Tải bản đầy đủ (.docx) (113 trang)

Mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong đời sống xã hội việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.72 MB, 113 trang )

Đại học quốc gia hà nội
Khoa Luật

Nguyễn Thị Bắc

Mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước
trong đời sống xã hội việt nam hiện nay

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2009


M

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN

VÀ MỐI QUAN

1.1.

Khái quát chung về pháp
khác biệt giữa chúng

1.1.1.


Khái quát chung về pháp

1.1.2.

Khái quát chung về hươ

1.1.3.

Sự tương đồng và khác b

1.1.3.1.

Sự tương đồng giữa phá

1.1.3.2.

Sự khác biệt giữa pháp l

1.2.

Mối quan hệ giữa pháp l

1.3.

Sự kết hợp giữa pháp luậ
các quan hệ xã hội

Chương 2: THỰC TRẠNG

PHÁP LUẬT V


2.1.

Thực trạng pháp luật, hư
ở Việt Nam hiện nay

2.1.1.

Sơ lược về tình hình phá
hiện nay

2.1.2.

Thực trạng mối quan hệ
đời sống xã hội Việt Nam


2.1.2.1.

Những ưu điểm

2.1.2.2.

Một số tồn tại, hạn chế

2.2.

Một số giải pháp nâng
pháp luật, hương ước v
chỉnh các quan hệ xã h


2.2.1.

Nhận thức đúng vị trí,
và hương ước trong đờ

2.2.2.

Không ngừng hoàn thi
và hương ước

2.2.3.

Đẩy mạnh công tác tuy
các yếu tố truyền thống

2.2.4.

Tổ chức tốt việc thực h

2.2.5.

Kiểm tra, giám sát việc
và hương ước trong xã
vi vi phạm pháp luật
KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU TH
PHỤ LỤC



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Pháp luật từ khi ra đời cho tới ngày nay luôn luôn được coi là công cụ
chủ yếu để quản lý nhà nước, duy trì trật tự xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, với
chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân thì vai trò của pháp luật luôn được xác định là công cụ chủ yếu, cơ bản
để quản lý xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh pháp luật còn rất nhiều công cụ quản
lý xã hội khác được Nhà nước thừa nhận, khuyến khích áp dụng, trong đó có
hương ước.
Hương ước là di sản văn hóa đặc sắc của nhân dân Việt Nam. Một
phần tâm hồn thuần hậu, chất phác và rất đỗi bao dung của làng quê Việt đã
được ghi lại trong hương ước. Hương ước là tấm gương phản ánh trung thực
mọi sinh hoạt của cộng đồng làng xã xưa, từ cái hay đến cái dở, cả mặt tích
cực lẫn điều hạn chế chốn hương thôn. Qua đó, chúng ta có thể thấy lịch sử
hình thành và phát triển của làng xã Việt Nam. Điều này có ý nghĩa thực tiễn
sâu sắc, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi quá trình xây dựng nông thôn
mới được Đảng và Nhà nước quan tâm đẩy mạnh. Bởi lẽ, muốn hiểu thực
trạng nông thôn nhằm đưa ra chiến lược phát triển lâu dài, phù hợp, không thể
không bắt đầu từ việc nghiên cứu đặc điểm của làng xã trong quá khứ cũng
như tới hiện tại ngày nay.
Khi làng Việt xưa với cây đa, bến nước, sân đình, với lũy tre xanh
bình dị dần lui vào quá khứ, chúng ta mới giật mình nhận ra, bên cạnh đổi
thay tích cực của nền kinh tế thị trường, biết bao vẻ đẹp thuần khiết nơi thôn
quê đã không còn nữa. Xây dựng nền kinh tế năng động là quan trọng song để
có được sự phát triển bền vững, hài hòa cần phải đi đôi với việc giữ gìn và
phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của tổ tiên. Lớp người xưa ngày càng

1



vắng bóng, bức tranh làng Việt chỉ có thể được khôi phục nhờ tư liệu lịch sử,
trong đó đáng chú ý là các hương ước.
Trong những năm gần đây, cuộc vận động xây dựng làng văn hóa, gia
đình văn hóa trở thành phong trào quần chúng rộng khắp cả nước. Vấn đề
nghiên cứu hương ước được đặt ra ngày càng cấp thiết, nhằm kế thừa và lưu
giữ những phong tục đẹp, hợp thời đại, đưa vào quy ước làng văn hóa mới.
Đó là việc làm đầy công phu, khó nhọc, "gạn đục, khơi trong" cốt để chắt lọc
ra những gì hữu ích cho hiện tại và tương lai.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong thực tế đời
sống xã hội Việt Nam hiện nay vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để,
thỏa đáng cả về mặt lý luận và mặt thực tiễn. Vì thế, các hoạt động xây dựng,
tổ chức thực hiện cũng như hiệu quả điều chỉnh, quản lý của pháp luật và
hương ước trong thực tế còn rất nhiều hạn chế, bất cập. Việc nghiên cứu một
cách khoa học nhằm làm rõ mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước đang
trở thành một vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với mục tiêu xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam. Thông qua quá trình nghiên cứu, chúng ta sẽ
thấy rõ hơn vai trò, mối quan hệ, hiệu quả điều chỉnh cũng như những vấn đề
còn tồn tại của pháp luật và hương ước trong thực tế đời sống để từ đó có
những cái nhìn đúng đắn, có những giải pháp hiệu quả hơn, thiết thực hơn
nhằm xây dựng, thực hiện pháp luật và hương ước mang lại vai trò đích thực
là quản lý xã hội một cách tốt nhất.
Tìm hiểu mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong đời sống xã
hội Việt Nam hiện nay là đề tài được ấp ủ trong tác giả luận văn từ khá lâu
cũng bởi xuất phát từ những lý do đã nêu trên.
Đồng thời, qua nghiên cứu vấn đề giúp bản thân người viết đi từ hiểu
đến thêm yêu, thêm gắn bó với mảnh đất quê hương, nơi sinh thành, nơi cất
giữ những kỷ niệm tuổi thơ êm đềm. Bởi bên cạnh đó, sự vươn lên mạnh mẽ
của nền kinh tế trong thời gian gần đây đã khiến những giá trị văn hóa lịch sử


