Tải bản đầy đủ (.docx) (101 trang)

Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự luận văn ths luật dân sự 60 38 30

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.66 KB, 101 trang )

mục lục

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết
mở đầu

Ch-ơng 1: Những vấn đ

cấp xét xử t

1.1.

Khái niệm và ý nghĩa c
tụng dân sự

1.1.1.

Khái niệm nguyên tắc

1.1.2.

ý nghĩa của nguyên tắ

1.1.2.1.

ý nghĩa pháp lý

1.1.2.2.


ý nghĩa chính trị, x

1.2.

Cơ sở của nguyên tắc

1.2.1.

Cơ sở lý luận của nguy
dân sự

1.2.2.

Cơ sở thực tiễn của ngu
dân sự

1.3.

Mối quan hệ của nguy

tắc khác của luật tố tụ
1.3.1.

Nguyên tắc hai cấp xét

xã hội chủ nghĩa tron

4



1.3.2.

Với nguyên tắc bảo đ

1.3.3.

Với nguyên tắc trách nhi

1.3.4.

Với nguyên tắc cung c
tụng dân sự

Ch-ơng 2: Nội dung c

hành về ng

tố tụng dân

2.1.

Tòa án thực hiện chế

2.1.1.

Cấp xét xử sơ thẩm

2.1.1.1.

Thẩm quyền sơ thẩ


2.1.1.2.

Quyền hạn của Hội

2.1.1.3.

Hiệu lực của bản án,

2.1.2.

Cấp xét xử phúc thẩ

2.1.2.1.

Thẩm quyền xét xử

2.1.2.2.

Quyền hạn của Hội

2.1.2.3.

Hiệu lực của bản án,

2.2.

Bản án, quyết định c
tục giám đốc thẩm, t


2.2.1.

Bản án, quyết định dâ

2.2.2.

Bản án, quyết định

Ch-ơng 3: Thực tiễn t

xét xử tron

3.1.

Thực tiễn thực hiện n
dân sự

3.1.1.

Khái quát thực tiễn th
trong tố tụng dân sự

5


3.1.2.

Nguyªn nh©n h¹n chÕ
cÊp xÐt xö trong tè t


3.2.

Mét sè kiÕn nghÞ nh»
cÊp xÐt xö trong tè t

3.2.1.

KiÕn nghÞ vÒ hoµn

3.2.1.1.

Víi cÊp xÐt xö s¬ thÈ

3.2.1.2.

Víi cÊp xÐt xö phóc

3.2.2.

KiÕn nghÞ vÒ thùc
KÕt luËn
Danh môc tµi liÖu tham

6


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS


: Bé luËt tè tông d©n sù

H§XX

: Héi ®ång xÐt xö

TAND

: Tßa ¸n nh©n d©n

TANDTC

: Tßa ¸n nh©n d©n tèi cao

TTDS

: Tè tông d©n sù

VADS

: Vô ¸n d©n sù

7


mở đầu

1.Tính cấp thiết của đề tài
Xét xử vụ án dân sự là hoạt động nhà n-ớc đặc biệt và chuyên biệt
của Tòa án nhân dân để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của xã hội, tổ

chức và cá nhân. Do vậy, yêu cầu xét xử vụ án dân sự (VADS) phải bảo đảm
tính đúng đắn, chính xác, đúng pháp luật và đúng bản chất của vụ việc đợc giải quyết. Song trong thực tế, xét xử VADS không phải bao giờ cũng đúng
đắn đem lại sự công bằng, bảo vệ đ-ợc các quyền và lợi ích bị xâm phạm.

Nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự (hay còn gọi là
nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử) là một trong những nguyên
tắc cơ bản của pháp luật trong tố tụng dân sự (TTDS), tố tụng hình sự và
hành chính. Nhằm đạt tới mục đích cao nhất là giải quyết đúng đắn các
vụ án, bảo vệ đ-ợc các quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và pháp luật
đ-ợc thi hành. Vic quy nh hai cp xét x trong VADS là cơ chế bảo vệ
quyền con ng-ời trong TTDS. Cái quyền đó có đ-ợc bảo vệ hay không,
phản ánh bản chất của Nhà n-ớc, bản chất của pháp luật và con ng-ời trong
xã hội đó. Việc xét xử mt VADS theo hai cấp: Xét x ln u cp s thm
(cp xét x th nht) và đ-ợc tiếp tục đ-ợc xét xử ở cấp phúc thẩm (cấp thứ
hai) nếu có kháng cáo, kháng nghị, còn nếu không, bản án sơ thẩm có hiệu
lực pháp luật và đ-ợc thi hành sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Việc xét xử là hoạt động đặc thù của Tòa án, qua xét xử pháp luật đ-ợc
bảo vệ, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân tổ chức đ-ợc đảm bảo. Tuy
nhiên, trong bối cảnh n-ớc ta chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao
cấp sang cơ chế kinh tế thị tr-ờng bên cạnh những tác động tích cực của việc
đem lại về sự tăng tr-ởng, phát triển v-ợt bực về kinh tế thì những tác động tiêu
cực, những mặt trái của xã hội cũng nảy sinh, những loại tội phạm, tệ nạn xã hội
gia tăng, những mâu thuẫn tranh chấp phát sinh trong xã hội

8


ngày càng nhiều và các vụ án dân sự Tòa án giải quyết cũng trở nên
phức tạp. Đánh giá đ-ợc vấn đề đó trong tình hình xã hội mới, Nghị
quyết 08/NQ-TƯ ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã đề ra yêu cầu:

