Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Những quy định chủ yếu của pháp luật về thẻ tín dụng và xu hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (530.57 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN MINH THẮNG

NHỮNG QUY ĐỊNH CHỦ YẾU CỦA PHÁP LUẬT
VỀ THẺ TÍN DỤNG VÀ XU HƢỚNG HOÀN THIỆN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.38.50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. LÊ HỒNG HẠNH

HÀ NỘI - NĂM 2007
1


MỤC LỤC
Trang
Mục lục......................................................................................................................................... 4
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt............................................................................... 7
Danh mục các hình vẽ, đồ thị............................................................................................... 8
MỞ ĐẦU...................................................................................................................................... 9
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ THẺ TÍN DỤNG........11
1.1.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẺ TÍN DỤNG........................................... 11

1.1.1. Thẻ tín dụng và lịch sử phát triển............................................................. 11


1.1.1.1. Sự ra đời của Thẻ tín dụng trên thế giới.......................................................... 11
1.1.1.2. Sự ra đời của Thẻ tín dụng tại Việt Nam......................................................... 13
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của thẻ tín dụng tại Việt Nam.............................15
1.1.2.1. Khái niệm thẻ tín dụng........................................................................ 15
1.1.2.2. Đặc điểm của thẻ tín dụng................................................................... 18
1.2.

QUAN HỆ PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG........................................ 22

1.2.1. Các chủ thể liên quan đến việc sử dụng Thẻ tín dụng ở Việt Nam...........22
1.2.2. Các quan hệ xã hội liên quan đến Thẻ tín dụng ở Việt Nam.....................25
1.2.2.1. Nhóm các quan hệ liên quan trực tiếp đến giao dịch thẻ tín dụng.......25
1.2.2.2. Nhóm các quan hệ liên quan gián tiếp đến hoạt động kinh doanh thẻ. 30
1.2.3. Sự cần thiết phải có pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên quan đến
thẻ tín dụng......................................................................................... 33
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY......36
2.1.

PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI TRONG

PHÁT HÀNH, THANH TOÁN VÀ SỬ DỤNG THẺ TÍN DỤNG..........36
2.1.1. Quan hệ giữa Chủ thẻ tín dụng và TCPHT............................................... 36
2.1.1.1. Điều kiện với chủ thẻ tín dụng............................................................................ 36
2.1.1.2. Điều kiện với TCPHT............................................................................................ 40
2.1.1.3. Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng.......................................................................... 41
2.1.2. Quan hệ giữa Chủ thẻ tín dụng và ĐVCNT.............................................. 46
2



2.1.3. Quan hệ giữa ĐVCNT và TCTTT............................................................ 48
2.1.3.1. Điều kiện đối với ĐVCNT:................................................................. 48
2.1.3.2. Điều kiện đối với TCTTT:................................................................... 49
2.1.3.3. Hợp đồng thanh toán thẻ giữa ĐVCNT và TCTTT:............................50
2.1.4. Quan hệ giữa Tổ chức thanh toán trung gian với các TCPHT, TCTTT....51
2.1.5. Quan hệ giữa Tổ chức thẻ quốc tế với các TCPHT, TCTTT Việt Nam....52
2.2.

PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH THẺ TÍN DỤNG......................54
2.2.1. Các quy định về cho vay và bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay. . .54
2.2.2. Các quy định về quản lý hoạt động thanh toán......................................... 57
2.2.3. Các quy định về quản lý ngoại hối........................................................... 60
2.2.4. Các quy định về cạnh tranh...................................................................... 63
2.2.5. Các quy định về phòng ngừa gian lận và tội phạm thẻ............................. 65
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN
DỤNG Ở VIỆT NAM

68

3.1.

SỰ CẦN THIẾT PHẢI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG68

3.2.

CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CHI PHỐI VIỆC HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG


3.3.

