trên, có thể rút ra khái niệm về đầu tư xây dựng
như sau: Đầu tư xây dựng được hiểu là việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng
hoặc cải tạo những công trình xây dựng nhằm mục đích phát triển, duy trì,
nâng cao chất lượng công trình hoặc sản phẩm, dịch vụ trong một thời hạn
nhất định.
b) Đặc điểm của đầu tư xây dựng
Có thể dễ nhận thấy đầu tư xây dựng tạo ra những sản phẩm như nhà ở,
đường, trường học, bệnh viện, trụ sở cơ quan... nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản
của xã hội nên việc tạo ra những sản phẩm có hiệu quả có ý nghĩa về mặt kinh
tế và mặt xã hội. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với nước ta, một nước đang
phát triển. Đầu tư xây dựng mang nhiều đặc tính của cả công nghiệp sản xuất
và công nghiệp dịch vụ. Giống với các ngành sản xuất khác, nó cũng có các
sản phẩm vật chất, các sản phẩm này có kích thước, giá thành và sự phức tạp
đa dạng. Mặt khác, đầu tư xây dựng lại mang đặc điểm của một ngành công
nghiệp dịch vụ vì đầu tư xây dựng không tích luỹ một lượng vốn đáng kể so
với các ngành công nghiệp sản xuất khác như thép, dầu khí...; sự thành công
hay thất bại của một doanh nghiệp xây dựng phụ thuộc vào phẩm chất, năng
lực của con người nhiều hơn là vào kỹ thuật.
Một số đặc điểm chủ yếu của đầu tư xây dựng:
13


Thứ nhất, đầu tư xây dựng gắn liền với đất đai và phải phù hợp với quy
hoạch xây dựng

Theo Khoản 2 Điều 3 Luật xây dựng năm 2003, “Công trình xây dựng là
sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con người, vật liệu xây dựng,
thiết bị lắp đặt vào công trình, được liên kết định vị với đất….” nên sản phẩm
xây dựng là yếu tố luôn gắn liền với đất đai và muốn đầu tư xây dựng thì trước
tiên phải có đất đai.
Đối với công trình xây dựng, điều cốt yếu là lựa chọn vị trí khu đất xây
dựng công trình, rồi sau mới đến việc thiết kế phương án kiến trúc, thiết kế xây
dựng cho phù hợp với vị trí và cảnh quan khu vực xung quanh khu đất.
Bên cạnh đó, trong các nội dung của đầu tư phát triển, chỉ có đầu tư xây
dựng là gắn với quy hoạch xây dựng, quy hoạch xây dựng phải đi trước một
bước, là tiền đề cho đầu tư xây dựng. Việc đầu tư xây dựng phải phù hợp với
quy hoạch xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Mặt
khác, hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng phụ thuộc vào chất lượng công tác
quy hoạch.
Quy hoạch xây dựng là cơ sở cho việc triển khai các hoạt động đầu tư xây
dựng, kiểm soát quá trình phát triển đô thị và các khu chức năng, bảo đảm trật
tự, kỷ cương trong hoạt động xây dựng, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường. Quy hoạch xây dựng là căn cứ
cho việc hình thành các dự án và là cơ sở để quản lý đầu tư xây dựng và quản
lý trật tự xây dựng.
Nếu không có quy hoạch xây dựng thì việc đầu tư xây dựng sẽ không có
trọng tâm, trọng điểm hoặc gây ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng xấu đến môi
trường nói chung, dẫn đến mất cân bằng sinh thái, thiếu sự hài hoà trong việc
tổ chức không gian và sự đồng bộ trong việc kết nối các công trình hạ tầng kỹ
thuật ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế - xã hội. Quy hoạch xây dựng tạo ra
động lực phát triển bền vững của vùng, miền; kiểm soát được quá
14


trình đầu tư xây dựng công trình; là căn cứ để xử lý, giải quyết tranh chấp
trong hoạt động xây dựng; kiểm soát sự phát triển đô thị, xã hội, môi trường,