Nâng cao chất l-ợng xét xử của Tòa án, của Viện Kiểm
sát tại phiên tòa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật s-, ng-ời
bào chữa và ng-ời tham gia tố tụng khác... Khi xét xử Tòa án
phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng tr-ớc pháp
luật, thật sự dân chủ, khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc xét xử
của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên
tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý
kiến của Kiểm sát viên, của ng-ời bào chữa, các đ-ơng sự...
[11].
Theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, việc xét xử VADS đ-ợc
tiến hành qua hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm, bên cạnh đó còn có thủ tục
đặc biệt là giám đốc thẩm và tái thẩm. Nh- vậy, theo nguyên tắc, một vụ
án nếu phải xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm thì nhiều nhất
cũng chỉ cần đến ba phiên tòa. "Nh-ng thực tế, có những vụ án phải xét
xử tới 9 -10 phiên tòa, cá biệt có vụ án phải xét xử tới 13 phiên tòa" [21]. Thực
tế cho thấy, việc thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử tại Tòa án có nhiều
nguyên nhân đã khiến vụ án phải kéo dài và phải xét xử nhiều lần, không
những tốn công của của Nhà n-ớc, thiệt hại tới quyền lợi công dân và làm xói
mòn lòng tin của nhân dân vào pháp luật và cơ quan xét xử. Từ những lý
do trên cho thấy, nghiên cứu nguyên tắc thực hiện hai cấp xét xử của Tòa
án trong TTDS là vấn đề cần thiết. Do vậy, tôi chọn đề tài: "Nguyên tắc
hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự" làm luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS là một vấn đề khoa học và thực
tiễn, nó phản ánh bản chất của pháp luật cũng nh- tính nhân văn trong cơ chế

9



bảo vệ quyền con ng-ời. Vì vậy đã có nhiều công trình, nhiều đề tài nghiên cứu, nh-:
"Nguyên tắc hai cấp xét xử và việc áp dụng nguyên tắc đó vào việc tổ chức Tòa án các
cấp" của PGS.TS Trần Văn Độ; "Quan niệm về hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự n-ớc
ta" của TS. Tống Công C-ờng; "Thực hiện chế độ hai cấp xét xử - cơ chế bảo vệ quyền
con ng-ời trong tố tụng dân sự" của TS. Nguyễn Quang Hiền; "Một số vấn đề về phiên
tòa sơ thẩm" của ThS. Nguyễn Thị Thu Hà; Luận văn thạc sĩ "Phiên tòa phúc thẩm dân
sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự Việt Nam" của Hoàng Thị Bích Hải. Đây
là những công trình nghiên cứu khái quát về các các góc độ về nguyên tắc hai cấp xét xử.
Đặc biệt luận văn thạc sĩ "Các cấp xét xử trong tố tụng dân sự của Việt Nam" và luận án
"Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống Tòa án ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay" của TS. Lê Thị Hà là những công trình nghiên cứu trực tiếp về
các cấp xét xử trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này ch-a nghiên
cứu chúng d-ới góc độ của luật TTDS Việt Nam hiện hành.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ những vấn đề
lý luận về nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự, nội dung
nguyên tắc này theo quy định của pháp luật hiện hành, đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc này.
Nhiệm vụ
Để đạt đ-ợc mục đích trên, việc nghiên cứu tập trung vào những nhiệm

vụ sau:
Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về hai cấp xét xử
của Tòa án trong TTDS.
-

Phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về nguyên

tắc hai cấp xét xử trong TTDS.
-

10


Khảo sát thực tiễn thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong
TTDS tại các Tòa án.
-

Phát hiện những v-ớng mắc, bất cập của các quy định về
nguyên tắc và và tìm ra các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử
-

4. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu
Đối t-ợng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận về nguyên
tắc hai cấp xét xử, các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về nguyên tắc này và thực tiễn xét xử và tổ chức xét xử ở cấp
sơ thẩm, phúc thẩm trong những năm gần đây.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung chủ yếu vào những vấn đề sau:

Các quan điểm lý luận khác nhau về nguyên tắc hai cấp xét
xử trong TTDS.
-

- Các quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc hai cấp xét xử

trong TTDS Việt Nam nh-: các quy định về thẩm quyền, quyền hạn của Tòa
án cấp sơ thẩm, phúc thẩm và hiệu lực của bản án sơ thẩm, phúc thẩm.


Thực tiễn thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS
Việt Nam những năm gần đây.
-

5. Ph-ơng pháp luận và ph-ơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài đ-ợc thực hiện trên cơ sở ph-ơng pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, t- t-ởng Hồ Chí Minh, đ-ờng lối,
chính sách của Đảng về Nhà n-ớc và pháp luật, về xây dựng Nhà n-ớc
pháp quyền, cải cách t- pháp ở n-ớc ta.
Quá trình nghiên cứu đề tài cũng sử dụng các ph-ơng pháp
nghiên cứu khoa học nh- ph-ơng pháp phân tích, ph-ơng pháp tổng
hợp, ph-ơng pháp so sánh, ph-ơng pháp thống kê

11


6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc hai cấp xét xử

của Tòa án trong TTDS nh- khái niệm, ý nghĩa, cơ sở của nguyên tắc v.v...
- Phân tích, đánh giá đ-ợc các quy định của pháp luật hiện hành

về nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS, phát hiện đ-ợc những v-ớng mắc,
hạn chế của các quy định về nguyên tắc hai cấp xét xử và thực tiễn thực
hiện, đồng thời đã tìm ra các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,

nội dung của luận văn gồm 3 ch-ơng:
Ch-ơng 1: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc hai cấp xét xử
trong tố tụng dân sự.
Ch-ơng 2: Nội dung các quy định của pháp luật hiện hành về
nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự.
Ch-ơng 3: Thực tiễn thực hiện và giải pháp hoàn thiện các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về nguyên tắc hai cấp xét xử.

12


Ch-ơng 1
Những vấn đề lý luận về nguyên tắc hai cấp xét xử trong pháp
luật tố tụng dân sự

1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc hai cấp xét xử
trong tố tụng dân sự

1.1.1. Khái niệm nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự
Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định 22 nguyên tắc trong hoạt
động xét xử của Tòa án nhân dân (TAND). Theo đó mọi hoạt động TTDS của
các cơ quan tiến hành tố tụng khi tiến hành các hoạt động của mình phải tuân
thủ các nguyên tắc này. Đây là những t- t-ởng chủ đạo cho mọi hoạt động tố
tụng trong quá trình thực hiện các trình tự thủ tục giải quyết VADS, đồng thời
đây cũng là những nguyên tắc chi phối toàn bộ nội dung Bộ luật.
Nguyên tắc hai cấp xét xử là một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ
luật tố tụng dân sự (BLTTDS), là nguyên tắc chỉ đạo, "x-ơng sống", tạo tính
phân cấp và hệ thống trong hoạt động xét xử của ngành Tòa án nói chung và hoạt
động tiến hành TTDS nói riêng. Nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS và nguyên
tắc hai cấp xét xử trong tố tụng hình sự, hay tố tụng hành chính có những nét tơng đồng, thậm chí là quan điểm chủ đạo trong việc xét xử của TAND. Dù là

dân sự, hành chính hay hình sự, khi có kháng cáo, kháng nghị đều phải đ-ợc xét
xử hai cấp. Song bản chất mỗi trình tự tố tụng của các lĩnh vực đ-ợc thực hiện
khác nhau, bởi mỗi đối t-ợng của chúng, để nhằm giải quyết đúng đắn vụ án. Từ
đó có các trách nhiệm hành chính, hình sự hoặc dân sự.