70

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THẺ

TÍN DỤNG

71

3.3.1. Thống nhất hóa các quy định về phát hành, sử dụng, thanh toán thẻ tín
dụng trong một văn bản

71

3.3.2. Về vấn đề xây dựng và chia sẻ thông tin tín dụng

75

3.3.3. Về việc phát huy năng lực hoạt động của các hiệp hội ngành nghề

76

3.3.4. Vấn đề phân định trách nhiệm gánh chịu rủi ro

76

3.3.5. Về vấn đề tội phạm thẻ

78


3.3.6. Xây dựng các quy tắc và tiêu chuẩn an toàn cho các tổ chức kinh
doanh dịch vụ thẻ tín dụng

79

3.3.7. Tăng cƣờng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thẻ tín dụng 79

3

KẾT LUẬN


TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC I. Khái quát tình hình kinh doanh Thẻ tín dụng quốc tế
PHỤ LỤC II. Tình hình sử dụng thẻ tín dụng quốc tế tại Việt Nam
PHỤ LỤC III. Quy trình phát hành và sử dụng Thẻ tín dụng tại Việt Nam
PHỤ LỤC IV. Các loại Thẻ tín dụng tại Việt Nam

4


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

ACB
ATM
BIDV
BLDS
ĐVCNT
EDC

EIB

Mastercard
NHNN
Quy chế 20

Quy chế 371

TCPHT
TCTTT
TCTQT
VIB
Visacard

5


STT
Bảng 1.1
Bảng 2.1
Hình 2.1
Hình 2.2
Hình 2.3
Hình 3.1
Hình 3.2
Hình 3.3
Hình 3.4

6



MỞ ĐẦU
I.

Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Dịch vụ thẻ tín dụng là một loại hình dịch vụ tƣơng đối đặc biệt, chủ yếu do

các Ngân hàng thƣơng mại cung cấp. Tính chất đặc biệt này thể hiện ở việc các tổ
chức tín dụng đã kết hợp hai nghiệp vụ cơ bản của mình là hoạt động thanh toán và
hoạt động cấp tín dụng vào một loại hình dịch vụ. Tƣơng ứng với sự kết hợp này,
chế định pháp luật về thẻ tín dụng cũng phải đƣợc chắt lọc từ những quy phạm pháp
luật điều chỉnh hoạt động thanh toán và những quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt
động tín dụng của ngân hàng.
Trong hệ thống pháp luật của một quốc gia, mặc dù các ngành luật có đối
tƣợng điều chỉnh và phƣơng pháp điều chỉnh riêng, nhƣng giữa chúng luôn tồn tại
những mối liên hệ tất yếu. Pháp luật về thẻ tín dụng - một bộ phận của ngành luật
ngân hàng – cũng không phải là một ngoại lệ, đặc biệt là trong mối liên hệ với pháp
luật dân sự, pháp luật thƣơng mại, pháp luật quản lý hành chính nhà nƣớc, tƣ pháp
quốc tế, pháp luật hình sự...
Không chỉ liên quan đến các ngành luật của hệ thống pháp luật trong nƣớc,
pháp luật về thẻ tín dụng còn liên quan mật thiết đến các điều ƣớc quốc tế; liên
quan đến những thông lệ, tập quán trong giao dịch quốc tế về thẻ tín dụng và liên
quan đến những quy tắc, quy định của các tổ chức thẻ quốc tế. Phần lớn những quy
phạm này đã đƣợc thừa nhận trên phạm vi toàn cầu và trong điều kiện hội nhập khu
vực và thế giới, sự ảnh hƣởng của chúng đối với Việt Nam là không thể tránh khỏi.
Nhƣ vậy, pháp luật về thẻ tín dụng đòi hỏi một sự kết hợp nhuần nhuyễn các
yếu tố kể trên, tạo thành một khung pháp lý hoàn chỉnh và đầy đủ.
Về mặt thực tế, thẻ tín dụng đã trở thành một phƣơng tiện thanh toán không
dùng tiền mặt hữu hiệu nhất của các nền kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam cũng
không tránh khỏi quy luật đó. Tuy nhiên, để đáp ứng sự phát triển nhanh chóng của

thị trƣờng thẻ tín dụng thì cần phải xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý, bảo
đảm khả năng thích ứng với sự biến động của hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng.
Trong khi đó ở Việt Nam hầu nhƣ chƣa có một công trình luật học nào nghiên
cứu một cách đầy đủ, hệ thống về pháp luật liên quan đến thẻ tín dụng.