2


ấy đứng trước nguy cơ bị xói mòn nghiêm trọng. Khi thực hiện đề tài này, tác
giả mong muốn được góp một phần công sức nhỏ bé vào việc ngăn chặn nguy
cơ ấy.
Qua khảo sát thực tế, tác giả nhận thấy cán bộ cấp xã, thôn - những
người được giao trọng trách soạn thảo quy ước làng văn hóa mới, hoặc không
có khái niệm gì về hương ước cổ truyền hoặc cho rằng nghiên cứu nó là điều
không cần thiết. Tư liệu mà họ căn cứ vào là pháp luật của Nhà nước và nếp
sinh hoạt hiện nay trong làng xã. Kết quả là nhiều hương ước, quy ước mới
được ban hành mang nặng tính áp đặt và gán ghép. Thực trạng đáng buồn trên
đây càng thôi thúc tôi lựa chọn đề tài này với mục đích: bước đầu làm sáng tỏ
các giá trị đích thực của hương ước để kế thừa những kinh nghiệm quý báu
phục vụ công cuộc xây dựng quê hương.
Bên cạnh những lý do trên, qua luận văn tác giả hy vọng góp thêm tài
liệu để tìm hiểu làng xã Việt Nam trên các mặt văn hóa, phong tục, quản lý xã
hội... Từ đó có thể lý giải một số vấn đề về nông thôn và nông dân Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới. Vì nghiên cứu về lịch sử làng xã, về nông thôn và nông
dân Việt Nam rất cần có những tài liệu gốc như hương ước.
Cái tâm đã sẵn, song khả năng, thời gian và điều kiện mọi mặt còn
hạn chế nên mặc dù người viết hết sức cố gắng giải quyết các vấn đề đặt ra,
luận văn vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp
ý của các thầy cô và bạn bè đồng nghiệp, để tác giả được học hỏi và nâng cao
trình độ hiểu biết của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Là đề tài hấp dẫn cả về khoa học, lý luận và thực tiễn, pháp luật và
hương ước đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà khoa học ở các lĩnh vực
khác nhau như: lịch sử, dân tộc học, văn hóa, pháp luật, ngôn ngữ... Các công
trình nghiên cứu hương ước hoặc đã được tập hợp thành sách hoặc còn in rải


3


rác trên các báo, tạp chí chuyên ngành (Nghiên cứu lịch sử, Dân tộc học, Nhà
nước và pháp luật...).
Pháp luật và hương ước được tìm hiểu ở rất nhiều góc độ; có khi nó là
đối tượng nghiên cứu trực tiếp, cũng có khi hương ước trở thành dẫn chứng
không thể thiếu được để minh họa cho một khía cạnh nào đó trong đời sống
làng xã.
Các công trình nghiên cứu trực tiếp về pháp luật và hương ước có
thể chia thành 3 nhóm chính sau:
1.

Các công trình nghiên cứu chuyên sâu, gồm các sách và bài báo đã

được công bố như: hai cuốn sách của tác giả Bùi Xuân Đính: Lệ làng phép
nước, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1985 và Hương ước và quản lí làng xã, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, đã nêu lên mối liên hệ cũ và mới trong nội
dung hương ước xưa và nay đồng thời tác giả cũng nêu rõ những vấn đề mà
hương ước hiện nay cần giải quyết; Lê Đức Tiết: Về hương ước lệ làng, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, cho thấy một cái nhìn khá toàn diện về
hương ước trong suốt quá trình từ khi hình thành, mối quan hệ với pháp luật
cũng như vai trò của hương ước trong đời sống xã hội nông thôn Việt Nam;
Hương ước trong quá trình thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt Nam hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, do Đào Trí Úc chủ biên là tâm huyết
của tập thể các tác giả về hương ước xưa và nay, mối quan hệ giữa pháp luật
và hương ước đồng thời nêu bật lên vị trí, vai trò của hương ước với việc thực
hiện dân chủ ở nông thôn hiện nay; Vũ Duy Mền: Tìm lại làng Việt xưa, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2006. Nhiều bài nghiên cứu có giá trị về hương

ước đã được giới thiệu trên các báo, tạp chí. Tác giả Vũ Duy Mền qua loạt bài
in trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4/1982, số 3 + 4/1989, số 1/1993 đã xác
định thuật ngữ khoán ước, hương ước, giới thiệu nội dung của nó, trình bày
nguồn gốc và điều kiện xuất hiện hương ước trong làng xã vùng đồng bằng và
trung du Bắc Bộ.

4


Gần đây, cuộc vận động xây dựng và thực hiện quy ước văn hóa được
đẩy mạnh đã tạo điều kiện cho việc nghiên cứu hương ước thuận lợi hơn. Mặt
khác, xu thế toàn cầu hóa trên mọi lĩnh vực mở ra cơ hội cho các nhà khoa
học Việt Nam tiếp cận với nhiều nguồn kiến thức mới. Một số học giả đã dày
công nghiên cứu, đặt hương ước làng Việt trong mối quan hệ tương đồng và
dị biệt với "hương qui" của Trung Quốc, "luật làng" của Nhật Bản. Như cuốn
Làng xã Việt Nam một số vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001, của Phan Đại Doãn, hay công trình Hương ước làng
xã Bắc Bộ Việt Nam với luật làng Kanto Nhật Bản (thế kỉ XVII - XIX), của
Viện Sử học, Hà Nội, 2001, do Vũ Duy Mền chủ biên.
2.

Các công trình chuyên sưu tầm và giới thiệu hương ước, chủ yếu là

tập hợp các bản hương ước theo phạm vi từng tỉnh như: Ngô Đức Thịnh, Chu
Thái Sơn, Nguyễn Hữu Thấu với: Luật tục Ê-đê, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996; Võ Quang Trọng, Phạm Quỳnh Phương giới thiệu về: Hương ước Hà
Tĩnh, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tĩnh, 1996; cuốn: Hương ước Nghệ An, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, do Ninh Viết Giao chủ biên; Hương ước Thái
Bình, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2000, do Nguyễn Thanh biên soạn.


3.

Các luận án, luận văn, khóa luận về hương ước như: Luận án Phó

tiến sĩ Lịch sử năm 1996 của Bùi Xuân Đính với đề tài: Về một số hương ước
làng Việt ở đồng bằng Bắc Bộ, đã trình bày những nội dung cơ bản, vai trò và
tác động của hương ước trong quản lí làng xã; Luận án Tiến sĩ Luật học năm
2003 của Nguyễn Huy Tính với đề tài: Hương ước mới - một phương tiện góp
phần quản lí xã hội ở nông thôn Việt Nam hiện nay, đã phân tích những biến
đổi lịch sử từ hương ước làng xã cổ truyền đến hương ước mới, khẳng định
hương ước mới là phương tiện tự quản, tự điều chỉnh hữu hiệu của làng xã, có
quan hệ biện chứng với pháp luật; đồng thời tác giả cũng đưa ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện hương ước mới.
Một số luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa học đã chọn hương
ước làm đối tượng nghiên cứu như: Hoàng Hoa Vinh với đề tài: Vai trò của

