Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

Hợp đồng nhượng quyền thương mại trong pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (529.03 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐÀO ĐẶNG THU HƯỜNG

HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI- NĂM 2007
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


ĐÀO ĐẶNG THU HƯỜNG

HỢP ĐỒNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM DUY NGHĨA

HÀ NỘI- NĂM 2007

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Mở đầu
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI
1.1
1.1.1
1.1.2

VÀ HỢP ĐỒNG
Khái niệm chung về nh
Định nghĩa
Đặc điểm

1.1.3

Những ưu điểm, vai trò,
nhượng quyền thương m

1.1.4

Phân biệt NQTM với cá

1.1.4.1

Hình thức kinh doanh đ


1.1.4.2

Hình thức kinh doanh p

1.1.4.3

Chuyển giao công nghệ

1.1.4.4

Cấp quyền sử dụng nhãn

1.1.5

Một số loại hình NQTM

1.1.6

Các loại hình NQTM th

1.2

Hợp đồng nhƣợng quy

1.2.1

Đặc điểm

1.2.2


Vai trò, ý nghĩa của hợp

CHƢƠNG 2: CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG

NHƢỢNG QUYỀ
2.1

Chủ thể của hợp đồng

2.1.1

Bên nhượng quyền

2.1.1.1

Tư cách pháp lý

2.1.1.2

Trách nhiệm cung cấp th

2.1.2

Bên nhận quyền


2.1.2.1

Tư cách pháp lý


2.1.2.2

Trách nhiệm cung cấp thông

2.2

Đối tƣợng của hợp đồng n

2.2.1

Khái niệm

2.2.2

Nội dung các quyền thương

2.3

Nội dung của hợp đồng nh

2.3.1

Định nghĩa về các thuật ngữ

2.3.2

Nội dung, phạm vi các quyề
nhượng quyền

2.3.3


Chất lượng hàng hoá, dịch v

2.3.4

Quyền và nghĩa vụ của các

2.3.5

Giá cả, phí nhượng quyền đ

2.3.6

Ngôn ngữ hợp đồng và luật

2.3.7

Một số điều cần lưu ý trong

2.4

Hình thức hợp đồng nhƣợ

2.5

Vấn đề sở hữu trí tuệ tron

2.6

Đăng ký hoạt động nhƣợn


CHƢƠNG 3: MỘT SỐ VƢỚNG MẮC TRONG GIAO KẾT, THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG NH
VÀ KIẾN NGHỊ GIẢI
3.1

Giao kết hợp đồng nhƣợn

3.1.1

Đề nghị giao kết

3.1.2

Tư vấn trước khi giao kết hợ

3.1.3

Chấp nhận đề nghị giao kết

3.2

Thực hiện hợp đồng nhƣợ

3.3

Chuyển giao quyền thƣơn

3.4


Hợp đồng nhƣợng quyền


3.5

Chấm dứt hợp đồng nhƣợng quyền t

3.6

Một số vƣớng mắc trong quá trình gi
đồng nhƣợng quyền thƣơng mại

3.7

Kiến nghị

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

NQTM
DN
BLDS


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Franchise, tạm dịch là nhƣợng quyền thƣơng mại (NQTM) là một phƣơng

thức kinh doanh có mặt ở mọi khu vực trên thế giới và đã chứng tỏ đƣợc sự thành
công của nó. Phƣơng thức này đƣợc coi là khởi nguồn tại Mỹ vào giữa thế kỷ 19.
Hiện nay, hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại đã có mặt tại hơn 160 nƣớc trên thế
giới với doanh thu ngày càng tăng. Doanh thu từ hoạt động NQTM trên thế giới
năm 2000 là khoảng 1.000 tỷ USD với khoảng 320.000 doanh nghiệp từ 75 ngành
khác nhau. Tại Mỹ, năm 1994 tổng doanh số bán lẻ từ các cửa hàng nhƣợng quyền
thƣơng mại là 35%, đến năm 2000, tỷ lệ này tăng lên 40%, thu hút đƣợc trên 8 triệu
ngƣời lao động trong khu vực này và bình quân cứ 12 phút lại có một franchise ra
đời. Thậm chí. 12 trên 52 tiểu bang của nƣớc Mỹ đã có luật bắt buộc bất kỳ công ty
nào muốn tham gia vào thị trƣờng chứng khoán đều phải có đăng ký nhƣợng
quyền. Điều này nói lên tính phổ biến và xác suất thành công cao của mô hình kinh
doanh nhƣợng quyền thƣơng mại đem lại đối với doanh nghiệp Mỹ nói riêng hay
cả một nền kinh tế nói chung.
Nhƣợng quyền thƣơng mại là phƣơng thức kinh doanh có lợi cho cả hai bên.
Đối với bên nhƣợng quyền, doanh nghiệp có thể mở rộng mô hình kinh doanh, tăng
doanh thu, tiết giảm chi phí, tăng nhanh uy tín, thƣơng hiệu. Đối với bên nhận
nhƣợng quyền, số vốn đầu tƣ bỏ ra ban đầu thấp lại có thể thu hồi và sinh lợi nhanh
vì đầu tƣ an toàn và có khách hàng ngay; dễ vay tiền ngân hàng, đƣợc chủ thƣơng
hiệu giúp đỡ trong quá trình kinh doanh …
Thấy đƣợc tầm quan trọng và xu thế của thế giới, Chính phủ nhiều nƣớc trong
khu vực Đông Nam Á đã có nhiều chính sách và chiến lƣợc rất cụ thể để giúp đỡ và
khuyến khích mô hình NQTM phát triển tốt nhất.
Kết quả thực tiễn tại nhiều nƣớc trên thế giới chứng minh franchise đã và đang
đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của cả một nền kinh tế. Đối với Việt

1


Nam, thông qua hình thức franchise, bí quyết kinh doanh của những doanh nghiệp
thành công sẽ đƣợc chuyển giao và nhân rộng cho nhiều doanh nghiệp khác và nhƣ