7


Vì vậy, việc nghiên cứu để hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh các vấn đề về
thẻ tín dụng đang là một nhu cầu cấp bách và cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
AI.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, việc nghiên cứu về thẻ tín dụng không còn là điều xa lạ. Các tổ

chức thẻ quốc tế nhƣ Visa, MasterCard, American Express, JCB, Diner Club…đã tổ
chức nhiều chƣơng trình nghiên cứu, nhiều diễn đàn, chƣơng trình đào tạo… về thẻ
tín dụng.
Ở Việt Nam, thẻ tín dụng nói riêng và thẻ thanh toán nói chung vẫn còn khá

mới mẻ nhƣng pháp luật hiện hành cũng đã có quy định về lĩnh vực này, đó là: Quy
chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân
hàng đƣợc ban hành kèm theo Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN của NHNN ngày
15-05-2007.
Bên cạnh đó, các cuộc hội thảo về thẻ thanh toán (bao gồm cả thẻ tín dụng)
cũng thƣờng xuyên đƣợc tổ chức nhƣ: Hội thảo “Công nghệ thông tin với mở rộng
thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam” do Cục Công nghệ Tin học Ngân
hàng (Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam) và Tập đoàn dữ liệu Quốc tế (IDJ) phối hợp
tổ chức tại Hà Nội trong hai ngày 15 và 16-6-2004, Hội thảo: “Quản lý rủi ro và
giả mạo thẻ” do Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam phối hợp với Tổ chức thẻ quốc tế

MasterCard tổ chức vào ngày 14-12-2005, Hội thảo “Thanh toán không dùng tiền
mặt trong khu vực Chính phủ: Giải pháp thẻ thương mại” do Ngân hàng Nhà nƣớc
tổ chức vào ngày 24-3-2006, Hội thảo “Các biện pháp phòng ngừa gian lận thẻ” do
Hội thẻ Ngân hàng Việt Nam tổ chức vào ngày 07-4-2006…
Một số học giả cũng đã đi sâu nghiên cứu về thẻ thanh toán nhƣ:
- Tác giả Nguyễn Danh Lƣơng với Luận án Tiến sĩ kinh tế: “Những giải pháp

nhằm phát triển thanh toán thẻ ở Việt Nam”.
- Tác giả Trần Hoàng Anh với Luận văn Thạc sĩ: “Khảo sát thị trường thẻ tín

dụng tại Tp.Hồ Chí Minh”.
- PGS.TS Lê Văn Tề, Thạc sĩ Trƣơng Thị Hồng với đề tài “Thẻ thanh toán

quốc tế và việc ứng dụng thẻ thanh toán tại Việt Nam”.

8


- Tác giả Phạm Danh Chƣơng với Luận văn Thạc sĩ luật học: “Một số khía

cạnh pháp lý về thẻ thanh toán và thực tiễn điều chỉnh pháp luật về thẻ thanh toán ở
Việt Nam hiện nay”.
Một số khóa luận tốt nghiệp, chuyên đề tốt nghiệp của các sinh viên Học viện
Ngân hàng cũng đề cập tới vấn đề này.
Ngoài ra, cũng có một số bài viết về thẻ thanh toán trên tạp chí, báo chuyên
ngành nhƣ Tạp chí Ngân hàng, Thời báo Ngân hàng, các Báo điện tử trên mạng
Internet...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đã nêu phần lớn chỉ xem xét thẻ từ góc
độ kinh tế, cụ thể là quan hệ thanh toán, tín dụng… chƣa đi sâu nghiên cứu và đƣa
ra các giải pháp cụ thể về mặt pháp lý. Bên cạnh đó, các công trình nghiên cứu này

cũng chỉ tìm hiểu chung về thẻ thanh toán mà chƣa đi sâu nghiên cứu thẻ tín dụng.
BI.

Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu là làm rõ vai trò của thẻ tín dụng trong các giao

dịch thanh toán phi tiền mặt, những khía cạnh pháp lý nảy sinh giữa các chủ thể liên
quan để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn
cho sự phát triển của thẻ tín dụng trong nền kinh tế ở nƣớc ta.
Để thực hiện mục đích trên, Luận văn đề ra các mục tiêu sau:
-

Khảo sát và phân tích quy trình giao dịch phát hành, thanh toán và sử dụng
thẻ tín dụng;

-

Tập hợp, phân loại và phân tích bản chất pháp lý của các mối quan hệ pháp
luật về thẻ tín dụng;

-

Xem xét bản chất mối quan hệ giữa khách hàng, các chủ thể phát hành thẻ,
các chủ thể thanh toán thẻ và Nhà nƣớc từ các góc độ khác nhau nhƣ: từ
góc độ pháp luật thƣơng mại, pháp luật dân sự, pháp luật hành chính, pháp
luật ngân hàng và tƣ pháp quốc tế;

-

Phân tích những cơ sở pháp lý của mối quan hệ liên quan đến thẻ tín dụng

ở Việt Nam, chỉ ra đƣợc những khoảng trống và những bất cập trong các
văn bản pháp luật hiện hành về vấn đề này;

9


-

Luận văn sẽ đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần xây dựng và hoàn
thiện những quy định cơ bản về thẻ tín dụng.

IV. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ một bản Luận văn Thạc sĩ với một đề tài mới, với khả năng
nghiên cứu và nguồn tài liệu tham khảo còn hạn chế, công trình nghiên cứu này
chƣa thể bao quát hết đƣợc các vấn đề pháp lý về thẻ tín dụng mà chỉ dừng lại ở
những tiếp cận ban đầu và các giải pháp mang tính gợi mở.
Luận văn không nhằm cung cấp tất cả các vấn đề pháp lý liên quan tới thẻ tín
dụng mà chỉ nhằm giới thiệu về thẻ tín dụng và nghiên cứu một số vấn đề pháp lý
cơ bản cần đặt ra đối với thẻ tín dụng.
Luận văn cũng đƣa ra một cách tổng quát về sự phát triển của thẻ tín dụng và
thực trạng điều chỉnh pháp luật về thẻ tín dụng ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó Luận văn cũng đƣa ra một số gợi ý và đề xuất một vài vấn đề
chủ yếu để hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh về thẻ tín dụng và bảo đảm cho
khung pháp luật đó đƣợc khả thi trên thực tế.
V.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu trên đây, dựa trên nền tảng

phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Luận văn sử dụng một số

phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ phân tích, chứng minh, so sánh đối chiếu;
phƣơng pháp khảo sát thực tiễn, đánh giá, khái quát hoá, hệ thống hóa vấn đề và
một số phƣơng pháp nghiên cứu khác.
VI. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần nội dung chính của Luận văn gồm 3
chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề pháp lý cơ bản về thẻ tín dụng
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về thẻ tín
dụng ở Việt Nam
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về thẻ tín dụng ở Việt Nam

10


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ THẺ TÍN DỤNG
1.1.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THẺ TÍN DỤNG