5


hương ước làng Nhất trong việc xây dựng làng văn hóa ở tỉnh Hà Nam, (Đại
học Văn hóa Hà Nội, 2000; Dương Xuân Thoạn với đề tài: Hương ước với
việc xây dựng làng văn hóa ở huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình, Trường Đại học
Văn hóa Hà Nội, 2004...
Trong khóa luận tốt nghiệp của mình (2004), sinh viên Đào Thu Vân
khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã "Bước đầu tìm hiểu công
cuộc bảo vệ tài nguyên môi trường của ông cha ta (qua nguồn tài liệu hương
ước làng người Việt trước cách mạng tháng Tám - 1945)"…
Ngoài các công trình nghiên cứu trực tiếp về hương ước nêu trên, rất
nhiều công trình khoa học nghiên cứu trực tiếp làng xã, gián tiếp về mối
quan hệ giữa pháp luật và hương ước đã được xuất bản. Một số tác giả đề

cập đến hương ước trong mối quan hệ với phong tục làng xã như: Ngô Tất Tố
với hai thiên phóng sự: Việc làng, Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội, 1937 và Tập án cái
đình, Nxb Văn họ, Hà Nội, 1977, tập trung phê phán những thói hư tật xấu,
những hủ tục lạc hậu - một lực cản kéo lùi sự phát triển của các vùng thôn
quê; Phan Kế Bính với Việt Nam phong tục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
1990; Lệ làng Việt Nam, Nxb Hà Nội, 1999, của Hồ Đức Thọ bàn về những
tập tục, lệ làng... Trong khi tìm hiểu về cơ cấu tổ chức làng xã nhiều nhà sử
học cũng đã sử dụng hương ước như một nguồn tư liệu đáng tin cậy nhất: Xã
thôn Việt Nam, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội, 1959, của Nguyễn Hồng Phong;
Trần Từ với Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1984; Phan Đại Doãn - Nguyễn Quang Ngọc: Kinh nghiệm tổ
chức quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1994; Nguyễn Minh Đoan: Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, cũng đề cập đến mối quan hệ giữa
pháp luật và hương ước ở Việt Nam và rất nhiều các công trình khác nữa.
Như vậy, vấn đề về pháp luật, về hương ước của nước ta đã được nghiên
cứu trên nhiều bình diện khác nhau. Song, cho đến thời điểm này vẫn chưa có

6


một công trình nào nghiên cứu một cách trực tiếp, cụ thể về mối quan hệ giữa
pháp luật và hương ước trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay theo hướng
giải quyết triệt để cả vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn mối quan hệ này.
Với luận văn của mình, tôi mong được đóng góp công sức vào việc nghiên
cứu mối quan hệ nêu trên được thấu đáo hơn, mang lại những giá trị thiết thực
trong việc nâng cao chất lượng của những công cụ điều chỉnh xã hội.
3. Nhiệm vụ của đề tài
Phân tích một cách khoa học và hệ thống về mặt lý luận mối quan hệ
giữa pháp luật và hương ước. Sưu tầm, tập hợp các bản hương ước mới (có

đối chiếu với các bản hương ước cổ) phân tích luận giải mối quan hệ của
chúng với pháp luật trong quản lý xã hội. Trên cơ sở đó nghiên cứu làm rõ các
giá trị văn hóa và lịch sử của hương ước, đồng thời, chỉ ra những điểm cần
phát huy, hoàn thiện mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong đời sống
xã hội Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
+

Đối tượng nghiên cứu. Đề tài tập trung nghiên cứu mối quan hệ

giữa pháp luật và hương ước trên cơ sở phân tích vị trí, vai trò, thực trạng,
những ưu khuyết điểm của pháp luật và hương ước trong việc thực hiện vai
trò điều chỉnh các mối quan hệ xã hội ở Việt Nam hiện nay.
+

Phạm vi nghiên cứu. Về không gian: tập trung nghiên cứu về hương

ước của các làng xã nông thôn Việt Nam trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
Về thời gian: đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa pháp luật và
hương ước trong quản lý xã hội tập trung vào giai đoạn từ năm 1986 đến nay.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
+

Nguồn tư liệu. Chúng tôi coi các văn bản pháp luật đang còn hiệu

lực và các bản hương ước mới là nguồn tư liệu đáng tin cậy nhất, bên cạnh đó

7



những tư liệu thu thập được trong quá trình đi thực tế tại các địa phương cũng
góp phần quan trọng vào việc hoàn thành luận văn.
Ngoài ra, khi thực hiện đề tài này, chúng tôi được kế thừa di sản
nghiên cứu về pháp luật, hương ước, về làng Việt cổ truyền đã được công bố
từ trước đến nay qua sách báo, tạp chí, luận án... đã nêu trên.
+ Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp luận được sử dụng để
nghiên

cứu quá trình hình thành, phát triển của pháp luật, hương ước và mối quan hệ
giữa chúng là phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày vấn đề thuộc nội dung đề tài,
tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương
pháp lôgic, phương pháp liên ngành để làm sáng tỏ nội dung các vấn đề của
luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
Trên cả hai phương diện khoa học và thực tiễn luận văn đã có những
đóng góp nhất định. Bởi đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ
thống về mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước trong đời sống xã hội Việt
Nam hiện nay nên trước hết nó có ý nghĩa về mặt tư liệu. Mặt khác, trên cơ sở
phân tích lý luận về mối quan hệ giữa pháp luật và hương ước, thực trạng mối
quan hệ này trong đời sống xã hội Việt Nam, từ đó đã đề xuất những giải pháp
phù hợp, có giá trị góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật và
hương ước trong thực tế đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.
Khi trình bày luận văn, tác giả đã cố gắng làm rõ tính đặc sắc của
hương ước như một di sản văn hóa của của dân tộc. Đồng thời qua nghiên cứu
vấn đề này giúp những người trực tiếp soạn thảo quy ước văn hóa mới có cái
nhìn đúng đắn, khách quan hơn về giá trị những hương ước của quê hương
mình.

8



7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về pháp luật, hương ước và mối quan
hệ giữa chúng.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp về mối quan hệ giữa pháp luật và
hương ước ở Việt Nam hiện nay.