thế sẽ hạn chế nhiều thiệt hại, rủi ro cho nền kinh tế nói chung.
Khái niệm về nhƣợng quyền thƣơng mại – Franchise còn khá mới mẻ đối với
doanh nghiệp Việt Nam cũng nhƣ các nhà làm luật. Theo Điều tra của Hội đồng
nhƣợng quyền thƣơng mại thế giới (World Franchise Council), vào năm 2004 thì
Việt Nam chỉ có 70 hệ thống franchising, trong đó đa số là các thƣơng hiệu nƣớc
ngoài nhƣ Dilma, Swatch, Qualitea, KFC, Lotteria… Một số doanh nghiệp Việt
Nam áp dụng franchise thành công, điển hình là việc chuyển nhƣợng thƣơng hiệu
cà phê Trung Nguyên, Công ty bánh ngọt Kinh Đô,và gần đây nhất là thƣơng hiệu
Phở 24; những thƣơng hiệu này đã mở rộng ra nƣớc ngoài và có thể sẽ mở rộng ra
nhiều nƣớc khác.
Thực tế có rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam quan tâm đến mô hình này, đặc
biệt là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực đầu hàng Việt Nam chất lƣợng cao, nhƣng
cũng có nhiều doanh nghiệp chƣa có cái nhìn sâu rộng về khái niệm NQTM. Trong
tƣơng lai, Việt Nam hoàn toàn có thể áp dụng phƣơng thức kinh doanh này nhƣ là
một quy luật tự nhiên của quá trình mở cửa và đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị
trƣờng cũng nhƣ có thể phát triển nó một cách bài bản và đúng hƣớng để phục vụ
mục đích tăng trƣởng kinh tế và tối ƣu hoá hiệu quả hoạt động thƣơng mại trong
tƣơng lai. Và chắc chắn khi đó Việt Nam sẽ cần một hành lang pháp lý rõ ràng và
đầy đủ hơn để phƣơng thức kinh doanh nhƣợng quyền thƣơng mại có thể đƣợc áp
dụng phổ biến hơn, theo hƣớng có lợi cho cả nền kinh tế.
Để bắt đầu mối quan hệ nhƣợng quyền thƣơng mại, các bên phải ký kết hợp
đồng nhƣợng quyền thƣơng mại và đăng ký với cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền.
Hợp đồng đƣợc coi là một công cụ quan trọng, cơ bản trong kinh doanh, vì hợp
đồng quy định các quyền, nghĩa vụ giữa các bên, ảnh hƣởng trực tiếp và quyết định
hiệu quả hoạt động kinh doanh của các bên. Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên,
trong hệ thống pháp luật Việt Nam có quy định khá chặt chẽ các loại hợp đồng.

2



Hiện nay, trong hệ thống pháp luật Việt Nam đã có những quy định khá đầy đủ
về hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại. Đó là Luật Thƣơng mại 2005, quy định
tại chƣơng 8 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành. Tuy vậy, đây là phƣơng thức kinh
doanh khá mới mẻ do vậy việc áp dụng các quy định pháp luật trong hoạt động
nhƣợng quyền thƣơng mại còn rất nhiều bỡ ngỡ đối với các doanh nghiệp.
Vì những lý do kể trên, tôi đã chọn đề tài “ Hợp đồng những quyền thƣơng
mại trong pháp luật Việt Nam” để nghiên cứu. Vì hợp đồng NQTM là cơ sở pháp lý
đầu tiên để các bên tiến hành hoạt động kinh doanh, thực hiện các quyền, nghĩa vụ
của mình và cũng là cơ sở để bảo vệ quyền lợi của mình nếu có phát sinh tranh
chấp.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến hoạt động NQTM đã có rất nhiều các bài báo đƣợc đăng tải
rộng rãi trên các phƣơng tiện báo chí, Internet…. trong đó đáng kể đến là cuốn sách
của Tiến sĩ Lý Quý Trung với nhan đề “ Franchise- bí quyết thành công bằng mô
hình nhƣợng quyền kinh doanh” xuất bản năm 2005; bài viết “Nhƣợng quyền kinh
doanh ở Việt Nam” của Trần Ngọc Sơn- Văn phòng luật sƣ Phạm và Liên danh
đang trên trang Web của Luật sƣ Hà Nội; Bài viết “Franchise với doanh nghiệp Việt
Nam” của Phạm Thị Thu Hà đăng trên tạp chí IP Law & Practice số 03 năm 2005 .
Tuy nhiên, các bài viết kể trên chủ yếu đề cập đến NQTM ở khía cạnh kinh doanh
mà chƣa có nghiên cứu về hợp đồng NQTM ở khía cạnh pháp lý. Các bài báo cũng
chỉ nói về NQTM nhƣ một phƣơng thức đƣa tin mà chƣa có một công trình nghiên
cứu sâu đƣợc công bố cụ thể. Cho đến nay cũng chƣa có một công trình nghiên cứu
nào về hợp đồng NQTM.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích: Qua bài nghiên cứu này, tác giả muốn tìm hiểu và nêu ra một số vấn đề
pháp lý về hợp đồng NQTM, qua đó góp phần giúp các doanh nghiệp Việt Nam có
cách hiểu sâu, rộng hơn về hợp đồng NQTM, các quy định pháp luật về hợp đồng
NQTM để từ đó tìm ra cách áp dụng phù hợp nhất, bảo vệ đƣợc lợi ích hợp pháp

3



cho doanh nghiệp mình. Đồng thời, qua quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ đƣa ra kiến
nghị để hoàn thiện hơn cơ sở pháp lý cho hợp đồng NQTM, nhằm thúc đẩy hoạt
động NQTM phát triển mạnh mẽ, góp phần phát triển kinh tế- xã hội của đất nƣớc.
- Đối tƣợng nghiên cứu: Các vấn đề liên quan đến hợp đồng NQTM trong pháp luật

Việt Nam
Cụ thể: Chủ thể hợp đồng NQTM, các quy định pháp luật về điều kiện để thực hiện
NQTM, cách thức ký kết hợp đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, thực hiện
hợp đồng, gia hạn hợp đồng, hợp đồng vô hiệu…
- Phạm vi nghiên cứu: Đi sâu vào phân tích cơ sở pháp lý của hợp đồng NQTM,

những ƣu điểm, hạn chế của nó đồng thời so sánh với các quy định về hợp đồng
NQTM của một số nƣớc trên thế giới áp dụng thành công mô hình đó, từ đó tìm
cách vận dụng vào Việt Nam .
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng tổng hợp nhiều phƣơng pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm nghiên
cứu tài liệu, xây dựng khái niệm, suy luận, sƣu tầm, tổng hợp, phân tích tài liệu…
Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm thống kê, so sánh kinh nghiệm quốc tế,
xây dựng mô hình.
5. Những đóng góp của luận văn
- Về mặt khoa học:
+ Nghiên cứu, đề xuất bổ sung những quy định pháp luật về hợp đồng NQTM trong

hệ thống pháp luật Việt Nam
+ Kiến nghị xây dựng các cơ sở pháp lý chặt chẽ hơn cho hợp đồng NQTM, giảm

thiểu rủi ro cho cả hai phía khi áp dụng.
- Về mặt thực tiễn:

+ Đáp ứng đƣợc nhu cầu tìm hiểu về mô hình NQTM, đặc biệt là chế định hợp đồng

NQTM trong pháp luật Việt Nam của các doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc. Điều

4


này cũng phù hợp với chủ trƣơng, chính sách phát triển kinh tế của nhà nƣớc ta:
phát huy nguồn nội lực, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; chủ động hội nhập
kinh tế- quốc tế, đƣa nền kinh tế phát triển vững chắc
+ Góp phần nhân rộng mô hình NQTM trên khắp lãnh thổ Việt Nam, phát huy đƣợc

lợi thế của mô hình này.
6. Bố cục của Luận văn
Phần I: Mở đầu
Giới thiệu đề tài tác giả sẽ viết, tình hình nghiên cứu, tính cấp thiết của đề tài, tính
khoa học của đề tài, mục đích, đối tƣợng, phạm vi, phƣơng pháp nghiên cứu, đóng
góp của luận văn.
Phần II: Nội dung
Bao gồm các chƣơng sau:
Chƣơng 1: Tổng quan về NQTM và hợp đồng NQTM
Chƣơng 2: Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng NQTM
Chƣơng 3: Giao kết và thực hiện hợp đồng NQTM - Một số vƣớng mắc và kiến
nghị giải quyết.
Phần III: Kết luận
Do trình độ hiểu biết còn hạn chế, tài liệu tham khảo không nhiều, đồng thời,
đây cũng là công trình nghiên cứu khoa học đầu tay, vậy nên, luận văn không thể
tránh khỏi những sai sót nhất định. Tác giả rất mong nhận đƣợc những ý kiến đóng
góp của các thầy cô và các độc giả.
Trân trọng cảm ơn!