1.1.1. Thẻ tín dụng và lịch sử phát triển
1.1.1.1. Sự ra đời của Thẻ tín dụng trên thế giới
Sự ra đời của tiền tệ đã đánh dấu một bƣớc phát triển đột phá của sản xuất và
lƣu thông hàng hóa. Qua nhiều giai đoạn phát triển, ngày nay tiền tệ đã đạt đến hình
thái biểu hiện cao với chức năng thanh toán không dùng tiền mặt, đó là Tiền điện tử.
Thẻ tín dụng chính là một dạng của loại tiền điện tử không dùng tiền mặt đó. Vào
những năm giữa thế kỷ 20, kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ kéo theo nhu cầu
tiêu dùng cá nhân không ngừng tăng lên. Thêm vào đó, những thành quả của sự phát
triển vƣợt bậc trong khoa học kỹ thuật và công nghệ tin học đƣợc ứng dụng vào
ngành tài chính – ngân hàng đã làm thay đổi hình thức thanh toán tiêu dùng truyền

thống của dân chúng, đồng thời đƣa dịch vụ thanh toán điện tử trở thành mũi nhọn
kinh doanh của các ngân hàng. Nằm trong dịch vụ thanh toán điện tử này, kết hợp
với việc kinh doanh tín dụng truyền thống, thẻ tín dụng ra đời không những làm
thay đổi thói quen kinh doanh của ngân hàng mà còn làm thay đổi thói quen tiêu
dùng của ngƣời dân tại nhiều quốc gia.
Năm 1914, một số nhà hàng, khách sạn, Hiệp hội... tại Hoa Kỳ đã sản xuất và
cấp cho các Khách hàng quen của mình những tấm thẻ ƣu đãi để sử dụng cho
những dịch vụ đặc biệt. Tấm thẻ ƣu đãi lúc này chỉ là một sự chứng nhận cho nhân
thân của Chủ thẻ chứ không thay thế cho việc thanh toán các dịch vụ mà Chủ thẻ đó
sử dụng.
Năm 1946, một ngƣời tên là John Biggins sáng lập ra hệ thống mua bán chịu
Charge-it để ngƣời tiêu dùng thực hiện những giao dịch mua bán lẻ tại địa phƣơng.
Các Đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ bán chịu cho khách hàng và nộp biên lai
bán hàng cho ngân hàng của Biggins. Ngân hàng này sẽ trả tiền cho họ và thu lại
tiền từ các khách hàng sử dụng dịch vụ Charge-it.
Năm 1949, sau sự kiện bị từ chối thanh toán bằng séc khi không mang tiền
mặt tại một quán ăn ở New York, ông Frank McNamara đã có sáng kiến phát hành
ra chiếc thẻ Diner Club phát hành cho các hội viên để các hội viên sử dụng mua
11


hàng hóa, dịch vụ mà không cần thanh toán ngay bằng tiền mặt. Diner Club sẽ trả
cho các chủ hiệu tiền hàng hóa dịch vụ của tất cả các hội viên vào cuối tháng, sau
khi trừ đi chi phí dịch vụ thẻ, đồng thời phát hành bảng kê cho các hội viên và yêu
cầu hội viên thanh toán lại ngay cho Diner Club.
Năm 1951, Franklin National Bank- Long Insland- New York (nay là
European American Bank) là ngân hàng đầu tiên phát hành thẻ tín dụng. Để có
đƣợc thẻ, các khách hàng phải có uy tín và năng lực tài chính. Thẻ này dùng cho
các thƣơng vụ bán lẻ hàng hóa dịch vụ. Khi nhận đƣợc thẻ để thanh toán, các Đơn
vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ lƣu lại các thông tin về khách hàng trên thẻ vào hóa