9


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT, HƢƠNG ƢỚC
VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHÚNG

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT, HƢƠNG ƢỚC VÀ SỰ
TƢƠNG ĐỒNG, KHÁC BIỆT GIỮA CHÚNG

1.1.1. Khái quát chung về pháp luật
Pháp luật là hiện tượng xã hội vô cùng phức tạp và có tính đặc thù. Xuất
phát từ yêu cầu của xã hội, của quy luật phát triển, cùng với sự ra đời của Nhà
nước, pháp luật ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội, là công cụ sắc bén
để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì trật tự xã hội. Vì vai trò và những tác
động sâu rộng về mọi mặt của pháp luật tới cuộc sống xã hội mà ngay từ khi ra
đời đến nay, pháp luật luôn thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu, hoàn thiện và
phát triển bởi các nhà khoa học, nhà luật học, nhà cầm quyền cũng như đông đảo
các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời đánh dấu một
bước ngoặt quan trọng trong nhận thức về pháp luật. Học thuyết Mác - Lênin đã

chỉ ra bản chất, vai trò của pháp luật và phân tích các thuộc tính của pháp luật
trong một thể thống nhất, đó là: Tính quyền lực, pháp luật do Nhà nước ban hành
và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh quyền lực của Nhà nước có khả năng tác
động tới tất cả mọi đối tượng trong xã hội; tính quy phạm phổ biến, pháp luật là
hệ thống các quy tắc xử sự, đó là những khuôn mẫu, mực thước, quy chuẩn được
xác định cụ thể, không trừu tượng, chung chung. Tính quy phạm của pháp luật
nói lên giới hạn cần thiết mà Nhà nước quy định để mọi chủ thể xử sự một cách
tự do trong khuôn khổ cho phép, vượt quá giới hạn đó là trái luật; Pháp luật là
một hiện tượng mang tính

ý chí. Pháp luật thể hiện ý chí nhà nước từ khâu xây dựng đến khâu thực hiện
pháp luật, thậm chí là những hiệu ứng mà pháp luật tạo ra trong quá trình tổ
chức thực hiện pháp luật. Pháp luật còn có tính xã hội cao vì pháp luật do Nhà

10


nước - đại diện của tất cả các giai tầng, các lực lượng khác trong xã hội ban
hành. Bên cạnh việc dùng pháp luật là công cụ để củng cố, duy trì, bảo vệ địa
vị của giai cấp thống trị thì pháp luật còn đảm nhiệm vai trò điều hòa lợi ích
của các giai cấp trong xã hội nhằm duy trì một trật tự xã hội tương đối ổn
định. Hơn nữa, chỉ khi nào pháp luật được xây dựng trên cơ sở những điều
kiện chung của xã hội, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng
lớp nhân dân mới thực sự mang lại hiệu quả quản lý xã hội của nó. Như vậy,
pháp luật là một hiện tượng vừa mang tính giai cấp sâu sắc, vừa mang tính xã
hội, thể hiện ý chí nhà nước, quyền lực nhà nước.
Với những thuộc tính cơ bản nêu trên, pháp luật mang lại những giá trị
xã hội to lớn. Pháp luật là cơ sở để đảm bảo an ninh và an toàn xã hội. Pháp
luật được xây dựng theo một trình tự nghiêm ngặt, được Nhà nước ban hành
công khai, rộng khắp trên toàn bộ lãnh thổ, tới tất cả các lĩnh vực của đời sống

xã hội với những quy định cụ thể, được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh
quyền lực của Nhà nước. Pháp luật còn là sự biểu hiện của văn minh và văn
hóa nhân loại. Pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước khi xã hội
phát triển tới một trình độ nhất định, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong
lịch sử nhân loại. Bản thân pháp luật chính là hiện thân của hiện tượng văn
hóa nhân loại, từ khi ra đời đến nay trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể với đặc
trưng riêng của mình, pháp luật đều để lại những giá trị văn hóa khác nhau, có
sự tác động mạnh mẽ tới tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, mang đậm
dấu ấn riêng theo từng tiến trình lịch sử. Pháp luật là cơ sở để đảm bảo quyền
tự do của con người trong lao động và trong cuộc sống, bởi vì pháp luật tạo
dựng nên những khuôn khổ pháp lý với những quyền và nghĩa vụ tương ứng
buộc mọi người phải tự tuân thủ nghĩa vụ của bản thân và tôn trọng quyền tự
do của người khác. Pháp luật là cơ sở để đảm bảo sự bình đẳng và công bằng
xã hội. Pháp luật quy định nguyên tắc mọi người đều được bình đẳng và đối
xử công bằng trước pháp luật. Theo đó, bất cứ chủ thể nào khi tham gia vào
các quan hệ do pháp luật điều chỉnh đều có những quyền và chịu

11


trách nhiệm pháp lý như nhau không kể địa vị, giai cấp, giàu nghèo... Bên
cạnh đó, pháp luật còn mang tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc, pháp luật cụ
thể hóa chính sách nhân đạo, nhân văn của Đảng và Nhà nước thành các quy
định pháp luật bảo vệ, khẳng định và tôn trọng quyền con người, phát huy
những giá trị văn hóa vì con người. Ngay trong Bộ luật Hình sự Việt Nam (Bộ
luật quy định nhiều chế tài khắt khe của mỗi quốc gia) cũng luôn khuyến
khích áp dụng các biện pháp giáo dục, thuyết phục thay vì các biện pháp
cưỡng chế nhằm khơi dậy tính thiện của con người, giúp con người mau
chóng hành động theo lẽ phải, sự công bằng mà pháp luật thiết lập nên. Pháp
luật còn là yếu tố quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững: Pháp luật tạo ra

khuôn khổ pháp lý để điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội trên cơ sở đường
lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thiết lập cơ chế giải
quyết những tranh chấp phát sinh trong quá trình vận động, phát triển của nền
kinh tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Pháp luật thể chế
hóa những quan điểm, đường lối phát triển kinh tế thành hệ thống các quy
phạm cụ thể, tạo cơ sở pháp lý để xác lập, củng cố và định hướng phát triển
cho cả một chế độ kinh tế - chính trị, là cơ sở pháp lý để giải quyết các vấn đề
xã hội, đảm bảo công bằng xã hội.
Ngoài những giá trị xã hội to lớn như trên, pháp luật còn đóng vai trò
hết sức quan trọng: Là công cụ thiết lập, củng cố, tăng cường quyền lực nhà
nước, là cơ sở để xây dựng, củng cố và hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước,
xây dựng, bồi dưỡng, kiện toàn đội ngũ cán bộ Nhà nước; pháp luật là phương
tiện để Nhà nước quản lý kinh tế - xã hội, thông qua pháp luật, Nhà nước có
thể triển khai rộng khắp, đồng bộ và hiệu quả các chủ trương chính sách của
mình tới toàn bộ chủ thể chịu sự tác động trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia, thậm
chí vượt cả biên giới quốc gia trong một số trường hợp nhất định. Cũng thông
qua pháp luật mà Nhà nước có cơ chế kiểm tra, giám sát tổ chức và hoạt động
của các tổ chức, cơ quan, nhân viên nhà nước và toàn thể các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong xã hội; pháp luật góp phần tạo dựng những quan