5


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI
VÀ HỢP ĐỒNG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI
1.1. Khái niệm chung về nhƣợng quyền thƣơng mại
1.1.1. Định nghĩa.
Nhƣợng quyền thƣơng mại, tiếng anh là franchise, là khái niệm xuất hiện từ
giữa thế kỷ 19 tại Châu Âu. Franchise có nguồn gốc tiếng Pháp “franc” có nghĩa là
tự do, tiếng Anh là “free” [ 12; tr. 12]. Nhiều tài liệu tiếng Việt dịch “franchise” là
nhƣợng quyền kinh doanh hoặc nhƣợng quyền thƣơng mại, tức là cho phép ai đó
đƣợc bán hàng hoá hay dịch vụ của bên có quyền tại một khu vực cụ thể nào đó
mang thƣơng hiệu của bên có quyền. Một số tài liệu cho rằng “franchise” là một
đặc quyền đƣợc trao cho một ngƣời hoặc một nhóm ngƣời để phân phối hay bán
sản phẩm của chủ thƣơng hiệu dƣới sự kiểm soát của chủ thƣơng hiệu về cách thức
kinh doanh. Để thống nhất với Luật Thƣơng mại 2005, bài viết sẽ đề cập đến
“franchise” với nghĩa là nhƣợng quyền thƣơng mại.
Nhƣợng quyền Thƣơng mại là một phƣơng thức kinh doanh rất phổ biến trên
thế giới. Đã có nhiều tổ chức về NQTM nhƣ: Hiệp hội nhƣợng quyền thƣơng mại
quốc tế (The International Franchise Association - IFA), Hội đồng nhƣợng quyền
thƣơng mại thế giới (WFC), Uỷ ban thƣơng mại liên bang Hoa Kỳ (the US Federal
Trade Commission- FTC) … để hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Hoạt
động NQTM liên quan đến rất nhiều vấn đề, trong đó, hợp đồng NQTM chính là hạt
nhân quan trọng nhất để thiết lập mối quan hệ giữa các bên. Hầu nhƣ mọi quốc gia
đều có quy định pháp lý về hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại. Các công trình
nghiên cứu về hoạt động nhƣợng quyền thƣơng mại nói chung, về hợp đồng
thƣơng mại nói riêng cũng có khá nhiều và đã nêu ra đƣợc những vấn đề cơ bản
nhất cũng nhƣ cách thức để áp dụng NQTM có hiệu quả.


6


Đây là một hoạt động thƣơng mại đã thành công ở nhiều nƣớc trên thế giới và
ngày càng phát triển, lan rộng ra các nƣớc ở châu Á. Tuy vậy, khái niệm franchise
không có sự thống nhất do quan điểm chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau ở các
nƣớc trên thế giới. Do đó, có rất nhiều các cách hiểu khác nhau liên quan đến khái
niệm franchise mà Luật thƣơng mại năm 2005 gọi là nhƣợng quyền thƣơng mại.
Hiệp hội NQTM quốc tế, hiệp hội lớn nhất nƣớc Mỹ và thế giới đã định nghĩa
NQTM nhƣ sau: “NQTM là mối quan hệ theo hợp đồng, giữa bên giao và bên nhận
quyền, theo đó Bên giao đề xuất hoặc phải duy trì sự quan tâm liên tục tới doanh
nghiệp của bên nhận quyền trên các khía cạnh nhƣ: bí quyết kinh doanh (knowhow), đào tạo nhân viên; Bên nhận quyền hoạt động dƣới nhãn hiệu hàng hoá,
phƣơng thức, phƣơng pháp kinh doanh do Bên giao sở hữu hoặc kiểm soát; và Bên
nhận đang, hoặc sẽ tiến hành đầu tƣ đáng kể vốn vào doanh nghiệp bằng các nguồn
lực của mình”. [26]. Theo định nghĩa này, vai trò của bên giao quyền đƣợc nhấn
mạnh bởi việc kiểm soát liên tục cách thức kinh doanh, còn bên nhận quyền đƣợc
nhấn mạnh bởi sự đầu tƣ vốn của chính họ vào công việc kinh doanh đó.
Uỷ ban Thƣơng mại liên bang Hoa Kỳ lại đƣa ra cách hiểu về NQTM thông
qua hợp đồng NQTM. Trong hợp đồng này, bên giao: (i) hỗ trợ đáng kể cho bên
nhận trong việc điều hành doanh nghiệp hoặc kiểm soát chặt chẽ phƣơng pháp điều
hành doanh nghiệp của bên nhận. (ii), lixăng nhãn hiệu cho bên nhận để phân phối
sản phẩm hoặc dịch vụ theo nhãn hiệu hàng hoá của bên giao và (iii), yêu cầu bên
nhận thanh toán cho bên giao một khoản phí tối thiểu.[20].
Theo quy tắc đạo đức về NQTM của Châu Âu thì “NQTM là một loạt các hoạt
động tiếp thị bán hàng hoá, dịch vụ hay công nghệ cơ bản dựa trên sự kết hợp chặt
chẽ giữa các bên độc lập vê tài chính và pháp lý, gọi là Bên nhƣợng quyền và Bên
nhận quyền. Theo đó, bên nhƣợng quyền trao cho bên nhận quyền các quyền và yêu
cầu bên nhận quyền phải tuân thủ các quy tắc và tiến hành kinh doanh theo nguyên
tắc của bên trao quyền. Bên nhận quyền sẽ phải trả một khoản phí trực tiếp hay gián

tiếp để có đƣợc quyền kinh doanh từ bên nhƣợng quyền, là các quyền sử dụng tên

7


thƣơng mại, nhãn hiệu thƣơng mại hoặc nhãn hiệu dịch vụ, bí quyết, các phƣơng
thức kỹ thuật kinh doanh, hệ thống thủ tục, quyền sở hữu trí tuệ khác nếu có.” [21].
Bên nhận quyền còn đƣợc hỗ trợ bởi các điều khoản của hợp đồng NQTM đƣợc ký
kết giữa các bên, ví dụ nhƣ hỗ trợ về đào tạo, quảng cáo, quản lý...
Luật Mêhicô đề cập tới lợi ích của việc NQTM về mặt hỗ trợ kỹ thuật và nhấn
mạnh tới việc chuyển giao “kiến thức kỹ thuật” (technical knowledge) để bán sản
phẩm, dịch vụ đồng bộ và có chất lƣợng. “ NQTM tồn tại khi với một lixăng cấp quyền
sử dụng một thƣơng hiệu nhất định, có sự chuyển giao kiến thức công nghệ hoặc hỗ trợ
kỹ thuật để một ngƣời sản xuất, chế tạo hoặc bán sản phẩm, hoặc cung cấp dịch vụ
đồng bộ với phƣơng pháp vận hành (operative methods), các hoạt động thƣơng mại,
hoặc hành chính đã đƣợc chủ thƣơng hiệu thiết lập, với chất lƣợng, danh tiếng, hình
ảnh của sản phẩm, hoặc dịch vụ đã đƣợc tạo lập dƣới thƣơng hiệu đó”. [26].
Ở Nga, thoả thuận NQTM đƣợc định nghĩa là “sự nhƣợng quyền thƣơng mại”