đơn bán hàng. Các Đơn vị này sẽ đƣợc Franklin National Bank thanh toán lại trên
cơ sở có chiết khấu một tỷ lệ nhất định nhƣ là một khoản bù đắp chi phí.
Năm 1959, để tăng sức cạnh tranh, nhiều tổ chức phát hành thẻ đƣa ra loại
hình dịch vụ mới: tín dụng tuần hoàn. Với dịch vụ này, các Chủ thẻ có thể duy trì số
dƣ có trên tài khoản vay bằng một hạn mức tín dụng nếu họ hoàn thành trách nhiệm
thanh toán hàng tháng. Khi đó, số tiền thanh toán hàng tháng của chủ thể sẽ đƣợc
cộng thêm một khoản chi phí tính từ khoản vay của Chủ thẻ.
Đến những năm 60 của thế kỷ 20, thẻ tín dụng đã dần dần xuất hiện trong
cuộc sống của các nƣớc Châu Âu và trở thành một trong những phƣơng tiện thanh
toán thông dụng trên thế giới.
Ở giai đoạn đầu phát triển, Chủ thẻ tín dụng thƣờng là những ngƣời có năng

lực tài chính, có vị thế trong xã hội. Nhƣng các ngân hàng sớm nhận ra đông đảo
dân chúng trong xã hội mới là đối tƣợng sử dụng thẻ tiềm năng và một cuộc đua
tranh giữa các ngân hàng tạo ra sự bùng nổ việc sử dụng thẻ tín dụng.
Năm 1960, ngân hàng Bank of America cho ra đời sản phẩm thẻ đầu tiên của
mình là Bank Americard. Ban đầu, chỉ một nhóm nhỏ các Chủ thẻ và đại lý tham
gia, sau đó Bank of America phát triển mạng lƣới bằng cách mở rộng phạm vi hoạt
động thông qua việc cấp phép cho các tổ chức tài chính khác trong việc phát hành
thẻ và ký kết hợp đồng với các đại lý. Việc phát triển mạng lƣới đại lý và Chủ thẻ
ngày càng mở rộng trên toàn nƣớc Mỹ.
Thấy đƣợc thành công trong việc kinh doanh thẻ của Bank of America, nhiều
tổ chức phát hành thẻ khác bắt đầu liên kết để cạnh tranh với các tổ chức của Bank
of America. Năm 1966, 14 ngân hàng Mỹ liên kết thành tổ chức Interbank
12


(Interbank Card Association - ICA), một tổ chức mới có khả năng trao đổi thông tin
về các giao dịch thẻ tín dụng.
Mặc dù có những rắc rối phát sinh, các tổ chức phát hành thẻ vẫn liên tiếp ra

đời. Năm 1967, 4 ngân hàng ở California đổi tên từ California Bank Card
Association thành Western State Bank Card Association (WSBA). WSBA mở rộng
mạng lƣới thành viên với các tổ chức tài chính khác ở phía Tây nƣớc Mỹ. Sản
phẩm thẻ của WSBA là MasterCharge. WSBA cũng cấp phép cho tổ chức Interbank
sử dụng tên và thƣơng hiệu của MasterCharge. Vào cuối thập niên 60, nhiều tổ
chức tài chính đã trở thành thành viên của MasterCharge và đủ sức cạnh tranh với
Bank Americard.
Năm 1968, Interbank mở rộng thành viên ra khỏi phạm vi nƣớc Mỹ, liên kết
với các tổ chức tài chính Châu Âu và hình thành thẻ EuroCard và năm này cũng là
năm mà thành viên đầu tiên của Nhật tham gia vào tổ chức Interbank.
Năm 1977, tổ chức thẻ Bank Americard đổi tên thành Visa USA và sau đó là
Tổ chức thẻ quốc tế Visa – Visa International.
Năm 1979, tổ chức Master Charge đổi tên thành MasterCard.
Đến thời điểm hiện nay, đã có rất nhiều các tổ chức thẻ quốc tế đƣợc thành
lập bởi các định chế tài chính khác nhau, làm cho thị trƣờng thẻ ngày càng đa dạng
nhƣ: American Express (Amex), Diners Club, JCB, EuroCard... Nhƣng phát triển
mạnh nhất và chiếm lĩnh thị trƣờng nhiều nhất vẫn là VisaCard và Mastercard với
hơn 25 triệu Đơn vị chấp nhận thẻ và hơn 1 triệu điểm rút tiền mặt thuộc 230 quốc
gia và vùng lãnh thổ trong đó có Việt Nam.
1.1.1.2. Sự ra đời của Thẻ tín dụng tại Việt Nam
Từ trƣớc những năm 90 của thế kỷ 20, mặc dù đã đƣợc phổ biến tại nhiều
quốc gia, thẻ tín dụng vẫn chƣa có chỗ đứng tại Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ sau đó ít
lâu, nhờ vào định hƣớng phát triển kinh tế thị trƣờng và chính sách mở cửa, thẻ tín
dụng đã đƣợc các nhà đầu tƣ và khách du lịch nƣớc ngoài mang theo khi nhập cảnh
vào Việt Nam. Trong khi việc thanh toán không dùng tiền mặt thông qua thẻ tín
dụng đã trở thành thói quen của ngƣời nƣớc ngoài, thì tại Việt Nam, họ vẫn phải
dùng ngoại tệ mặt hoặc đến ngân hàng tại Việt Nam đổi lấy tiền đồng Việt Nam để
chi trả cho hàng hóa, dịch vụ mà họ sử dụng. Với sự chuyển biến tích cực của nền