Theo Từ điển tiếng Việt, xét xử là hoạt động "xem xét và xử
các vụ án" [43, tr. 1108].
Khái niệm "xét xử", tại Từ điển Luật học định nghĩa: "xét xử là hoạt
động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đ-a ra một phán

13


quyết về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh
Nhà n-ớc đ-a ra một phán quyết t-ơng ứng với bản chất, mức độ trái
hay không trái pháp luật của vụ việc" [51, tr. 869].
Theo từ điển Giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng, xét xử là "hoạt
động của Tòa án tại phiên tòa để xem xét các chứng cứ và căn cứ vào pháp luật,
xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết định của Tòa án" [28, tr. 576].
Nh- vậy, "xét xử" tr-ớc hết đ-ợc hiểu theo nghĩa chung nhất là hoạt động
của Tòa án - một cơ quan trong bộ máy nhà n-ớc, đ-ợc giao thực hiện chức năng tpháp của Nhà n-ớc. Xét xử là dạng hoạt động đặc biệt của Nhà n-ớc do Tòa án
tiến hành theo trình tự, thủ tục và các nguyên tắc nhất định nhằm giải quyết
khách quan, toàn diện và đầy đủ các vụ án dân sự, hình sự, hành chính - bằng
việc ra bản án nhân danh Nhà n-ớc hoặc ra quyết định pháp luật. Thẩm quyền
của việc xét xử là của Nhà n-ớc và Nhà n-ớc giao cho TAND nhân danh mình thực
hiện. Tòa án thực hiện chức năng chuyên biệt của mình là xem xét, đánh giá và
xét xử, qua đó đ-a ra những phán quyết nhân danh Nhà n-ớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam để bảo vệ những quyền và lợi ích của các chủ thể trong đó là
quyền lợi của Nhà n-ớc, tổ chức và công dân. Qua việc xét xử, Tòa án ra phán
quyết đ-ợc thể hiện cụ thể bằng một bản án hoặc quyết định có tính chất bắt

buộc, có ảnh h-ởng rất lớn tới quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia tố tụng,
đem lại hậu quả pháp lý về quyền lợi của chủ thể. Việc xét xử VADS là một dạng
hoạt động xét xử của Tòa án tiến hành theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục do pháp
luật tố tụng dân sự quy định nhằm giải quyết các vụ án dân sự bằng việc ra bản
án, quyết định.

Các quan hệ đ-ợc Tòa án giải quyết trong VADS là các quan hệ về tài
sản và nhân thân, đây là những quan hệ phức tạp và đa dạng, cùng với đó khi
tham gia tố tụng các đ-ơng sự có nghĩa vụ chứng minh nên phải cung cấp các
chứng cứ chứng minh cho quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Trong khi đó, không
phải bao giờ các đ-ơng sự cũng đều có đủ chứng cứ để chứng minh cho

14


quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, việc giải quyết nhiều
VADS bị kéo dài, đây là một bài toán đặt ra cho các nhà làm luật về
ph-ơng h-ớng giải quyết. Một trong những ph-ơng h-ớng đ-ợc đặt ra là
phải phân cấp xét xử. Việc quy định hoạt động xét xử qua nhiều
cấp khác nhau (cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm) nhằm đảm bảo sự
thận trọng, đúng đắn trong việc ra các phán quyết của Tòa án.
Nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS là t- t-ởng chủ đạo, có tính bắt
buộc chung, thể hiện quan điểm có tính định h-ớng của Nhà n-ớc trong việc tổ
chức tố tụng để xét xử các VADS đ-ợc xét xử lần đầu ở cấp sơ thẩm (cấp xét xử
thứ nhất) có thể đ-ợc xét xử lại và chỉ có thể đ-ợc xét xử lại một lần nữa
ở cấp phúc thẩm (cấp xét xử thứ hai) nếu có kháng cáo, kháng nghị theo quy

định của pháp luật TTDS, nhằm giải quyết đúng đắn, kịp thời vụ án, bảo đảm
lợi ích Nhà n-ớc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.


Để đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử, pháp luật TTDS quy định
bản án, quyết định phúc thẩm là chung thẩm. Nghĩa là bản án, quyết
định đó có hiệu lực ngay sau khi tuyên án hoặc khi ra quyết định, ng-ời
có quyền và lợi ích pháp lý liên quan đến bị án không đ-ợc kháng cáo, Viện
kiểm sát không đ-ợc kháng nghị yêu cầu xét xử lại một lần nữa. Tuy nhiên,
đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, nếu phái hiện có vi
phạm pháp luật hoặc có sai lầm trong quá trình giải quyết vụ án, có quyền
yêu cầu ng-ời có thẩm quyền xem xét ra quyết định kháng nghị theo một
thủ tục tố tụng khác để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong
BLTTDS thủ tục này đ-ợc gọi là xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực
pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
Nguyên tắc hai cấp xét xử không phải là nguyên tắc riêng của TTDS
mà là nguyên tắc chung của tố tụng Việt Nam. Bởi lẽ, hoạt động xét xử đối với
từng loại vụ, việc dù là dân sự, hình sự hay hành chính tuy có những nét riêng
biệt nhất định nh-ng chúng bao giờ cũng có điểm chung. Đây đều là

15


hoạt động áp dụng pháp luật trên cơ sở nhận thức khách quan (sự thật
của vụ án), và lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng. Thông qua hai
cấp xét xử, vụ án đ-ợc xem xét, đánh giá và xét xử ở góc độ khách
quan nhất, tránh sự phiến diện, tùy tiện khi vụ án chỉ đ-ợc xét xử ở
một cấp. Xét xử vụ án qua hai cấp là để h-ớng tới một mục đích cao
nhất là sự thật khách quan của vụ án, để ra những phán quyết về nội
dung vụ án, có tính bắt buộc đối với mọi chủ thể liên quan.
Về khái niệm xét xử sơ thẩm, tr-ớc hết, theo Đại từ điển Tiếng
Việt là "xét xử lần đầu một vụ việc ở Tòa án cấp thấp" [67, tr. 1460].
Thế nh-ng, Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học lại cho rằng sơ
thẩm là "xét xử một vụ án với t- cách là Tòa án ở cấp xử thấp nhất" [66, tr. 869].