12


hệ mới. Thông qua những cơ sở nghiên cứu cụ thể, xác đáng, Nhà nước có thể
dự kiến được những biến động, những xu hướng, những khả năng phát triển
của xã hội trong tương lai để có những quy định phù hợp, kịp thời điều chỉnh
những quan hệ mới, góp phần giữ gìn trật tự xã hội một cách tốt nhất. Không
những góp phần duy trì trật tự xã hội trong nước, pháp luật còn góp phần tạo
ra môi trường ổn định để thiết lập, duy trì và phát triển các quan hệ ngoại giao
giữa các quốc gia trên thế giới. Bởi vì, nhu cầu cũng như mong muốn của con

người là luôn mong muốn được phát triển trong một môi trường an toàn, hữu
nghị, rộng mở, gắn kết. Pháp luật chính là cầu nối cho sự gắn kết đó, giúp con
người xích lại gần nhau hơn, cùng giúp nhau vượt qua những khó khăn và
mang đến cho nhau những cơ hội phát triển chung.
1.1.2. Khái quát chung về hƣơng ƣớc
Mặc dù pháp luật có vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển của
loài người, là công cụ quản lý xã hội hữu hiệu nhưng pháp luật không phải là
công cụ quản lý xã hội duy nhất. Bên cạnh pháp luật còn có những công cụ
quản lý xã hội khác như: đạo đức, tôn giáo, điều lệ của các tổ chức, tập quán...
trong đó có hương ước - một phần lệ làng thành văn.
Trong những năm gần đây, thuật ngữ hương ước không chỉ quen thuộc
đối với các nhà khoa học mà còn rất phổ biến trong nhân dân, nhất là từ khi
hiện tượng tái lập hương ước và xây dựng làng văn hóa mới phát triển thành
một phong trào rộng khắp cả nước. Tuy nhiên, để hiểu một cách thấu đáo khái
niệm hương ước cũng như để lý giải được nguồn gốc và sự xuất hiện của
thuật ngữ này trong lịch sử Việt Nam không phải là vấn đề đơn giản.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, hương ước là thuật ngữ nguyên Hán, được
du nhập vào Việt Nam muộn nhất ở thế kỷ XV, bằng chứng là "bản sao hương
ước làng Tri Lễ xã Phúc Sơn, huyện Anh Sơn mang dấu ấn niên đại sớm nhất
còn lại đến ngày nay" [35, tr. 283]. Song cho tới cuối thế kỷ XVII, các quy ước
trong làng xã vẫn được mang tên gọi khoán ước. Thế kỷ XVIII, XIX

13


thuật ngữ hương ước mới dần trở nên quen thuộc. Sang đầu thế kỷ XX,
"hương ước được dùng hết sức rộng rãi trong các làng xã, nhiều nơi không
còn thuật ngữ khoán ước, mà lệ làng thành văn là hương ước" [35, tr. 285].
Từ cận đại đến nay, các nhà nghiên cứu thuộc nhiều bộ môn khoa học xã
hội đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về hương ước. Trong sách Việt Nam

phong tục, Phan Kế Bính nêu: "Chốn hương thôn thường có hẹn riêng với nhau
lập ra sổ sách, đồng dân ký kết gọi là khoán ước" [6, tr. 206], sau đó, trong mục
khoán ước ông lại đồng nhất thuật ngữ khoán ước với hương ước. Tác giả cuốn
Hương ước và quản lý làng xã - Bùi Xuân Đính còn khẳng định: "Tùy theo cách
ghi chép của từng làng mà hương ước được gọi bằng những tên khác nhau:
hương biên, hương khoán, hương lệ, khoán ước, khoán lệ, tục lệ, cựu khoán, điều
ước, điều lệ..." [15, tr. 24]. Tác giả Cao Văn Biền cho rằng: "Hương ước là văn
bản pháp quy về các tục lệ của làng xã do quan viên ở làng xã tự xây dựng lên
cho làng mình nhằm bảo vệ sự tồn tại của cộng đồng dân cư ở làng xã trong tư
thế ổn định của nó về lãnh thổ; xây dựng phong tục, tập quán tốt đẹp; phát triển
đời sống văn hóa, kinh tế, xã hội" [5, tr. 42]. Còn theo tác giả Ninh Viết Giao thì:
"Hương ước là văn bản pháp lý của mỗi làng, trong đó bao gồm các điều ước về
dân sự, hình sự, các điều ước về giữ gìn đạo lý, về phong tục tập quán... có liên
quan đến tổ chức xã hội cũng như đến đời sống nhân dân trong làng" [19, tr. 58].
Tác giả Nguyễn Huy Tính lại quan niệm:

Hương ước là phần lệ làng đã được văn bản hóa thành "bộ
luật" riêng của mỗi làng Việt, dùng để điều chỉnh các mối quan hệ
phổ biến trong phạm vi làng xã dưới chế độ phong kiến từ nhiều thế
kỷ trước đây. Hương ước là một bộ phận của văn hóa làng; đồng
thời là di sản văn hóa dân tộc có tính chất pháp lý khá độc đáo của
làng xã cổ truyền Việt Nam [60, tr. 9].
Ngắn gọn hơn, với Diệp Đình Hoa, hương ước chính là lệ làng: "Mỗi
người Việt Nam từ trong tiềm thức, có lẽ ai cũng hiểu thành ngữ: "Phép vua

14


thua lệ làng". Lệ là một từ Hán Việt, làng là một từ thuần Việt. Vì thế trong
các văn bản, để cho nghiêm chỉnh, người ta thường thay vào đó chữ hương