hạ tầng kỹ thuật đồng bộ.
Trong trường hợp dự án không có trong quy hoạch ngành được cấp có
thẩm quyền phê duyệt thì nhà đầu tư phải báo cáo Bộ quản lý ngành hoặc địa
phương theo phân cấp để xem xét, chấp thuận bổ sung quy hoạch theo thẩm
quyền hoặc trình Thủ tướng chính phủ chấp thuận bổ sung quy hoạch trước khi
lập dự án đầu tư xây dựng công trình. Vị trí, quy mô xây dựng công trình parhi
phù hợp với quy hoạch xây dựng được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Trường
hợp dự án chưa có trong quy hoặc xây dựng thì vị trí, quy mô xây dựng phải
được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận bằng văn bản đối với các dự án
nhóm A hoặc có ý kiến chấp thuận bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền
phê duyệt về quy hoạch đối với những dự án nhóm B, C. Thời gian xem xét,
chấp thuận về quy hoạch ngành hoặc quy hoạch xây dựng không quá 15 ngày
làm việc.
Thứ hai, kết quả của hoạt động đầu tư xây dựng được hình thành trong tương
lai và phụ thuộc rất nhiều vào nhà thầu tham gia quá trình đầu tư xây dựng Có
thể khẳng định rằng, việc tìm ra người làm ra sản phẩm xây dựng là mối quan
tâm đầu tiên của chủ đầu tư mà không phải là sản phẩm xây dựng. Điều này
được lí giải vì không phải tất cả các chủ đầu tư đều am hiểu về sản phẩm xây
dựng để đưa ra yêu cầu cho nhà thầu thực hiện. Vì thế, chủ thể tham gia vào
lĩnh vực đầu tư xây dựng bao gồm rất nhiều bên như các công ty tư vấn thực
hiện các công việc thăm dò, khảo sát địa chất, quy hoạch, thiết kế, giám sát,
quản lý dự án...; các nhà thầu thi công xây dựng nhằm giúp chủ đầu tư hoàn
thành sản phẩm xây dựng trong khuôn khổ vốn đầu tư và thời gian đã
được xác định trước theo tiến độ thực hiện dự án.
Tuỳ thuộc vào mức độ chuyên ngành và quy mô tổ chức của đơn vị xây
dựng, quá trình xây dựng có thể được chia thành các công đoạn khác nhau
15


mang tính chuyên môn hoá. Do vậy, tham gia vào quá trình đầu tư xây dựng là

một tổ hợp các đơn vị chuyên ngành khác nhau, bao gồm các công ty là nhà
thầu chính, nhà thầu phụ, các tổ chức cung cấp nguyên vật liệu, máy móc, thiết
bị và phương pháp quản lý. Kết quả của các hoạt động sản xuất phối hợp này
chính là thành phẩm xây dựng các ngôi nhà, các công trình...
Thứ ba, quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư
xây dựng thường rất lớn
Vốn đầu tư cho hoạt động đầu tư xây dựng lớn nằm khê đọng lâu trong
suốt quá trình thực hiện dự án. Ví dụ như một công ty A cần một số vốn
khoảng 250 - 300 triệu USD để xây dựng nhà máy xi măng mới, thời gian xây
dựng dự kiến 5 năm. Quy mô vốn đầu tư lớn nên đòi hỏi chủ đầu tư phải có
giải pháp huy động vốn hợp lý, xây dựng kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý
tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ thực hiện dự án. Lao động cần sử dụng
cho các dự án rất lớn, đặc biệt là đối với những dự án quan trọng quốc gia. Vì
vậy, việc tuyển dụng, đào tạo, sử dụng lao động cần có kế hoạch trước để thực
hiện sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ thực hiện
dự án, đồng thời hạn chế tới mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực sau khi
dự án hoàn thành như: việc bố trí lại lao động, giải quyết lao động dôi dư...
Thứ tư, thời kỳ đầu tư và thời gian vận hành kết quả đầu tư xây dựng kéo dài Thời
kỳ đầu tư được tính từ khi dự án được phê duyệt đến khi dự án hoàn thành, đưa
vào khai thác, sử dụng. Mỗi dự án đều có điểm khởi đầu và điểm kết thúc rõ ràng
và thường có một tiến độ thực hiện cụ thể. Ngày hoàn thành dự án trở thành điểm
đánh giá bằng khả năng có đạt được đúng thời điểm kết thúc đã được định trước
(tức ngày hoàn thành) hay không? Nhiều công trình xây dựng có thời gian đầu tư
kéo dài hàng chục năm. Do vậy, để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, cần tiến hành
phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung hoàn thành dứt điểm từng
công trình, quản lý chặt chẽ tiến độ thực hiện dự án,

khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng.
16



Một dự án có thể tiến hành phân kỳ đầu tư cho các giai đoạn khác nhau
của dự án. Vì mỗi giai đoạn là một khoảng thời gian không quá dài, đủ để cho
người ta có thể tiên liệu được những diễn biến bất trắc có thể xảy ra, từ đó sẽ
đưa ra những phương án dự phòng đối phó cho mỗi tình huống cần thiết. Nếu
ở một giai đoạn nào đó, thời gian hoàn thành phải kéo dài vượt quá số ngày đã
dự định, thì quỹ thời gian dự phòng của dự án vẫn có thể khắc phục để duy trì
sự quản lý những thay đổi cần thiết nhằm đạt được hạn định của giai đoạn tiếp
theo. Những trường hợp đặc biệt này thường được áp dụng cho các dự án lớn,
thời gian kéo dài.
Việc phân bố các công việc hay nhóm các công việc theo kỳ hạn (giai
đoạn) xuyên suốt dự án cho phép chủ đầu tư có thể tập trung vào giải quyết các
vấn đề ở mỗi kỳ hạn, chứ không phải tập trung vào giải quyết các vấn đề
ở cuối cùng của dự án. Vì mỗi một giai đoạn là một mắt xích không thể tách
rời của dự án và liên quan chặt chẽ với nhau để dẫn tới thời điểm ngày hoàn
thành đúng hạn của dự án.
Thời gian vận hành kết quả đầu tư xây dựng tính từ khi đưa công trình
vào khai thác, sử dụng cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải công trình.
Nhiều thành quả đầu tư phát huy tác dụng lâu dài như: Các Kim Tự Tháp Ai
Cập, Nhà thờ La Mã ở Rôm, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc...
Trong suốt quá trình vận hành, các thành quả đầu tư xây dựng chịu sự tác động
cả hai mặt, tích cực và tiêu cực, của nhiều yếu tố tự nhiên, xã hội... Để thích
ứng với đặc điểm này, công tác quản lý hoạt động đầu tư xây dựng cần chú ý
một số vấn đề như: i) cơ chế và phương pháp dự báo, dự báo khoa học về nhu
cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư tương lai, dự kiến khả năng cung từng
năm và toàn bộ vòng đời dự án ; ii) quản lý tốt quá trình vận hành, nhanh
chóng đưa công trình xây dựng vào khai thác, sử dụng, hoạt động tối đa công
suất để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh hao mòn vô hình, iii) chú ý đúng mức
đến độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư trong năm nhưng thành
17



quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm đó mà từ những năm
sau và kéo dài trong nhiều năm. Đây là đặc điểm rất riêng của lĩnh vực đầu tư xây
dựng, ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư xây dựng.

Thứ năm, các thành quả của hoạt động đầu tư xây dựng là các công trình
xây dựng, là sản phẩm đơn chiếc, thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó
được xây dựng nên, do đó quá trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ vận
hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên, kinh
tế, xã hội
Tính chất của sản phẩm xây dựng có tính đặc thù đơn chiếc, mỗi công
trình chỉ được hình thành duy nhất một lần, tại một thời điểm nhất định, với
một kinh phí riêng, mặc dù có cùng một kiểu dáng thiết kế, có thể coi sản
phẩm xây dựng là một kiểu “hàng thửa”. Mỗi công trình được xây dựng trong
những điều kiện khác biệt nhau cả về địa điểm, không gian, thời gian..., đồng
thời, môi trường luôn thay đổi đã tạo nên tính duy nhất cho mỗi sản phẩm xây
dựng. Có thể có hai toà nhà giống hệt nhau về thiết kế, kiến trúc, màu sắc...
nhưng không thể coi hai sản phẩm này như một và có cùng giá trị. Sản phẩm
xây dựng không giống với những sản phẩm hàng hoá được sản xuất hàng loạt
khác như: điều hoà, tủ lạnh, ti vi... chính bởi những yếu tố làm nên sự khác biệt
của nó.
Công trình xây dựng được liên kết định vị với đất, có tác động lâu dài đến
môi trường, cảnh quan và xã hội, do vậy, không thể dễ dàng thay thế cũng như
di chuyển từ nơi này đến nơi khác, nên công tác quản lý đầu tư xây dựng cần
chú ý đến 2 vấn đề bao gồm: i) chủ trương đầu tư và quyết định; ii) lựa chọn
địa điểm đầu tư hợp lý.
Thứ sáu, đầu tư xây dựng có độ rủi ro cao
Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài, thời gian vận hành kết
quả đầu tư xây dựng cũng kéo dài... nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư

xây dựng thường cao. Rủi ro đầu tư xây dựng do nhiều nguyên nhân, nguyên
18


nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Về nguyên nhân chủ quan là các
nguyên nhân xuất phát từ phía nhà đầu tư như: quản lý kém, chất lượng sản
phẩm không đạt yêu cầu... Nguyên nhân khách quan như giá nguyên vật liệu
đầu vào tăng, nhà nước ban hành những chính sách mới làm thay đổi mặt bằng
giá đầu tư xây dựng, xuất hiện những yếu tố bất khả kháng như (hỏa hoạn, lũ,
lốc...), quy hoạch xây dựng thay đổi, giá bán sản phẩm giảm... Như vậy, để
quản lý hoạt động đầu tư xây dựng hiệu quả, cần thực hiện tốt các biện pháp
quản lý rủi ro bao gồm: nhận diện rủi ro, đánh giá mức độ rủi ro, xây dựng các
biện pháp phòng, chống rủi ro. [57,tr.21]
1.2.2. Vai trò và quá trình hình thành cơ chế quản lý đầu tư xây dựng
1.2.2.1. Vai trò của cơ chế quản lý đầu tư xây dựng


mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, mỗi quốc gia đều phải xây dựng cơ

chế quản lý đầu tư xây dựng để đảm bảo hoạt động đầu tư xây dựng hiệu quả,
chất lượng, tiến bộ. Điều này xuất phát từ vai trò rất lớn của cơ chế quản lý
đầu tư xây dựng đối với hoạt động này. Vai trò của cơ chế quản lý đầu tư xây
dựng được thể hiện ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, cơ chế quản lý đầu tư xây dựng góp phần quan trọng để hoạt
động đầu tư xây dựng đúng hướng, có hiệu quả
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết trong một lá thư gửi các đại biểu tham
dự Hội nghị Kiến trúc sư họp tại chiến khu Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp (tháng 4/1948) như sau: “Trong bốn điều quan trọng cho
dân sinh: ở và đi lại cũng cần thiết như ăn và mặc”. Có thể thấy trong tư tưởng
của Người, cuộc sống hạnh phúc của mỗi con người gắn với nhu cầu phát triển

của công cuộc xây dựng. Một mái nhà, một ngôi làng hay một đô thị, sức mạnh
của một quốc gia... đều thể hiện bằng những thành tựu của công cuộc đầu tư
xây dựng cơ bản.
Hoạt động đầu tư xây dựng có vai trò rất quan trọng và có tính chủ đạo trong
việc phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội của đất nước nhằm thúc đẩy

19


sự phát triển, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà Đảng và
Nhà nước đặt ra.
Ngoài ra, quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của các ngành kinh tế
khác gắn liền với sự hình thành, tồn tại, phát triển của hoạt động đầu tư xây
dựng. Khởi đầu của mỗi một ngành kinh tế là sự đầu tư vào cơ sở hạ tầng, xây
dựng trụ sở, nhà xưởng, kho, cảng, bến bãi... Các ngành kinh tế muốn tồn tại
và phát triển được cũng phải gắn với việc đầu tư sửa chữa, bảo hành, bảo trì,
xây dựng mới các công trình xây dựng là cơ sở vật chất bảo đảm cho hoạt động
của các ngành kinh tế.
Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng góp phần tạo ra những thành tựu trong
hoạt động đầu tư xây dựng. Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng có vị trí đặc biệt
quan trọng trong quản lý nhà nước, mà nếu không có nó thì nhà nước không
thể quản lý được hoạt động đầu tư xây dựng có hiệu quả. Do vậy, quản lý đầu
tư xây dựng phải dựa trên cơ chế quản lý đầu tư xây dựng. Cơ chế quản lý đầu
tư xây dựng góp phần quan trọng để hoạt động đầu tư xây dựng đúng hướng và
có hiệu quả, bảo đảm ổn định, trật tự trong lĩnh vực đầu tư xây dựng.
Thứ hai, cơ chế quản lý đầu tư xây dựng góp phần quan trọng trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, lành mạnh hoá môi trường đầu tư
Cùng với xu thế chung của thời đại, lĩnh vực đầu tư xây dựng đã đi vào
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở cả phạm vi khu vực và thế giới trên nhiều
mặt công nghệ, thể chế và con người từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ

20. Hội nhập công nghệ trong lĩnh vực đầu tư xây dựng bao gồm việc tiếp thu
và sử dụng kỹ thuật, vật liệu và máy móc hiện đại. Hội nhập thể chế trong lĩnh
vực đầu tư xây dựng tập trung vào việc quản lý các dự án đầu tư xây dựng
thuộc mọi thành phần kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường. Hội nhập về con
người là nhằm đào tạo nguồn nhân lực có đủ trình độ, năng lực làm chủ công
nghệ mới, công nghệ hiện đại.
Việc tăng cường hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư xây dựng được
coi trọng. Trong những năm 1991-1996 đã mở rộng được quan hệ với nhiều nước,

20


×