13



kinh tế, cộng với sự hội nhập sâu rộng của kinh tế xã hội Việt Nam vào khu vực và
thế giới, lƣợng khách nƣớc ngoài đến Việt Nam ngày càng gia tăng dẫn đến áp lực
phải chấp nhận phƣơng thức thanh toán phổ biến này của ngƣời nƣớc ngoài.
Đánh dấu điểm khởi đầu cho sự gia nhập chính thức của thẻ tín dụng vào thị
trƣờng Việt Nam là sự kiện Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam (VCB) ký kết hợp
đồng đại lý thanh toán thẻ với ngân hàng BFCE Singapore vào ngày 27-6-1990. Nội
dung của Hợp đồng này là thỏa thuận để các điểm giao dịch và đại lý của VCB có
thể chấp nhận thanh toán đƣợc thẻ Visa. Ngay sau đó, tháng 7-1990 Ngân hàng Sài
Gòn Công Thƣơng liên doanh với một công ty con của Tyndall Group của Anh
thành lập Trung tâm thanh toán Visa tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 24-7-1991,
VCB ký hợp đồng đại lý thanh toán thẻ tín dụng quốc tế Mastercard với công ty thẻ
MBF Malaysia. Ngày 18-9-1991, VCB tiếp tục ký hợp đồng đại lý thanh toán thẻ
JCB card với công ty JCB International Co.Ltd của Nhật Bản.
Đến năm 1994, một số ngân hàng khác cũng tham gia thị trƣờng thanh toán
thẻ nhƣ Ngân hàng Công Thƣơng Việt Nam với thẻ Visa, Eximbank với thẻ Visa và
Mastercard … Cho đến nay ở Việt Nam đã có 19 ngân hàng thƣơng mại tham gia
thanh toán thẻ tín dụng quốc tế với các thƣơng hiệu nhƣ Visacard, Mastercard,
JCB, Amex, Diners Club, Eurocard…
Đó mới chỉ là sự tham gia của các ngân hàng Việt Nam vào hoạt động thanh
toán bằng thẻ tín dụng.
Việc các ngân hàng Việt Nam phát hành thẻ tín dụng thì triển khai chậm hơn.
Hiện tại có 8 ngân hàng thƣơng mạiViệt Nam tham gia phát hành thẻ tín dụng
quốc tế cho các thƣơng hiệu nổi tiếng nhƣ: Visa, Mastercard, JCB, Amex, Diners
Club…
Về lĩnh vực liên kết thẻ, hiện tại mới có 3 liên minh thẻ là liên minh giữa
Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt nam với 17 ngân hàng thƣơng mại cổ phần, công ty
cổ phần chuyển Mạch tài chính Quốc gia – BankNet (có 14 ngân hàng thƣơng mại
tham gia với VDC), hệ thống VNBC (có 4 ngân hàng thƣơng mại tham gia).