(commerical concession). Chƣơng 54 Bộ luật dân sự Nga định nghĩa bản chất pháp
lý của sự nhƣợng quyền thƣơng mại: nhƣ sau: “Theo hợp đồng nhƣợng quyền
thƣơng mại, một bên (bên có quyền) phải cấp cho bên kia (bên sử dụng) với một
khoản thù lao, theo một thời hạn, hay không thời hạn, quyền đƣợc sử dụng trong
các hoạt động kinh doanh của bên sử dụng một tập hợp các quyền độc quyền của
bên có quyền bao gồm, quyền đối với dấu hiệu, chỉ dẫn thƣơng mại, quyền đối với
bí mật kinh doanh, và các quyền độc quyền theo hợp đồng đối với các đối tƣợng
khác nhƣ nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ…”.[26]. Nhƣ vậy, định nghĩa của
Nga nghiêng về phía Bên có quyền chuyển giao một số quyền sở hữu trí tuệ độc
quyền cho bên nhận với một khoản phí nhất định mà không đề cập tới việc kiểm
soát hay hỗ trợ hoạt động kinh doanh của bên nhận quyền cũng nhƣ nghĩa vụ của

bên nhận quyền. Định nghĩa này có vẻ giống nhƣ định nghĩa về chuyển giao công
nghệ trong pháp luật Việt Nam.
Giáo sƣ Andrew Terry- Hiệu trƣởng trƣờng Đại học thuế và quản trị kinh
doanh thuộc Đại học Newsouthwale đƣa ra bản chất và hoạt động của hệ thống

8


NQTM nhƣ sau: “ NQTM là hệ thống huy động đƣợc sự sáng tạo, năng động và
ngày càng trở thành một phƣơng thức kinh doanh phổ biến đối với những doanh
nghiệp đang tồn tại và mới hình thành. Trong hệ thống NQTM, bên nhƣợng quyền
phải phát triển đƣợc những khái niệm kinh doanh đã thành công và đã đƣợc công
nhận và xây dựng xung quanh những ngƣời nhận quyền hệ thống đã đƣợc thừa
nhận, những lixăng để ngƣời nhận quyền sử dụng khái niệm và hệ thống của họ
theo một phƣơng thức đƣợc kiểm soát tại một địa điểm xác định và một thời điểm
nhất định tại cơ sở kinh doanh của ngƣời nhận quyền hoặc tại những cơ sở khác.”
[24].
Có quan niệm khác cho rằng NQTM là nhƣợng quyền một mô hình kinh
doanh (Business format franchises), tức là bên nhƣợng quyền cấp Giấy phép trao
quyền cho bên nhận quyền sử dụng mô hình, kỹ thuật kinh doanh, sản phẩm, dịch
vụ dƣới thƣơng hiệu của bên nhƣợng quyền. Bên nhận quyền phải đóng một khoản
phí để có đƣợc quyền này và một tỷ lệ phần trăm trên doanh thu gộp trong giai đoạn
khai thác đặc quyền.
Luật Thƣơng mại 2005 của Việt Nam đƣa ra định nghĩa về NQTM nhƣ sau:
“NQTM là hoạt động thƣơng mại, theo đó bên nhƣợng quyền cho phép và yêu
cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ
theo các điều kiện sau đây:
1. Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ đƣợc tiến hành theo cách thức tổ
chức kinh doanh do bên nhƣợng quyền quy định và đƣợc gắn với nhãn hiệu hàng
hoá, tên thƣơng mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tƣợng kinh

doanh, quảng cáo của bên nhƣợng quyền;
2. Bên nhƣợng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận quyền

trong việc điều hành công việc kinh doanh.” [2, điều 285].
Nhƣ vậy, có thể hiểu NQTM là cách bán quyền thƣơng mại của bên nhƣợng
quyền với điều kiện có thu phí và đƣợc quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh của bên
nhận quyền. Phạm vi quyền thƣơng mại đƣợc cụ thể hóa trong hợp đồng, có thể

9


là sự thỏa thuận giữa các bên cũng có thể là do ý chí của bên nhƣợng quyền đƣa ra
và bên nhận quyền chấp nhận. Bên nhận quyền tự mình kinh doanh, tức là khai thác
các “quyền thƣơng mại” của bên nhƣợng quyền, thông thƣờng là bán hàng hoá,
dịch vụ gắn với một nhãn hiệu đã nổi tiếng, đƣợc đông đảo ngƣời tiêu dùng chấp
nhận. Bên nhận quyền tự mình kinh doanh những hàng hoá đã có sẵn và theo
phƣơng thức do bên nhƣợng quyền quy định mà không đƣợc phép thay đổi
phƣơng thức kinh doanh đó theo ý tƣởng sáng tạo của mình. Tức là bên nhận quyền
chỉ việc khai thác các quyền thƣơng mại sắn có trong hệ thống kinh doanh mà
không đƣợc thay đổi hình ảnh, cách sắp xếp, bố trí không gian, biểu tƣợng quảng
cáo… Bên nhận quyền kinh doanh nhƣ một “mắt xích” trong hệ thống nhƣợng
quyền của bên nhƣợng quyền kinh doanh. Nhƣ vậy, bên nhận quyền sẽ bị hạn chế
quyền chủ động trong quá trình kinh doanh. Nếu nhƣ hệ thống kinh doanh tốt thì
bên nhận quyền sẽ đƣợc lợi nhuận, trong trƣờng hợp kinh doanh không tốt, bên
nhận quyền vẫn phải chịu trách nhiệm trả phí thƣờng xuyên để duy trì hoạt động
kinh doanh, hoặc muốn chấm dứt hợp đồng trƣớc thời hạn cũng phải chịu một số
ràng buộc nhất định về thời hạn hợp đồng, hoặc phải chịu bồi thƣờng rất lớn.
Nhƣợng quyền kinh doanh là một phƣơng thức kinh doanh nhƣng không phải là
phƣơng thức đảm bảo thành công cho các bên theo hình thức này. Do vậy các bên
đều phải cân nhắc thật kỹ trƣớc khi quyết định.