D-ới góc độ khoa học pháp lý, tác giả Nguyễn Duy Lãm trong Từ
điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng thì cho rằng: xét xử sơ
thẩm là "xét xử lần đầu, bản án và quyết định của Tòa án sơ thẩm sau
khi tuyên án 15 ngày, nếu không có kháng cáo và kháng nghị theo quy
định của pháp luật thì sẽ có hiệu lực pháp luật thi hành" [28, tr. 482].
Quan điểm khác thì, "sơ thẩm là việc xét xử vụ án ở Tòa án cấp
tỉnh, huyện mà bản án do các Tòa án này tuyên xử có thể bị kháng cáo,
kháng nghị theo trình tự phúc thẩm trong thời hạn luật định" [27, tr. 153].

Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học của tr-ờng Đại học Luật
Hà Nội thì cho rằng, xét xử sơ thẩm là:
Xét xử lần đầu để giải quyết tất cả những vấn đề liên quan
trong vụ án. Khi xét xử sơ thẩm, Tòa án xem xét và giải quyết mọi vấn
đề của vụ án bằng việc ra bản án và quyết định. Hội đồng xét xử có
Hội thẩm nhân dân tham gia. Trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị,
bản án và quyết định sơ thẩm ch-a có hiệu lực pháp luật có thể bị
kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm [61, tr. 220-221].

16


Các quan điểm trên, ít nhiều đều khẳng định những nội
dung về bản chất của thủ tục xét xử ở cấp sơ thẩm, song ch-a thật
đầy đủ. Tuy nhiên, với khái niệm của Từ điển giải thích thuật ngữ
luật học - Tr-ờng Đại học Luật Hà Nội thì hoạt động xét xử của cấp
xét xử sơ thẩm đã cho thấy nội dung bản chất của cấp xét xử này
trong Tòa án, cũng nh- tính chất của nó tại phiên tòa sơ thẩm.
Sơ thẩm là cấp xét xử có ý nghĩa quan trọng trong thủ tục tố tụng
giải quyết VADS. Nếu xét xử ở cấp thứ nhất đúng pháp luật, có căn cứ, thì

vụ việc sẽ không bị kháng cáo, kháng nghị, hạn chế đ-ợc việc xét xử kéo
dài. Xét xử sơ thẩm là xét xử lần đầu vụ án dân sự, do Tòa án cấp sơ
thẩm đảm nhiệm. Tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án giải quyết mọi vấn đề
thuộc nội dung vụ việc bằng việc ra bản án, quyết định. Bản án, quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị để xét xử
lại ở Tòa án cấp phúc thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì "phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên xét
xử lại một vụ án do Tòa án cấp d-ới đã xử sơ thẩm mà có chống án" [66, tr. 763].

Quan điểm của Tr-ờng Đại học Luật Hà Nội về khái niệm xét
xử phúc thẩm: "Phúc thẩm dân sự là việc Tòa án cấp trên trực tiếp
xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm ch-a
có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị" [64, tr. 303].
Còn Học viện T- pháp cũng đ-a ra khái niệm phúc thẩm dân sự
nh-sau: "Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét lại vụ
án mà bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm ch-a có hiệu lực
pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị" [23, tr. 393].
Phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai. Mục đích của cấp xét xử phúc thẩm là
nhằm xem xét tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm
ch-a có hiệu lực pháp luật của TAND cấp d-ới vì có kháng cáo, kháng nghị theo
quy định của pháp luật. Tr-ờng hợp phát hiện thấy những sai lầm, thiếu

17


sót trong bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm, Hội đồng xét xử
(HĐXX) cấp phúc thẩm có quyền sửa chữa, khắc phục. Thủ tục phúc
thẩm sẽ đảm bảo cho những phán quyết của Tòa án tr-ớc khi có hiệu lực
pháp luật sẽ là những bản án, quyết định đúng đắn, chính xác.


Cùng là hoạt động xét xử của Tòa án đối với một vụ án dân sự,
song xét xử ở cấp sơ thẩm và ở cấp phúc thẩm có những đặc điểm
khác nhau và có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Thứ nhất, xét xử ở cấp sơ thẩm là xét xử lần đầu VADS. Tại cấp
xét xử sơ thẩm, Tòa án xem xét tất cả các nội dung của vụ án trên cơ sở
đơn khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu của các đ-ơng sự. Còn xét xử ở
cấp phúc thẩm là xét xử lại vụ án đ-ợc xét xử ở Tòa sơ thẩm mà bản án,
quyết định bị kháng cáo, kháng nghị. bản án, quyết định sơ thẩm.
Thứ hai, việc xét xử sơ thẩm là giải quyết các vấn đề của vụ án,
để ra quyết định quyền và nghĩa vụ của các đ-ơng sự trong vụ án. Trong
khi đó, mục đích của việc xét xử phúc thẩm là nhằm khắc phục, sửa
chữa những sai lầm có thể có trong những bản án, quyết định ch-a có
hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích Nhà n-ớc, lợi ích công cộng.
Thứ ba, hoạt động xét xử tại cấp sơ thẩm dựa trên cơ sở đơn khởi
kiện của nguyên đơn khi họ có căn cứ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp
của mình bị xâm phạm và yêu cầu Tòa án giải quyết. Hoạt động xét xử tại
cấp phúc thẩm dựa trên cơ sở kháng cáo, kháng nghị, khi ng-ời kháng cáo,
kháng nghị cho rằng việc xét xử ở cấp sơ thẩm không đúng, xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của đ-ơng sự. Vì vậy, nội dung kháng cáo,
kháng nghị quy định phạm vi xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm. Tuy nhiên,
phúc thẩm là việc xét xử lại VADS mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử. Vì
vậy Tòa án cấp phúc thẩm không thể xét xử v-ợt ra ngoài phạm vi những
vấn đề mà cấp sơ thẩm đã xem xét và quyết định.