ước, một khái niệm Hán Việt" [21, tr. 1]. Và còn nhiều cách định nghĩa khác
nữa. Như vậy, dù được diễn đạt bởi ngôn từ hoàn toàn không giống nhau, dù
được phát biểu ở góc độ khoa học nào, các ý kiến đều thống nhất ở điểm coi
hương ước là phần lệ làng được văn bản hóa. Theo chúng tôi, thuật ngữ
hương ước qua định nghĩa sau của tác giả Vũ Duy Mền là chi tiết và trọn vẹn
hơn cả:
Là những quy ước về hầu hết các mặt hoạt động của làng xã
người Việt, như cách thức tổ chức và hoạt động của các thiết chế tổ
chức trong làng xã: Hội tư văn, tư võ, hội thiện, phe - giáp, xóm
ngõ... Các hoạt động xã hội: Hội hè đình đám lễ tế, tuần phòng,
khao vọng, giao hiếu... Một số hoạt động kinh tế... Đó là những quy
ước vừa mang nét chung và rất nhiều nét riêng, rất riêng của mỗi
làng Việt [33, tr. 83].
Hương ước vốn là sản phẩm văn hóa - tinh thần độc đáo của làng Việt,
bởi thế nguồn gốc hương ước gắn liền với những biến đổi thăng trầm trong
đời sống thôn quê. Cùng với sự phát triển tất yếu của xã hội, Công xã nông
thôn hình thành, ngày càng thịnh vượng về kinh tế, đông đúc về dân cư nên
các quan hệ xã hội theo đó mà trở nên phức tạp hơn. Thực tế ấy đòi hỏi cần
phải có những quy định - dẫu rằng lúc đầu còn hết sức sơ lược - trong quan hệ
giữa các thành viên công xã với nhau và giữa các thành viên với tổ chức cộng
đồng. Những quy định ấy được mọi người chấp nhận, cùng nhau thực hiện,
lâu dần trở thành tục lệ, tập quán được truyền khẩu từ đời này sang đời khác.
Như vậy, có thể nói rằng: "Nguồn gốc hương ước vốn từ tục dân (lệ làng
truyền khẩu) chất phác và đơn giản" [25, tr. 289], trong đó, tục thề hay hội thề
là hình thức tục lệ cổ xưa nhất. Lời thề đầu tiên được sử sách ghi lại là lời thề
giết giặc Đông Hán của Hai Bà Trưng năm Canh Tí (40).

15



Xét ở góc độ khác, hương ước là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều
ngành khoa học khác nhau: luật học, dân tộc học, nhân học, sử học... xong có
thể hiểu một cách chung nhất có tính "luật hóa" về hương ước "là giao ước
thỏa thuận chung có tính chất quy định hoặc là nguyên tắc trong nội bộ của
thôn làng, họ tộc" [29], là bản lệ làng thành văn do một số trí thức trong làng
xây dựng nên, được dân làng thông qua, chính quyền địa phương phê duyệt và
cùng nhau thi hành. Đối với các hương ước cổ truyền Việt Nam, đa số được
các nhà Nho xây dựng lên trên cơ sở sách kinh truyện của thánh hiền, gồm
những lời di huấn mẫu mực cho hậu thế để lập ra hương ước. Dưới góc độ
ngôn ngữ, hương ước chính là các quy ước trong hương thôn mang tính tự
quản ở cơ sở địa phương mà nhân dân thường hay gọi là "lệ làng". Dưới góc
độ pháp lý, hương ước là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự chung của một
cộng đồng dân cư nhất định hình thành trên cơ sở thỏa thuận của chính các
thành viên trong cộng đồng nhằm điều chỉnh những hành vi của mỗi cá nhân
trong phạm vi cộng đồng dân cư đó. Hương ước không phải là nét riêng biệt
chỉ tồn tại ở Việt Nam, ở một số nước châu Á khác đặc biệt là các nước chịu
ảnh hưởng của đạo Nho như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản... thì sự tồn tại
của hương ước là khá phổ biến. Lý luận chung của các nước ảnh hưởng bởi
Nho gia là tư tưởng "tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ", cho nên trong
việc trị nước không thể không đề cập đến làng xã vì "quốc" - thực ra xuất phát
cũng từ các làng xã mà hợp thành, làng có yên thì nước mới yên để phát triển
cường thịnh.
Hương ước xuất hiện ở Việt Nam vào khoảng thế kỷ XV, được phổ
biến nhanh chóng trong các làng người Việt ở đồng bằng, trung du Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ thời bấy giờ. Hình thức tồn tại của hương ước rất phong phú,
đó là những luật tục - hiện tượng phổ biến ở tất cả các tộc người hiện nay ở
Việt Nam. Theo Ngô Đức Thịnh, nếu căn cứ vào hình thức tồn tại của các luật
tục này, có thể chia thành ba loại: i) Luật tục dưới dạng các lời nói văn vần
truyền miệng, ii) Luật tục thành văn hay đã được văn bản hóa, và iii) Luật tục


16


còn dưới dạng những thực hành xã hội. Luật tục đã được cố định thành dạng
lời nói vần được truyền miệng từ đời này qua đời khác phổ biến ở các tộc
người Tây Nguyên như Phatkdi của người Ê-đê, Phat kđuôi của người
M’nông, Tơ lơi djuat hay tơ lơi phian của người Gia-rai, dây tơ ron kdi của
người Bahnar, Ndri của người Stiêng (Sabatier 1940; Gerber 1951;
Guileminet 1952). Luật tục các dân tộc ở Tây Nguyên phần lớn do người
Pháp phát hiện sưu tầm và hệ thống lại ở những mức độ khác nhau, chỉ có bộ
luật tục M’nông là phát hiện mới của Ngô Đức Thịnh, ngoài ra, một số nhà
nghiên cứu dân tộc học và văn hóa dân gian cũng đã thẩm tra và bổ sung vào
các bộ luật Ê-đê, Gia-rai mà người Pháp phát hiện trước đây. Hương ước như
là một tri thức bản địa, tri thức địa phương, được hình thành dưới nhiều dạng
khác nhau trong quá trình lịch sử lâu dài, qua kinh nghiệm ứng xử với môi
trường và xã hội, qua thực hành sản xuất và thực hành xã hội, được truyền từ
đời này sang đời khác qua trí nhớ. Hương ước hướng tới hướng dẫn, điều
chỉnh và điều hòa các quan hệ xã hội theo một chuẩn mực được cả cộng đồng
thừa nhận, ủng hộ và thực hiện theo. Thế mạnh của hương ước là khơi dậy
"góc khuất" tiềm tàng ẩn chứa trong mỗi con người khiến họ dễ dàng tuân thủ
theo một cách tự nhiên, không khiên cưỡng như pháp luật, không cứng nhắc
như pháp luật. Thật không quá khi so sánh ở một khía cạnh nào đó thì hiệu
quả của "chế tài" - hương ước với "chế tài" - pháp luật giống như hiệu quả
công việc của một người lao động làm việc trên chính thửa ruộng của anh ta
so với những công việc tương tự mà anh ta làm trên thửa ruộng chung của
Hợp tác để được chấm công. Nói như vậy để thấy được sức mạnh của hương
ước là nó được gắn với một cộng đồng dân cư cụ thể, có kỷ luật, tổ chức chặt
chẽ, gắn với những chuẩn mực đạo đức, phong tục đã được thừa nhận trong
cộng đồng dân cư đó. Và đó cũng chính là điểm bổ sung, hỗ trợ cho pháp luật
của hương ước trong việc quản lý xã hội từ những đơn vị dân cư nhỏ nhất.