1.1.2. Đặc điểm
Dựa vào những định nghĩa nêu ở trên, có thể tóm tắt về NQTM theo các đặc
trƣng sau:
Thứ nhất, quyền sở hữu. Bên nhƣợng quyền sở hữu một thƣơng hiệu, dịch vụ,
ý tƣởng, quy trình, bí mật sản xuất, sáng chế, một phần trang thiết bị đặc biệt hoặc bí

quyết công nghệ liên quan liên quan đến lĩnh vực kinh doanh. Quyền sở hữu này thuộc
về bên nhƣợng quyền ban đầu (hay còn gọi là nhƣợng quyền sơ cấp). Trong trƣờng
hợp là bên nhƣợng quyền thứ cấp thì không có quyền sở hữu mà chỉ đƣợc quyền sử
dụng và phải đƣợc phép của của bên nhƣợng quyền ban đầu khi muốn cấp

10


phép lại cho bên thứ ba. Quyền hạn của bên nhận quyền về “quyền kinh doanh” sẽ
do bên nhƣợng quyền quyết định trong hợp đồng NQTM.
Thứ hai, chuyển giao quyền. Việc cấp phép của chủ thƣơng hiệu cho một hoặc
nhiều đối tƣợng xác định để khai thác thƣơng hiệu, dịch vụ, ý tƣởng, quy trình sáng
chế hoặc thiết bị hoặc các bí quyết công nghệ liên quan. Các quyền mà bên nhƣợng
quyền chuyển giao có thể là một phần hoặc toàn bộ các quyền thƣơng mại, tuỳ thuộc
vào đối tƣợng dự kiến nhận quyền, khu vực hoạt động của bên nhƣợng quyền.

Thứ ba, Giao kết hợp đồng NQTM. Đây là bƣớc đầu tiên để xác lập một quan
hệ NQTM. Nội dung của bản hợp đồng thể hiện các quy định và việc quản lý liên
quan đến hoạt động kinh doanh và quyền khai thác của bên nhận quyền. Hợp đồng
này thƣờng do Bên nhƣợng quyền soạn thảo nhằm bảo vệ tính thống nhất, đồng bộ
của thƣơng hiệu và hệ thống kinh doanh. Bằng cách xác lập các hợp đồng NQTM,
chủ thƣơng hiệu sẽ thiết lập cho mình một hệ thống NQTM “ bao gồm một hệ
thống kinh doanh trong đó một bên nhƣợng quyền chuyển giao quyền thƣơng mại
cho một bên nhận quyền” [19, khoản 1 Điều 3]. Khi đã trở thành hệ thống kinh

doanh, việc kinh doanh của các thành viên trong hệ thống đƣợc thuận lợi và đơn
giản hơn rất nhiều, đặc biệt là có sự hỗ trợ lẫn nhau của các thành viên trong đó.
Tuy nhiên, các bên phải tìm hiểu kỹ lƣỡng trƣớc khi ký kết hợp đồng NQTM. Nếu
một hoạt động NQTM tốt sẽ giúp cho cả hai bên đều phát triển. Bên nhƣợng quyền
sẽ phát triển thƣơng hiệu và chiếm lĩnh đƣợc thị trƣờng, tăng doanh thu. Bên nhận
quyền cũng có thể thu hồi đƣợc vốn nhanh nhờ kinh doanh phƣơng thức đã thành
công, thậm chí có thể cấp lại quyền kinh doanh cho bên thứ ba nếu đƣợc bên
nhƣợng quyền ban đầu chấp nhận. Nhƣng nếu nhƣợng quyền không tốt sẽ không
giúp ích đƣơc gì cho bên nhận quyền, thậm chí còn phải chịu những rủi ro và ràng
buộc khác của hợp đồng, hạn chế sự sáng tạo và cơ hội kinh doanh của mình. Chính
vì thế mà luật pháp của nhiều nƣớc đều có quy định về trách nhiệm công khai thông
tin trong hoạt động NQTM.

11


Thứ tư, Phí nhƣợng quyền và phƣơng thức thanh toán. Để đƣợc kinh doanh
theo phƣơng thức của bên nhƣợng quyền, bên nhận quyền phải trả một khoản phí
nhƣợng quyền và một khoản phí cố định tính trên tỷ lệ phần trăm doanh thu để duy
trì hoạt động này. Khoản phí này liên quan đến rất nhiều yếu tố nhƣ vị trí, phạm vi,
quy mô kinh doanh của bên nhận quyền, sự thành công của thƣơng hiệu nhƣợng
quyền, mục đích của các bên trong quan hệ nhƣợng quyền thƣơng mại. Mục đích
có thể là muốn phát triển thƣơng hiệu, mở rộng thị trƣờng, tăng doanh thu… Ví dụ,
đối với thƣơng hiệu lớn và có sự ảnh hƣởng rộng thì để nhận đƣợc quyền kinh
doanh bên nhận quyền phải trả một khoản phí khá lớn ban đầu, đồng thời một tỷ lệ
phần trăm doanh thu của bên nhận quyền hàng tháng (hoặc quý, năm) để tiếp tục
duy trì kinh doanh.
Thứ năm, quyền kiểm soát. Bên nhƣợng quyền đƣợc phép kiểm tra, giám sát định
kỳ hoặc đột xuất công việc kinh doanh của bên nhận quyền. Việc kiểm tra này sẽ giúp
bên nhƣợng quyền quản lý và bảo vệ thƣơng hiệu, bảo vệ tính đồng bộ trong hệ thống

nhƣợng quyền của mình. Vì trong quá trình kinh doanh, bên nhận quyền có thể sẽ sáng
tạo thêm vào các biểu tƣợng kinh doanh hoặc bổ sung thêm ký tự, màu sắc vào nhãn
hiệu hàng hoá, thay đổi hoặc bổ sung công thức pha chế, phục vụ khách hàng…. Tóm
lại là những cách thức sáng tạo của bên nhận quyền mà họ thấy

có thể làm công việc kinh doanh của họ tốt hơn, hoặc để đỡ nhàm chán. Tuy nhiên,
những điều tƣởng nhỏ nhặt đấy có thể sẽ phá vỡ tính ổn định và thống nhất của
nhãn hiệu, hàng hoá, dịch vụ mà bên nhƣợng quyền tạo dựng nên. Do đó, bên
nhƣợng quyền phải kiểm soát công việc kinh doanh của bên nhận để bảo toàn tính
hệ thống trong chuỗi nhƣợng quyền thƣơng mại của mình. Tuy nhiên, việc kiểm
soát có thể khó khăn đối với Bên nhƣợng quyền nếu nhƣ bên nhận quyền là bên
nƣớc ngoài. Khi đó để bảo vệ đƣợc nhãn hiệu của bên nhƣợng quyền lại phụ thuộc
vào ý thức của bên nhận quyền.
Thứ sáu, sự hỗ trợ của bên nhƣợng quyền. Khi tiến hành kinh doanh theo
phƣơng thức NQTM, bên nhận quyền tự mình kinh doanh theo quyền đã nhận.
Ngay từ khi bắt đầu kinh doanh hoặc trong cả quá trình kinh doanh, bên nhận quyền