18


Việc giải quyết VADS theo trình tự, thủ tục TTDS là hoạt động áp dụng
pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, ng-ời tiến hành tố tụng. Để đảm

bảo hoạt động này có hiệu quả và đúng pháp luật, một yêu cầu tất yếu đặt
ra là các cơ quan tiến hành tố tụng, ng-ời tiến hành tố tụng và ng-ời tham gia
tố tụng phải hoạt động trong khuôn khổ các nguyên tắc của luật TTDS. Đó là
những quy định pháp luật cơ bản có tính bắt buộc chung, xác định ph-ơng
châm và định h-ớng cho toàn bộ quá trình tố tụng hay một số hoạt động tố
tụng nhất định, thể hiện bản chất của chế độ Nhà n-ớc, đặc tr-ng của
TTDS, đ-ợc quy định trong BLTTDS và các văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan. Việc xét xử theo hai cấp trong TTDS là một vấn đề cơ bản của
Luật TTDS, bảo đảm việc xét xử VADS đ-ợc đúng đắn nên đã đ-ợc quy định
là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS n-ớc ta.

Theo các công trình nghiên cứu khoa học đã đ-ợc công bố thì
"Nguyên tắc của luật tố tụng dân sự Việt Nam là những t- t-ởng pháp lý
chỉ đạo, định h-ớng cho việc xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân
sự và đ-ợc ghi nhận trong các văn bản pháp luật tố tụng dân sự" [60, tr. 37].

Từ những phân tích trên, có thể kết luận: Nguyên tắc hai cấp
xét xử trong tố tụng dân sự là t- t-ởng chỉ đạo, có tính bắt buộc chung,
thể hiện quan điểm có tính định h-ớng của Nhà n-ớc trong việc tổ
chức hoạt động để xét xử các vụ án dân sự, đ-ợc quy định trong pháp
luật tố tụng dân sự. Trong đó xác định một vụ án dân sự đ-ợc xét xử
lần đầu ở cấp sơ thẩm (cấp xét xử thứ nhất) và có thể đ-ợc xét xử lại ở
cấp phúc thẩm (cấp xét xử thứ hai) nếu có kháng cáo, kháng nghị trong
thời hạn luật định, nhằm giải quyết đúng đắn, kịp thời vụ việc, bảo
đảm lợi ích Nhà n-ớc, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan,
tổ chức.
1.1.2. ý nghĩa của nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự
Trong quan hệ dân sự, khi một chủ thể có quyền và lợi ích hợp pháp bị
xâm phạm mà tự mình không tự bảo vệ đ-ợc thì có quyền khởi kiện yêu cầu


19


Tòa án bảo vệ. Theo Hiến pháp, Luật tổ chức TAND thì Tòa án là cơ
quan duy nhất thực hiện chức năng xét xử, có trách nhiệm giải quyết
các tranh chấp dân sự. Tòa án là cơ quan thực hiện chức năng xét xử,
giải quyết các tranh chấp dân sự, mục đích đều h-ớng tới sự công
bằng, cả chủ thể có quyền, lợi ích cần đ-ợc bảo vệ và Nhà n-ớc đều
mong muốn Tòa án - cơ quan công quyền có quyền nhân danh Nhà
n-ớc thực hiện chức năng xét xử ra các phán quyết công minh, trả lại
công bằng cho các chủ thể và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Thực chất của TTDS là quá trình Tòa án giải quyết các mâu
thuẫn về quyền và lợi ích của các chủ thể trong quan hệ pháp luật nội
dung. Mục đích của TTDS là nhằm lập lại trật tự của quan hệ pháp luật
có tranh chấp trên cơ sở các nguyên tắc TTDS để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các chủ thể và lợi ích của Nhà n-ớc. Nguyên tắc hai cấp xét
xử chính là sự bảo đảm cho vấn đề công bằng, dân chủ nói chung và
trong việc xét xử VADS nói riêng, việc quy định và thực hiện đúng
nguyên tắc này trong TTDS có ý nghĩa về pháp lý và chính trị xã hội.

1.1.2.1. ý nghĩa pháp lý
Nguyên tắc hai cấp xét xử đảm bảo cho việc xét xử của Tòa án đ-ợc
chính xác, đúng đắn. Việc quy định nguyên tắc là cơ sở pháp lý cho các đ-ơng
sự là ng-ời có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án kháng cáo, Viện kiểm
sát kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án để xét xử lại ở cấp phúc
thẩm, giúp kịp thời sửa chữa sai lầm hoặc vi phạm pháp luật mà cấp sơ thẩm
mắc phải, nhờ đó mà chất l-ợng xét xử ti các cp xét x c nâng cao. Việc quy
định một VADS có thể đ-ợc xét xử ở hai cấp cũng nh- quy định về việc bản án,
quyết định sơ thẩm có thể bị Tòa án cấp phúc thẩm sửa, hủy sẽ kịp thời sửa
chữa đ-ợc những sai lầm hoặc các vi phạm pháp luật mà cấp sơ thẩm đã mắc

phải, góp phần nâng cao trách nhiệm của HĐXX sơ thẩm, giúp họ có thái độ thận
trọng và có trách nhiệm hơn tr-ớc khi đ-a ra phán quyết

20


của mình. Thông qua hoạt động xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc
thẩm kịp thời chỉ ra những sai lầm, thiếu sót mà Tòa án cấp sơ thẩm
đã mắc phải, tự mình sửa chữa những sai lầm, khắc phục những thiếu
sót đó hay đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm sửa chữa những sai lầm của
mình cũng chính là một hình thức h-ớng dẫn áp dụng pháp luật có hiệu
quả to lớn giữa Tòa án cấp phúc thẩm với Tòa án cấp sơ thẩm. Nhờ đó
mà chất l-ợng xét xử tại các Tòa án ngày càng đ-ợc nâng cao.
Việc xét xử lại vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử sẽ giúp tìm
ra nguyên nhân dẫn đến những sai lầm hay những vi phạm pháp luật trong
việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và Tòa
án nói riêng. Từ đó giúp tìm ra các giải pháp thích hợp để sửa chữa, khắc
phục về lập pháp cũng nh- về việc h-ớng dẫn áp dụng pháp luật, tổ chức
các cơ quan tiến hành tố tụng nhất là hoàn thiện tổ chức Tòa án đáp ứng
yêu cầu của nguyên tắc hai cấp xét xử và yêu cầu cải cách t- pháp.