một góc độ nhất định có thể coi hương ước là "pháp luật do cộng

đồng làng xã làm ra" [49, tr. 70], bên cạnh hệ thống pháp luật của Nhà nước,

17


do cộng đồng dân cư trong các làng xã, thôn bản tự ban hành, thực thi trong
phạm vi lãnh thổ của làng xã, thôn bản đó. Trong phạm vi này, có thể thấy
những quy định của hương ước thường chi tiết, cụ thể, sát thực với cuộc sống
đời thường của bà con hơn so với những quy định của pháp luật do Nhà nước
ban hành. Có lẽ cũng vì thế mà việc thực hiện hương ước dễ đi vào lối sống,
nếp nghĩ của các thành viên trong cộng đồng hơn là thực hiện những quy định
có tính chất chung chung của pháp luật, không gắn với cuộc sống thực tế
phong phú của từng địa phương, cộng đồng. Trong những bản hương ước cổ,
chúng ta rất dễ nhận thấy vị trí quan trọng của hương ước không thua kém gì
so với pháp luật. Ví dụ: Khoán lệ làng Nghi Tàm, Tây Hồ, Hà Nội được mở
đầu bằng câu: "Khoán lệ của một làng cũng như luật lệ của một nước"; hương
ước làng Phú Vân (Yên Thành, Nghệ An) năm 1854 quy định: "Thôn làng
đương nhiên phải có hương ước"; hương ước làng An Hòa, tổng An Hạ,
huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông khẳng định: "Trong làng có khoán ước cũng
như Nhà nước có luật lệ"... Quy định của các bản hương ước này không chỉ đề
cập đến các vấn đề như: lễ giáo, tục ma chay, cưới hỏi, phép tắc cư xử...
mà còn đề cập tới nhiều vấn đề pháp luật điều chỉnh như: thông dâm, trộm
cắp tài sản, đánh lộn...
Có thể nói, hương ước chính là một loại "pháp luật" của thôn làng. Hệ
thống "pháp luật" này không hề mâu thuẫn với hệ thống pháp luật do Nhà
nước ban hành vì "hương ước tuy có nguồn gốc khác với pháp luật Nhà nước

nhưng không phải là pháp luật của những địa phương cát cứ, có xu hướng ly
khai với chính quyền Trung ương" [59, tr. 47]. Giữa hương ước và pháp luật
không hề xung đột, mâu thuẫn, phủ định, loại bỏ nhau mà trái lại còn bổ sung
cho nhau, hỗ trợ cho nhau một cách tốt nhất để xã hội luôn được duy trì trong
trạng thái ổn định, phát triển. Hương ước được đặt ra không nằm ngoài mục
đích giúp cho cuộc sống từng đơn vị dân cư đi vào nề nếp, có tổ chức, có trật
tự kỷ cương để duy trì, chỉnh đốn, xây dựng phong tục tốt đẹp, phong cách
sống có đạo đức của người dân trong từng thôn làng... Sự thống nhất về mục

18


đích ban hành đó là cầu nối giúp hương ước của làng xã luôn tồn tại một cách
bền vững bên cạnh hệ thống pháp luật ngày càng được củng cố chặt chẽ của
Nhà nước.
Hương ước là hình thức "văn bản hóa" các tục lệ, phong tục, tập quán
của mỗi vùng, miền cụ thể. Phần lớn nội dung của các bản hương ước đều quy
định các vấn đề về tục lệ, phong tục tập quán, tập tục sinh hoạt của cộng đồng
dân cư như: nghi thức ma chay, cưới hỏi, lễ hội... Đồng thời, nội dung của
hương ước còn chứa đựng những chuẩn mực đạo đức nhằm hướng dẫn hành
vi cá nhân và tạo dư luận xã hội để điều chỉnh những hành vi đó. Ví dụ: các
quy định về trách nhiệm tôn kính người cao tuổi, phụng dưỡng cha mẹ già,
giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, lên án tệ cờ bạc, ngăn ngừa quan hệ
bất chính.
Với những đặc điểm nêu trên, hương ước giữ vai trò vô cùng quan
trọng trong đời sống làng xã: Hương ước trực tiếp kiểm soát thế ứng xử của
các thành viên trong cộng đồng, tạo ra sự ràng buộc, áp đặt và cưỡng chế của
cộng đồng làng xã; Hương ước là sợi dây nối liền các tổ chức và cá nhân
trong cộng đồng trong những nghĩa vụ và quyền lợi chung, là công cụ điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội trong cộng đồng làng xã, công cụ để quản lý

làng xã, một tri thức dân gian về quản lý cộng đồng. Hương ước góp phần
hình thành trong mỗi làng xã và mỗi người dân ở đó những đức tính truyền
thống giá trị và quý báu như: truyền thống đoàn kết và cố kết làng xã, tinh
thần chung lưng đấu cật, quan tâm các công việc công ích, tích cực đóng góp
xây dựng làng xã, hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ với làng, với nước, chủ
động bảo vệ an ninh, thực hiện tốt vai trò tự quản, góp phần làm phong phú
lối sống văn hóa làng xã.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, có những giai đoạn vai
trò và giá trị của hương ước bị ngủ quên và còn lại rất ít vì nhiều nguyên nhân
khác nhau, chủ yếu là do những nhận thức, định kiến sai lệch về giá trị văn

19


hóa của chế độ cũ. Tuy nhiên, từ khi cơ chế khoán 10 (1989) được áp dụng thì
những giá trị tích cực của hộ gia đình và thôn làng được nhìn nhận như một động
lực để phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở những tri thức về hương ước cổ,
nhiều thôn làng đã lập nên quy ước làng như một công cụ đắc lực để quản lý
thôn làng tạo nên hiện tượng tái lập hương ước trong tình hình mới. Thực tế đã
kiểm nghiệm và chứng minh sức sống mạnh mẽ của các bản hương ước, quy ước
trong nhiều giai đoạn lịch sử như một biểu hiện đặc sắc của nền văn hóa Việt
Nam, đặc biệt có giá trị trong công tác tự quản làng xã. Vì vậy, để tạo sự thống
nhất trong việc xây dựng và thực hiện hương ước mới, Thông tư số
03/2000/TTLT/BTP-BVHTT-BTTUBMTTQVN ngày 31/03/2000 của Bộ Tư
pháp, Bộ Văn hóa thông tin, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam được ban hành, trong đó quy định: Hương ước là văn bản quy
phạm xã hội trong đó quy định các quy tắc xử sự chung do cộng đồng dân cư
cùng thỏa thuận đặt ra để điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính tự quản của
nhân dân nhằm giữ gìn và phát huy những phong tục, tập quán tốt đẹp và truyền
thống văn hóa trên địa bàn làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư, góp phần hỗ trợ

tích cực cho việc quản lý nhà nước bằng pháp luật.