12


sẽ nhận đƣợc sự hỗ trợ của bên nhƣợng quyền khi Bên này thay đổi cách thức kinh
doanh hoặc mở rộng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, lĩnh vực hoạt động, nâng cao,
công nghệ, kỹ thuật … Bên nhận quyền sẽ đƣợc đào tạo, hƣớng dẫn cách thức để
tiến hành kinh doanh và sẽ đƣợc áp dụng các chƣơng trình khuyến mại giống nhƣ
của bên nhƣợng quyền. Bên nhận quyền sẽ đƣợc hỗ trợ về tiếp thị, quảng cáo, các
chính sách phát triển mới của bên nhƣợng quyền. Tóm lại, bên nhận quyền đƣợc
phép kinh doanh nhƣ một “chi nhánh” của bên nhƣợng quyền, chỉ có điều khác biệt
là bên nhận quyền là một tổ chức kinh tế độc lập về mặt pháp lý, tài chính chứ
không phải là một đơn vị phụ thuộc của bên nhƣợng quyền.
Nhƣ vậy, đặc trƣng cơ bản nhất của NQTM là việc bên nhận quyền thƣơng

mại kinh doanh theo phƣơng thức có sẵn của bên trao quyền và chịu sự kiểm soát
của bên trao quyền về cách thức tiến hành kinh doanh. Bên nhận quyền sẽ nhân
danh mình kinh doanh hàng hoá, dịch vụ giống nhƣ “bản sao” phƣơng thức kinh
doanh của bên trao quyền. Có thể nói NQTM chính là phƣơng thức kinh doanh
nhân bản công thức kinh doanh đã đƣợc trải nghiệm. Mối quan hệ giữa bên nhƣợng
quyền và bên nhận quyền là mối quan hệ liên tục và đƣợc kiểm soát. Các quyền
thƣơng mại cụ thể mà bên nhận quyền đƣợc phép kinh doanh, thời hạn và điều kiện
kinh doanh đƣợc quy định cụ thể trong hợp đồng nhƣợng quyền thƣơng mại.
1.1.3. Những ƣu điểm, vai trò, ý nghĩa của phƣơng thức kinh doanh nhƣợng
quyền thƣơng mại
NQTM là phƣơng thức kinh doanh kết hợp lợi ích của cả hai bên, doanh
nghiệp nhƣợng quyền và doanh nghiệp nhận quyền. Đây là mối quan hệ cộng sinh
có lợi cho cả hai bên. Bên nhƣợng quyền có lợi ích từ việc thu nhập thêm đƣợc tài
chính từ phía bên nhận quyền. Đó là phí nhận quyền ban đầu và phí định kỳ. Đồng
thời, bằng việc nhân rộng mô hình kinh doanh, bên nhƣợng quyền đã quảng bá sản
phẩm và nhãn hiệu của mình, xây dựng nên một thƣơng hiệu nổi tiếng. Đã có một
nhận xét cho rằng “nhƣợng quyền thƣơng mại là hình thức tổ chức kinh doanh duy
nhất tạo ra các cơ sở kinh doanh mới, tạo ra các nhà doanh nghiệp mới, việc làm

13


mới, các dịch vụ mới cũng nhƣ các cơ hội xuất khẩu mới”. Và “NQTM là phƣơng
thức kinh doanh thành công nhất mọi thời đại, kể từ khi xuất hiện khái niệm công
ty”. Đây là những nhận xét không hề quá lời do NQTM đã ngày càng chứng minh
đƣợc lợi thế của nó và ngày càng phát triển trên thế giới. NQTM là phƣơng thức
kinh doanh rất phù hợp để tìm kiếm cơ hội xuất khẩu sản phẩm, dịch vụ ra nƣớc
ngoài, mở rộng thị trƣờng trên thế giới. Bạn có thể thấy nhãn hiệu KFC gắn liền với
sản phẩm thức ăn nhanh, đặc biệt là gà rán có mặt hầu hết ở khắp nơi trên thế giới.
Sản phẩm của nhãn hiệu thức ăn nhanh nổi tiếng McDonald’s tính đến thời điểm

cuối năm 2004 có tổng cộng 30220 nhà hàng tại 120 quốc gia trên thế giới. Trung
bình cứ 3 giờ đồng hồ lại có một nhà hàng McDonald’s mọc ra đâu đó tại một trong
số 120 quốc gia mà công ty này có chi nhánh. Theo bảng xếp hạng 200 hệ thống
Franchise hàng đầu thế giới của tạp chí The Franchise Time 2004 (thời báo
Franchise) thì McDonald’s đƣợc xếp hạng nhất về tổng doanh số và tổng số lƣợng
cửa hàng đang hoạt động. Thậm chí, công ty này phát triển mô hình NQTM tới mức
đã thành lập hẳn một trƣờng đại học McDonald’s (McDonald’s University) để đào
tạo các nhân viên thực hành khi nhận quyền kinh doanh từ công ty.[12].
NQTM là cách để tăng sức mạnh cho các thƣơng hiệu và cũng là cách quảng
bá, tạo nội lực cho thƣơng hiệu. Thƣơng hiệu đƣợc xem nhƣ tài sản quý giá nhất
của doanh nghiệp. Phải mất rất nhiều thời gian, chi phí về tài chính cũng nhƣ nhân
lực mới có thể tạo dựng đƣợc thƣơng hiệu. Trên thị trƣờng ngày nay có hàng ngàn
sản phẩm và dịch vụ có cùng giá trị sử dụng nhƣng đƣợc cung cấp bởi các nhà sản
xuất khác nhau. Do đó, việc cố gắng tạo dựng thƣơng hiệu nổi tiếng, đƣợc khách
hàng tin cậy và nhớ đến là vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Khi sử dụng hình
thức nhƣợng quyền, bên nhƣợng quyền sẽ tạo đƣợc những lợi thế trong việc quảng
cáo, quảng bá thƣơng hiệu của mình. Mở rộng kinh doanh và sự xuất hiện ở khắp
nơi của chuỗi cửa hàng sẽ đƣa hình ảnh về sản phẩm đi sâu vào tâm trí khách hàng
một cách dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, vì chi phí quảng cáo sẽ đƣợc trải rộng cho rất
nhiều cửa hàng cho nên chi phí quảng cáo cho một đơn vị kinh doanh là rất nhỏ.
Điều này giúp bên nhƣợng quyền xây dựng đƣợc một ngân sách quảng cáo lớn.