1.1.2.2. ý nghĩa chính trị, xã hội
Vic quy nh về thc hiện nguyên tc hai cp xét x trong TTDS áp
ng yêu cu ca Nhà nc pháp quyn trong vic bo m các quyn và li
ích chính áng ca công dân, bo m dân ch, th hin bn cht Nhà n-ớc
ca dân, do dân và vì dân, giúp phn bo m công bng xã hi, nâng cao
hiu qu, giáo dc pháp lut cng c lòng tin ca nhân dân vào Tòa án, nâng
cao uy tín ca các c quan tin hành t tng nói chung và Tòa án nói riêng.
- Về chính trị, trong xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,


tổ chức, của cộng đồng đ-ợc bảo vệ thì trật tự xã hội, trật tự chính trị mới có cơ
sở để ổn định. Việc quy định và thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong
TTDS đáp ứng các yêu cầu của Nhà n-ớc pháp quyền đối với việc bảo đảm các
quyền và lợi ích chính đáng của công dân, đảm bảo dân chủ, đảm bảo tính
chính xác, đúng pháp luật, là sự thể hiện nhận thức khoa học về hoạt động xét
xử của Tòa án phù hợp với nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhận

21


thức thế giới. Việc quy định một VADS có thể đ-ợc xét xử ở hai cấp xét xử
khác nhau là phù hợp quy luật của nhận thức nhằm đảm bảo tính đúng
đắn, khách quan của hoạt động xét xử. Nguyên tắc hai cấp xét xử thể
hiện thái độ thận trọng của Nhà n-ớc trong việc đ-a ra phán xét quyết
định về tài sản và nhân thân, về số phận pháp lý, quyền lợi và tài sản,
danh dự của đ-ơng sự, là sự thể hiện rõ ràng nhất bản chất của Nhà n-ớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà n-ớc của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Trong đó vấn đề tôn trọng và bảo vệ các quyền
và lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân là một nội dung quan trọng
của Nhà n-ớc pháp quyền. Tòa án với nhiệm vụ thực hiện quyền t- pháp của
Nhà n-ớc, trong phạm vi hoạt động của mình phải xét xử đúng đắn thực tế
khách quan về sự thật của vụ việc, giải quyết triệt để các tranh chấp, áp
dụng đúng pháp luật, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Hơn bất kỳ một dạng hoạt động nào của Nhà n-ớc, hoạt
động xét xử phản ánh trực tiếp và sâu sắc bản chất của Nhà
n-ớc, sai lầm của Tòa án trong việc giải quyết các vụ án chính
là sai lầm của Nhà n-ớc. Vì thế đòi hỏi xét xử phải chính xác,
công minh, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân [29].


Đây cũng là một hình thức thực hiện có hiệu quả chức năng
giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp d-ới.
Việc quy định và thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS thể
hiện sự tôn trọng và đảm bảo thực hiện một cách có hiệu quả các quyền con ngời trong lĩnh vực t- pháp, nhất là các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp, là một
lĩnh vực mà từ x-a đến nay bất kỳ một quốc gia nào cũng phải thừa nhận là vô
cùng quan trọng của đời sống xã hội. Việc quy định và thực hiện nguyên tắc hai
cấp xét xử trong TTDS tạo điều kiện để các chủ thể tham gia tố tụng có thể trực
tiếp bảo vệ quyền và lợi ích của mình nhiều lần tại các phiên tòa xét xử khác
nhau. Đồng thời với việc đảm bảo quyền lợi của ng-ời

22


tham gia tố tụng, việc xét xử ở hai cấp cũng giúp cho họ nhận thức rõ trách
nhiệm của mình trong vụ án để có thái độ hợp tác tích cực với cơ quan nhà
n-ớc có thẩm quyền trong việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý của mình.
Quy định nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS với nội dung cơ bản là một
VADS có thể đ-ợc xét xử và chỉ có thể xét xử ở hai cấp xét xử là cấp sơ
thẩm và cấp phúc thẩm, giúp tránh đ-ợc tình trạng vụ án đ-ợc (bị) xét ở quá
nhiều cấp làm cho quá trình tố tụng kéo dài, ảnh h-ởng tới hiệu lực của bản
án, quyết định nhất là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
- Về xã hội, sự công bằng, bình đẳng là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam. Mọi công dân đều bình đẳng tr-ớc pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức đều
bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và các vấn đề
khác. Trong TTDS các đ-ơng sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.

Việc quy định và thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử trong TTDS góp
phần rất lớn vào việc đảm bảo công bằng xã hội, nâng cao hiệu quả giáo dục ý
thức pháp luật và phòng ngừa tội phạm, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân
vào hoạt động xét xử của Tòa án, nâng cao uy tín của của các cơ quan tiến hành

tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng. Bởi lẽ, việc xét xử phải nhằm đến mục
đích cao nhất là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, đ-a ra các phán quyết
chấm dứt các tranh chấp dân sự. Do vậy sẽ là không công bằng nếu nh- t-ớc bỏ
quyền đ-ợc bảo vệ quyền và lợi ích của đ-ơng sự, ng-ời tham gia tố tụng có
quyền và lợi ích liên quan đến vụ án một lần nữa tại một phiên tòa xét xử khác,
nếu nh- ch-a thể có các điều kiện thực tế để khẳng định hay bảo đảm rằng,
phán quyết của lần xét xử đầu tiên là hoàn toàn chính xác. Với việc quy định và
thực hiện nguyên tắc xét xử công khai ở cả cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm, ng-ời
công dân có điều kiện biết rõ về hoạt động xét xử. Mặt khác, khi biết đ-ợc kết
quả xét xử phúc thẩm, thấy đ-ợc sự đánh giá về tính đúng đắn hay không đúng
đắn của xét xử sơ thẩm, ng-ời dân mới thực hiện đ-ợc triệt để quyền giám sát
hoạt động xét xử của Tòa án các cấp. Trên cơ sở đó mới có thái độ chính xác