Theo quy định trên đây, có thể hiểu hương ước là kết ước của người
dân, được thể hiện dưới hình thức văn bản với nhiều tên gọi khác nhau như:
hương ước, quy ước làng, quy chế... Hương ước do cộng đồng dân cư cùng
nhất trí, thỏa thuận đặt ra và cùng cam kết thực hiện. Bất cứ quy định nào
khác của cá nhân, cơ quan tổ chức đặt ra đều không phải là hương ước, không
phù hợp với những đặc điểm của hương ước. Mặt khác, hương ước là một loại
văn bản quy phạm nên nó cũng chứa đựng những quy định bắt buộc hoặc cho
phép mọi người được làm hoặc không được làm những việc nhất định trong
sinh hoạt cộng đồng. Tuy nhiên, vì là quy phạm xã hội do cộng đồng dân cư
cùng thống nhất thỏa thuận đặt ra nên tính chất của nó cũng khác hẳn so với
quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành mặc dù các quy định trong hương
ước phải phù hợp và không được trái với các quy định của pháp luật.

20


Xét về quan niệm chung, các bản hương ước mới ngày nay không
khác nhiều so với các bản hương ước cổ. Nhưng khi đi vào xem xét cụ thể vị
trí, vai trò, phạm vi tác động, nội dung điều chỉnh thì giữa hương ước mới và
hương ước cổ có rất nhiều sự khác biệt. Hầu hết các bản hương ước cổ đều
chú trọng điều chỉnh các vấn đề liên quan đến tổ chức làng xã với các thiết
chế tự quản như: Hội đồng kỳ mục (cơ quan có quyền tối cao đối với các mặt
sinh hoạt làng xã), Hội đồng lý dịch (đại diện cho Nhà nước phong kiến chịu
trách nhiệm trước Nhà nước về mặt dân đinh), Giáp (đơn vị quản lý nhân
đinh, phân bổ việc biện lễ, tế lễ, sưu thuế...). Hương ước mới lại không quan
tâm nhiều tới các thiết chế tự quản mà theo hướng dẫn chung nên thường đề
ra các biện pháp, phương thức thích hợp giúp nhân dân trên địa bàn tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đảm bảo các quyền và nghĩa vụ hợp pháp để

công dân tuân thủ pháp luật và phát huy các quyền làm chủ cũng như trách
nhiệm công dân. Nếu như hương ước cổ tồn tại trên nền tảng của một đơn vị
hành chính, bản thân nó chính là bản điều lệ hoạt động của thiết chế chính
quyền tự quản làng xã, mang sắc thái của cưỡng chế Nhà nước với các quy
định chi tiết, cụ thể về bảo vệ làng xóm thì hương ước mới thiếu tính cưỡng
chế và chỉ tập trung đưa ra các biện pháp cụ thể để bảo vệ trật tự trị an trên địa
bàn, góp phần phòng chống các tệ nạn xã hội cũng như các hành vi vi phạm
pháp luật khác. Ngoài ra, hương ước cổ và hương ước mới còn có sự khác biệt
ở nhiều khía cạnh như: trình tự xây dựng, sửa đổi và thực hiện; các biện pháp
bảo đảm thực hiện như cơ chế thưởng phạt...
Như vậy, có thể nói ở mỗi góc độ khác nhau, mỗi thời kỳ khác nhau
thì các công cụ quản lý xã hội đều tự mình có những giá trị khác nhau, phát
huy hiệu quả khác nhau, có những mặt nổi trội, hạn chế khác nhau. Pháp luật
và hương ước cũng vậy, tuy nhiên không vì thế mà chúng mâu thuẫn, cản trở
nhau mà trái lại còn có có mối liên hệ mật thiết, hỗ trợ, bổ sung và ảnh hưởng
lẫn nhau trong quá trình cùng làm cho xã hội được thiết lập theo một trật tự

21


ngày càng ổn định, phát triển, đạt hiệu quả quản lý cao nhất của những người
làm chủ, làm chủ cộng đồng, làm chủ đất nước.
Nội dung của pháp luật tập trung vào việc tạo lập những quy tắc xử sự
chung, những chuẩn mực pháp lý chung dựa trên những khuôn mẫu, mực
thước mà theo ý chí của những nhà làm luật cho rằng đó là ý chí, nguyện
vọng của đại đa số quần chúng trong xã hội, buộc tất cả các đối tượng tham
gia vào các quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh phải tuân thủ theo một
cách chủ động hoặc khiên cưỡng. Ngược lại, nội dung của hương ước lại đi
vào những quy định rất cụ thể, rất chi tiết trên cơ sở đúc rút từ những hệ quả
phát sinh trong quan hệ đời thường và sinh hoạt cộng đồng làng xã, được các

thành viên trong cộng đồng thừa nhận, cam kết thực hiện. Tuy nhiên, không vì
thế mà pháp luật và hương ước hoàn toàn khác biệt và mâu thuẫn nhau, trái lại
còn bổ sung cho nhau được hoàn chỉnh hơn, đầy đủ hơn. Pháp luật quy định
những khuôn khổ chung còn hương ước cụ thể hóa những quy định đó vào
thực tiễn đời sống phong phú, phù hợp với những quy định của pháp luật. Có
thể nói hương ước chính là hình thức thực hiện pháp luật một cách sáng tạo và
hiệu quả, đưa những quy định khô khan chung chung của pháp luật vào những
dẫn chứng sống động của đời thường. Hơn thế, vì đặc thù của pháp luật chỉ có
thể điều chỉnh các quan hệ xã hội trên phạm vi rộng lớn, trên cơ sở những quy
tắc chung nhất, phù hợp với cái chung nên thông qua hương ước các quy định
của pháp luật có thể điều chỉnh tới từng vùng miền, từng khu vực dân cư với
những nét sinh hoạt khác nhau, văn hóa bản địa khác nhau.
Như vậy có thể thấy, thông qua hương ước, pháp luật trở nên cụ thể, chi
tiết hơn, dễ dàng đi vào cuộc sống hơn song hương ước dù do làng xã xây dựng
nên nhưng phải được chính quyền phê chuẩn và hỗ trợ thực hiện mới đảm bảo
hiệu quả điều chỉnh. Cho nên, hương ước phải dựa vào sức mạnh của pháp luật
để được thực hiện nghiêm minh còn pháp luật phải thông qua hương ước để đi
vào cuộc sống một cách dễ dàng hơn. Tuy nhiên, xét ở khía cạnh

22


×