14


Đây là một lợi thế cạnh tranh mà khó có đối thủ cạnh tranh nào có khả năng vƣợt
qua. Hoạt động quảng cáo càng hiệu quả, hình ảnh về sản phẩm, thƣơng hiệu càng
đƣợc nâng cao, giá trị vô hình của công ty càng lớn sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho
bên nhận quyền sử dụng nhãn hiệu, thƣơng hiệu của bên nhƣợng quyền. Và nhƣ
thế, cả bên nhƣợng quyền và bên nhận quyền ngày càng thu đƣợc nhiều lợi nhuận

từ việc áp dụng hình thức kinh doanh nhƣợng quyền.
Theo các chuyên gia kinh tế, đây cũng là cách tăng sức mạnh tốt nhất cho các
thƣơng hiệu Việt Nam nhằm cạnh tranh lại với các thƣơng hiệu mạnh sẽ ồ ạt tràn
vào nƣớc ta sau khi gia nhập WTO. Cũng nhƣ các nƣớc đang phát triển khác, Việt
Nam hoàn toàn có thể đƣa vào áp dụng một cách hữu hiệu phƣơng thức này nhƣ là
một quy luật tự nhiên của quá trình mở cửa và đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị
trƣờng, cũng nhƣ có thể phát triển nó một cách bài bản và đúng hƣớng để phục vụ
mục đích tăng trƣởng kinh tế và tối ƣu hoá hiệu quả hoạt động thƣơng mại trong
tƣơng lai.
NQTM là động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của nền kinh tế. Giáo sƣ
Andrew Terry cho rằng “Việc phát triển và mở rộng của NQTM là không có giới
hạn, NQTM là một hình thức rất hiệu quả, năng động dƣới góc độ của ngƣời kinh
doanh, của ngƣời tiêu dùng, của nền kinh tế và dƣới góc độ xã hội. NQTM liên
quan đến thƣơng hiệu, hệ thống và mạng lƣới, cơ sở hạ tầng. Đây là những yếu tố
mà trong kinh doanh thì ngày càng trở nên quan trọng. Độ phức tạp của việc kinh
doanh thể hiện sức mạnh của thƣơng hiệu, của kỹ thuật, của cơ sở hạ tầng, của hệ
thống và mạng lƣới.”[24].
Những ƣu điểm của NQTM rất thuận lợi cho những ngƣời khởi sự kinh doanh
mà chƣa có nhiều kinh nghiệm hay vốn liếng, hoặc chƣa tìm đƣợc phƣơng thức
kinh doanh phù hợp. Đây là hình thức nhân rộng mô hình kinh doanh do vậy rất dể
triển khai và áp dụng bởi có sự hỗ trợ của bên chuyển giao quyền kinh doanh. Mục
đích chủ yếu của nhƣợng quyền là giảm thiểu rủi ro. Việc mở cửa hàng, cơ sở kinh
doanh mới có rất nhiều rủi ro và tỷ lệ thất bại cao, vì những ngƣời mới kinh doanh

15


không có kinh nghiệm và phải mất nhiều thời gian cho việc học hỏi các đặc trƣng
riêng của từng loại hình kinh doanh. Khi tham gia vào hệ thống nhƣợng quyền, bên
nhận quyền sẽ đƣợc huấn luyện, đào tạo và truyền đạt các kinh nghiệm quản lý, bí

quyết thành công của các loại hình kinh doanh đặc thù mà bên nhƣợng quyền đã
tích luỹ đƣợc từ những lần trải nghiệm trên thị trƣờng. Bên nhận quyền không phải
trải qua giai đoạn xây dựng và phát triển ban đầu. Bên nhƣợng quyền sẽ hƣớng dẫn
bên nhận quyền các nguyên tắc chung cũng nhƣ cách thức quản lý, điều hành để
bên nhận quyền tiến hành công việc kinh doanh trở nên dễ dàng hơn và theo đúng
hệ thống. Bên nhận quyền chỉ tập trung vào công việc kinh doanh, còn những việc
nhƣ xây dựng chiến lƣợc tiếp thị, quy trình vận hành, chiến lƣợc kinh doanh sẽ do
bên nhƣợng quyền đảm trách và chuyển giao. Thêm vào đó, bên nhƣợng quyền
luôn có những ƣu đãi đặc biệt về cung cấp sản phẩm, nguyên liệu cho bên nhận
quyền và với chi phí thấp hơn. Do đó, bên nhận quyền có thêm một lợi thế cạnh
tranh về giá của sản phẩm. Nếu nhƣ trên thị trƣờng có những biến động lớn nhƣ
việc khan hiếm nguồn hàng thì bên nhƣợng quyền sẽ ƣu tiên phân phối cho bên
nhận quyền trƣớc. Điều này giúp cho bên nhận quyền ổn định đầu vào, tránh đƣợc
những tổn thất từ biến động thị trƣờng.
Nền kinh tế Việt Nam đã tồn tại quá lâu cơ chế quan liêu, tập trung bao cấp, đƣợc
Nhà nƣớc bảo hộ dẫn đến quản lý kém, sức cạnh tranh kém, công nghệ lạc hậu do vậy
khi đất nƣớc bƣớc vào tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế không khỏi bỡ ngỡ. Để nâng
cao sức cạnh tranh và phát huy hiệu quả của nền kinh tế cần đẩy mạnh quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng tham gia tích cực vào hệ thống phân công và hợp tác
lao động quốc tế, đặc biệt là qúa trình phân công và hợp tác lao động trong cùng một
ngành sản xuất, trong cùng một dây chuyền giá trị nhằm học hỏi kinh nghiệm của các
nƣớc tiên tiến. Các doanh nghiệp trong nƣớc chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ nên cần
khuyến khích các doanh nghiệp phát triển theo mô hình các tập đoàn thƣơng mại lớn,
các nhà phân phối có danh tiếng trên thị trƣờng trong nƣớc và ngoài nƣớc và các
doanh nghiệp này tham gia tích cực vào hệ thống thƣơng mại toàn cầu. Mà một trong
những cách thức có lợi nhất là tham gia vào hệ thống

16



nhƣợng quyền thƣơng mại của các tập đoàn lớn trên thế giới. Bên cạnh đó, thông qua
hoạt động NQTM, nƣớc ta khuyến khích và thu hút các tập đoàn thƣơng mại lớn, các
nhà phân phối lớn của nƣớc ngoài tham gia vào hệ thống các kênh thƣơng mại của nền
kinh tế, đặc biệt là các kênh thƣơng mại đối với hàng nông sản xuất khẩu.