23


nhất về tính khách quan của hoạt động này trong việc bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp, chính đáng của công dân, lợi ích chung của xã hội, cộng đồng.
1.2. Cơ sở của nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng
dân sự

1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng

dân sự
Thứ nhất, xuất phát từ bản chất chế độ nhà n-ớc xã hội chủ
nghĩa ở n-ớc ta.
Nhà n-ớc ta là Nhà n-ớc của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, điều
này đã đ-ợc Hiến pháp 1992 trang trọng ghi nhận. Trong bộ máy nhà n-ớc, Tòa án
là cơ quan là cơ quan t- pháp, thực hiện chức năng xét xử của Nhà n-ớc. Tòa án có
nhiệm vụ bảo vệ pháp chế, chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của

nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà n-ớc, của tập thể, tài sản, nhân phẩm của
công dân. Để có thể đảm bảo giải quyết đúng đắn một vụ án dân sự, nguyên
tắc cơ bản của hoạt động xét xử là Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
Bản chất chế độ n-ớc ta là bảo đảm bảo vệ quyền lợi chính đáng của
công dân, tạo điều kiện cho mọi ng-ời đều có quyền phát huy trí tuệ, tài năng
của mình. Nhà n-ớc không cho phép bất cứ ai và hoạt động của các cơ quan nhà
n-ớc, tổ chức nào đ-ợc xâm phạm tới những quyền lợi đó. Việc xét xử của Tòa án
cũng không nằm trong ngoại lệ, bằng hoạt động xét xử Tòa án phải bảo vệ đ-ợc
quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Nguyên tắc hai cấp xét xử chính là cơ
chế bảo vệ quyền, lợi ích của các chủ thể đã đ-ợc pháp luật ghi nhận.
Thứ hai, xuất phát từ bản chất của hoạt động t- pháp mà Tòa án thực hiện.
Hoạt động t- pháp của Tòa án là hoạt động bảo vệ pháp luật, bảo vệ công
lý. Trong tiếng Anh, t- pháp đ-ợc gọi là "justice", nó vừa có nghĩa là t-pháp, vừa có
nghĩa là công lý. Nói đến t- pháp là nói đến công lý, là việc phân xử và phán xét
các tranh chấp trong nhân dân hợp với pháp luật và công lý.

24


Chính vì Tòa án là một cơ quan thực hiện hoạt động T- pháp - hoạt động
nhân danh công lý thì những phán quyết của Tòa án phải giải quyết đúng
đắn vụ án. Tuy vậy, không phải bao giờ, việc xét xử của Tòa án một lần đã
đúng, đã đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ án, nó cần phải đ-ợc xem xét,
kiểm tra lại ở một Tòa án cấp trên. Xét xử hai cấp cũng chính là hoạt động
kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử của Tòa án cấp d-ới, nhằm đảm bảo
tính khách quan nhất cho một phán quyết nhân danh công lý của Tòa án.
Bản án, quyết định của Tòa án là một văn bản kết thúc quá trình xét xử
một vụ án dân sự, phản ánh trình độ, năng lực của ng-ời Thẩm phán cũng
nh- thái độ công tâm của họ tr-ớc nhiệm vụ đ-ợc Nhà n-ớc giao phó. Với tcách là một quyết định đem lại cho các đ-ơng sự một hậu quả pháp lý, nếu
bản án đúng đắn sẽ bảo vệ đ-ợc quyền và lợi ích hợp pháp của đ-ơng sự.


Thứ ba, xuất phát từ yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đ-ơng sự.
Với bản chất là những quy tắc xử sự chung, có tính bắt buộc trong xã
hội và đảm bảo thực hiện bằng sự c-ỡng chế Nhà n-ớc. Pháp luật là khuôn khổ
pháp lý bắt buộc mọi ng-ời phải tuân theo trong trật tự xã hội. Pháp luật n-ớc ta
là pháp luật của Nhà n-ớc xã hội chủ nghĩa, chính vì vậy nó là pháp luật của
nhân dân, để bảo vệ mọi công dân trong xã hội. Nguyên tắc hai cấp xét xử
trong TTDS dựa trên thực tế giải quyết các vụ việc của Tòa án. Đảm bảo cho
việc giải quyết các vụ án đ-ợc đúng đắn, mọi phán quyết của Tòa án tr-ớc khi
có hiệu lực phải đ-ợc xem xét một cách thận trọng bởi những ng-ời có trình độ.
Một phiên tòa xét xử VADS đ-ợc phát sinh bởi yêu cầu của đ-ơng sự, thông qua
đơn khởi kiện và các hồ sơ pháp lý chứng minh cho vụ việc bị tranh chấp. Do
vậy, Tòa án có thể là cơ quan đầu tiên nh-ng cũng là cơ quan cuối cùng giải
quyết các tranh chấp VADS, vì tr-ớc khi đến Tòa án, các đ-ơng sự có thể đã
trải qua sự giải quyết của các tổ chức, cơ quan nhà n-ớc khác. Song những kết
quả của những tổ chức, cơ quan này, và chính sự thỏa thuận

25


của họ không thỏa mãn đ-ợc yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp. Và
Tòa án là cơ quan đ-ợc nguyên đơn chọn là cơ quan phân định công lý
và lẽ phải. Thế nh-ng, Tòa án khi xét xử cũng không phải bao giờ xét xử
một lần cũng đúng, một lần cũng đã làm thỏa mãn các đ-ơng sự. Vì vậy
phải có hai cấp xét xử. Nguyên tắc hai cấp xét xử để đảm bảo cho đơng sự bảo vệ đ-ợc quyền, lợi ích hợp pháp của họ tr-ớc Tòa án.