Trong chiến lƣợc phát triển kinh tế của nƣớc ta có việc tăng số lƣợng các
doanh nghiệp nhằm phát huy tối đa nội lực của đất nƣớc. Đã có rất nhiều luật doanh
nghiệp đƣợc sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình kinh tế trong mỗi giai đoạn
phát triển. Luật doanh nghiệp năm 1999 ra đời là một cuộc cải cách khá lớn, đã tạo
điều kiện thuận lợi tối đa cho việc thành lập và hoạt động của doanh nghiệp. Số
lƣợng các doanh nghiệp mới tăng rất nhanh. Tuy nhiên, tính theo tỷ lệ số dân thì
bình quân ở nƣớc ta thì gần 1000 ngƣời mới có một doanh nghiệp, chỉ bằng 1/16 so
với tỉnh Quảng Đông của Trung Quốc, bằng 1/20 các nƣớc kinh tế phát triển. Con
số đó cho thấy mức bình quân của doanh nghiệp tính trên tỷ lệ 1000 của Việt Nam
còn kém rất xa so với các nƣớc trên thế giới. Vì thế, để nền kinh tế nƣớc ta phát
triển tƣơng thích với nền kinh tế thế giới thì nhu cầu rất lớn là phát triển số lƣợng
các doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời đã tạo một “sân chơi” bình
đẳng cho tất cả loại hình doanh nghiệp, từ doanh nghiệp Nhà nƣớc đến doanh
nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài và doanh nghiệp dân doanh đều hoạt động theo
một luật chung. Do vậy các doanh nghiệp trong nƣớc cần phải nỗ lực hết sức trong
cuộc canh tranh không cân sức này. NQTM chính là một trong những phƣơng tiện
giúp doanh nghiệp có thể tăng cƣờng khả năng cạnh tranh của mình. “Hội nhập
kinh tế quốc tế là qúa trình tất yếu khách quan, không doanh nghiệp nào có thể tránh
né. Tƣ tƣởng bảo hộ trông chờ vào Nhà nƣớc sẽ bị đào thải. Tất nhiên, thành công
đến đâu còn tùy thuộc vào sức cạnh tranh, tính năng động sáng tạo của doanh
nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp phải thực sự vào cuộc, vì sự sống còn của mình,
để đáp ứng yêu cầu khi Việt Nam gia nhập vào WTO” [Phát biểu của TS Lê Đăng
Doanh tại buổi tọa đàm trao đổi kinh nghiệm của các doanh nghiệp trong quá trình
chuẩn bị gia nhập WTO do Câu lạc bộ doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lƣợng cao
và báo Sài Gòn tiếp thị tổ chức ngày 01/7/2005].


17


NQTM giúp tiết kiệm về tài chính, đầu tƣ nhân lực của bên nhƣợng quyền,
Thông qua hệ thống nhƣợng quyền kinh doanh, bên nhƣợng quyền có thể mở rộng thị
trƣờng tới những khu vực địa lý mà mình không am hiểu hoặc không thể trực tiếp kinh
doanh tại đó. Đây cũng là một lợi thế rất lớn do NQTM đem lại mà không một hình
thức kinh doanh nào có thể làm đƣợc. Điều này cũng đồng nghĩa với việc bên nhƣợng
quyền sẽ tối ƣu hoá đƣợc thu nhập từ các bên nhận quyền. Khi bên nhận quyền kinh
doanh theo phƣơng thức NQTM, họ phải trả một khoản phí ban đầu, gọi là phí mua
quyền kinh doanh và một khoản phí thƣờng xuyên tính trên doanh thu của cửa hàng.
Đồng thời, bên nhận quyền có thể phải mua sản phẩm, nguyên liệu của bên nhƣợng
quyền, nhờ đó mà bên nhƣợng quyền có thể tối đa hoá thu nhập của mình.
NQTM cũng là cách tăng sức mạnh cho doanh nghiệp, phát triển thƣơng hiệu.
“NQTM là cách tập trung sức mạnh trong cuộc canh tranh khốc liệt khi Việt Nam gia
nhập WTO” [ Lý Quý Trung]. Thông qua NQTM, các doanh nghiệp trong nƣớc có thể
chống lại sự cạnh tranh từ các đối thủ nƣớc ngoài. Vì khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ
phải mở cửa một số lĩnh vực kinh tế theo cam kết quốc tế, các nhãn hiệu nƣớc ngoài sẽ
đổ bộ vào Việt Nam. Các doanh nghiệp trong nƣớc có thể liên kết lại với nhau để
“chiến đấu” với các thƣơng hiệu nƣớc ngoài thông qua phƣơng thức NQTM.

NQTM tạo ra nhiều việc làm cho ngƣời lao động và sử dụng hiệu quả hơn sức
lao động. Vì NQTM thƣờng gắn liền với một hệ thống đã đƣợc tiêu chuẩn hoá theo
phƣơng thức nhất định, các nhân viên trong hệ thống cũng đƣợc đào tạo một cách
bài bản và chuyên nghiệp. Khi càng nhiều doanh nghiệp ra đời thì càng cần nhiều
đến sức lao động. Do vậy, có thể nói NQTM cũng là cách thức giải quyết việc làm
cho ngƣời lao động, góp phần nâng cao mức sống cho họ.
NQTM tạo sự tin tƣởng cho ngƣời tiêu dùng vì có thể đƣợc sử dụng và thƣởng
thức những sản phẩm, dịch vụ với chất lƣợng nhƣ nhau ở nhiều nơi trên thế giới.


NQTM giảm thiểu những rủi ro trong quá trình kinh doanh. Vì những mô hình
kinh doanh nhƣợng quyền hầu hết là những mô hình đã thành công và đƣợc xã hội

18


chấp nhận. Do vậy, nếu kinh doanh theo phƣơng thức đã thành công thì sẽ chịu phải
rủi ro ít hơn.
NQTM thúc đẩy các chủ doanh nghiệp nâng cao chất lƣợng sản phẩm, dịch vụ
gắn liền với việc phát triển và bảo vệ thƣơng hiệu. Vì hàng hoá, dịch vụ kinh doanh
theo phƣơng thức này phải là những sản phẩm, dịch vụ có chất lƣợng, uy tín. Đây
cũng là phƣơng thức cạnh tranh lành mạnh buộc các doanh nghiệp khác phải nâng
cao chất lƣợng sản phẩm của mình để chiếm đƣợc thị phần tiêu dùng.
NQTM là phƣơng thức kinh doanh phát huy đƣợc lợi thế của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có lợi thế
về vốn, kinh doanh theo phƣơng thức NQTM sẽ đƣợc bên nhƣợng quyền hỗ trợ về
vốn và những trang thiết bị ban đầu cho việc kinh doanh.
Kinh doanh theo phƣơng thức NQTM cũng là một cách tăng cƣờng bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ trong nƣớc. Khi nhân rộng mô hình kinh doanh theo phƣơng
thức này buộc chủ thƣơng hiệu phải đảm bảo tính hợp pháp trong việc sử dụng
thƣơng hiệu của mình bằng cách đăng ký bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá. Qua đó cũng
có thể ngăn chặn các vụ vi phạm quyền sở hữu trí tuệ đang làm giảm sự sáng tạo
của các doanh nghiệp.
NQTM góp phần hội nhập kinh tế quốc tế, thu hẹp khoảng cách giữa các quốc
gia và tăng cƣờng cơ hội hiểu biết giữa các nƣớc trên thế giới. tăng cƣờng hợp tác
kinh tế quốc tế. Đây cũng là phƣơng thức nhanh nhất giúp chủ thƣơng hiệu mở
rộng thị trƣờng ra nƣớc ngoài.
1.1.4. Phân biệt nhƣợng quyền thƣơng mại với một số hình thức kinh doanh tƣơng tự


1.1.4.1. Hình thức kinh doanh đại lý
Đại lý, theo Luật thƣơng mại 2005, là hoạt động thƣơng mại mà bên giao và
bên nhận đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá
cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để
hƣởng thù lao. Sự khác biệt của hình thức kinh doanh đại lý so với kinh doanh

19


×