Thứ t-, xuất phát từ yêu cầu của hoạt động xét xử
Theo nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, ngoài quyền
kháng cáo của đ-ơng sự trong TTDS, thì Viện kiểm sát còn có quyền kháng

nghị bản án. Bởi lẽ, dù các đ-ơng sự không kháng cáo, nh-ng nếu việc xét xử
sai thì cần phải sửa lại bản án để đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đ-ơng sự và lợi ích của Nhà n-ớc.
Việc xét xử vụ án qua hai cấp phải đảm bảo điều kiện là vụ án ch-a có
hiệu lực, bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn luật định. Việc xét xử qua hai
cấp: cấp thứ nhất là cấp sơ thẩm và cấp thứ hai là cấp phúc thẩm do Tòa án cấp
trên của Tòa án sơ thẩm thực hiện. Với cấp sơ thẩm, thời hạn để bản án có hiệu
lực pháp luật là trong thời hạn pháp luật quy định không có kháng cáo, kháng nghị.
Còn ở cấp phúc thẩm, bản án, quyết định là chung thẩm và có hiệu lực pháp
luật ngay. Dù là hai cấp xét xử, cấp sơ thẩm thực hiện chức năng là cấp xét xử
thứ nhất có vai trò quyết định trong việc chấm dứt giải quyết các tranh chấp.
Tòa án cấp phúc thẩm là cấp xét xử thứ hai đảm bảo cho việc giải quyết vụ án
luôn đúng đắn. Mục đích của xét xử hai cấp là nhằm h-ớng tới đảm bảo sự thật
khách quan của vụ án và các quyền, lợi ích của đ-ơng sự đ-ợc bảo vệ.

1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng

dân sự
Thứ nhất, xuất phát chức năng, nhiệm vụ của Tòa án.
Tòa án nhân dân là cơ quan bảo vệ pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ
xét xử các vụ án và giải quyết các việc khác để bảo vệ lợi ích của Nhà n-ớc,

26


bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Nguyên tắc hai
cấp xét xử là cơ sở thực hiện đúng đ-ợc chức năng, nhiệm vụ xét xử của TAND.
Khi các bên tranh chấp, khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết, từ đó, phát sinh
VADS tại Tòa án. Vụ án dân sự đ-ợc giải quyết lần đầu tại phiên tòa sơ thẩm, đây
là cấp xét xử đầu tiên. Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án, quyết định của TAND có

thể không đúng, không làm hài lòng các đ-ơng sự, Viện kiểm sát dẫn đến kháng
cáo hoặc kháng nghị của ng-ời có thẩm quyền. Để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ của mình thì Tòa án phải xét xử lần hai tại cấp phúc thẩm.

Phúc thẩm là một cấp xét xử để thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử.
Tuy vậy, việc xét xử phúc thẩm chỉ đặt ra khi đ-ơng sự, ng-ời đại diện của
đ-ơng sự hoặc Viện kiểm sát không đồng ý với bản án, quyết định sơ thẩm
kháng cáo hoặc kháng nghị đối với bản án, quyết định ch-a có hiệu lực pháp
luật yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xem xét lại vụ án. Quyền kháng cáo của
đ-ơng sự, quyền kháng nghị của Viện kiểm sát thể hiện thái độ không chấp
nhận phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm, là cơ sở để xét xử phúc thẩm. Do
đó, dù bản án, quyết định dân sự sơ thẩm đ-ợc coi là không đúng, nh-ng nếu
không có kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án cấp trên cũng không tự mình xét
xử lại vụ án mà Tòa án cấp d-ới đã xử theo thủ tục phúc thẩm.

Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn thi hành pháp luật.
Sự hình thành và phát triển "nguyên tắc hai cấp xét xử" cùng với các
nguyên tắc khác trong TTDS gắn liền với sự hình thành và phát triển của các t- tởng dân chủ và tiến bộ trong lịch sử xã hội loài ng-ời. Để đảm bảo dân chủ và
công bằng, bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đồng
thời tạo sự thống nhất ở mức độ nhất định trong nhận thức và áp dụng pháp luật
giữa các Thẩm phán, các cấp Tòa án với nhau, thì việc thực hiện nguyên tắc hai
cấp xét xử là cần thiết. Việc xét xử lại VADS của Tòa án cấp phúc thẩm trong trờng hợp bản án, quyết định sơ thẩm dân sự của Tòa án cấp d-ới ch-a có hiệu lực
pháp luật khi có yêu cầu (kháng cáo) của đ-ơng sự, hoặc yêu cầu

27


(kháng nghị) của Viện kiểm sát bảo đảm đ-ợc việc bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của các cá nhân, tổ chức và lợi ích của Nhà n-ớc tr-ớc Tòa án.
Nguyên tắc hai cấp xét xử không đ-ợc quy định là một nguyên tắc

trong pháp luật n-ớc ta trong một thời gian dài, nh-ng nó lại đ-ợc ghi nhận và
thực hiện cụ thể trong hoạt động của Tòa án và các văn bản pháp luật. Trong
Sắc lệnh 51/SL ngày 17/4/1946 của Nhà n-ớc Việt Nam dân chủ cộng hòa
quy định về sự phân công giữa các nhân viên trong Tòa án nh- sau: "Tòa
án đệ nhị cấp có thẩm quyền phúc thẩm đối với các bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm. Tòa án th-ợng thẩm có quyền chung thẩm các bản
án, quyết định sơ thẩm của Tòa án đệ nhị cấp" [4].
Năm 1955, nguyên tắc hai cấp xét xử đ-ợc chính thức ghi nhận đầu
tiên tại Thông t- số 1459/HCTP của Bộ T- pháp ngày 19/81955: "Nguyên tắc hai
cấp xét xử là một trong những nguyên tắc tố tụng của nhân dân cần phải đ-ợc
đảm bảo". Và đến năm 1960 nguyên tắc hai cấp xét xử đ-ợc ghi nhận chính
thức trong Luật tổ chức TAND năm 1960: Theo Điều 9 Luật tổ chức TAND
1960 quy định "Tòa án nhân nhân thực hành hai cấp xét xử". Đồng thời, cũng
tại Điều 9, tính chất của nguyên tắc hai cấp xét xử đ-ợc quy định cụ thể:

Đ-ơng sự có quyền chống bản án của Tòa án nhân
dân xử sơ thẩm lên Tòa án nhân dân một cấp, Viện kiểm
1.

sát nhân dân cùng cấp và trên một cấp có quyền kháng nghị
bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân.
Nếu đ-ơng sự không chống án hoặc Viện kiểm sát
không kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy định thì
2.

bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân
địa ph-ơng sẽ có hiệu lực pháp luật.
3.Bản án và quyết định phúc thẩm của các Tòa án
nhân dân, bản án và quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân
dân tối cao đều là chung thẩm và có hiệu lực pháp luật... [47].


28


×