Việc sử dụng thẻ ngân hàng nói chung và thẻ tín dụng nói riêng ở Việt Nam
bắt đầu đƣợc triển khai vào những năm 1990 với việc Ngân hàng Nhà nƣớc ban
hành Quyết định số 74/QĐ-NH về “Thể lệ tạm thời về phát hành và sử dụng thẻ

14


thanh toán” và Thống đốc Ngân hàng Nhà nƣớc cho phép áp dụng thí điểm tại
Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam.
Từ những năm 1993 đến 1995, một số ngân hàng trong nƣớc cũng bắt đầu
thực hiện vai trò làm ngân hàng đại lý thanh toán thẻ quốc tế cho các ngân hàng
nƣớc ngoài là thành viên các TCTQT. Khi đó các chủ thẻ thanh toán chủ yếu là
ngƣời nƣớc ngoài sinh sống, hoạt động kinh doanh hoặc du lịch tại Việt Nam.
Đến năm 1996, một số ngân hàng trong nƣớc đã xây dựng các Thể lệ tạm thời
về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ trên cơ sở chấp thuận của Ngân hàng Nhà
nƣớc. Trƣớc nhu cầu đòi hỏi của sự phát triển thanh toán thẻ và nhận định về sự
cần thiết phải có hành lang pháp lý ổn định cho các ngân hàng thƣơng mại thực
hiện nghiệp vụ thẻ, Ngân hàng Nhà nƣớc đã lần lƣợt ban hành các văn bản pháp lý
để điều chỉnh hoạt động của nghiệp vụ này nhƣ: Quyết định số 22/QĐ-NH1 ngày
21-02-1994 về Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt, Thông tƣ số 08/TT-NH2
ngày 02-6-1994 hƣớng dẫn Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt.
Đến năm 1999, NHNN ban hành Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán
thẻ ngân hàng kèm theo Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ngày 19-10-1999
(sau đây gọi tắt là “Quy chế 371”), đặt ra một khung pháp lý để các ngân hàng phát
triển nghiệp vụ thẻ của mình.
Đặc biệt, gần đây nhất, ngày 15-05-2007, Thống đốc NHNN đã ký ban hành
Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN kèm theo Quy chế phát hành, thanh toán, sử
dụng và cung ứng dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng (sau đây gọi tắt là “Quy
chế 20”).
Về đối tƣợng, phạm vi điều chỉnh, Quy chế 20 có đối tƣợng, phạm vi điều

chỉnh đƣợc mở rộng hơn so với các quy định trƣớc đó. Nếu ở Quy chế 371, các loại
thẻ ngân hàng đƣợc áp dụng phải là thẻ do ngân hàng phát hành, thì đến Quy chế
20, thẻ ngân hàng là thẻ do Tổ chức phát hành thẻ phát hành. Khái niệm Tổ chức
phát hành thẻ thì đƣợc hiểu rất rộng: Là ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng,
tổ chức tín dụng hợp tác, tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng đƣợc phép
phát hành thẻ theo quy định tại Điều 9, Quy chế 20 (khoản 12 Điều 2).
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của thẻ tín dụng tại Việt Nam
1.1.2.1. Khái niệm thẻ tín dụng

15


Mặc dù ngƣời dân Việt Nam đang dần trở nên quen thuộc với cụm từ “thẻ tín
dụng”, kể từ khi tần suất xuất hiện cụm từ này trên các phƣơng tiện thông tin đại
chúng ngày một nhiều hơn, thế nhƣng các nhà nghiên cứu vẫn chƣa đƣa ra đƣợc
khái niệm thống nhất về thẻ tín dụng. Theo cách hiểu thông thƣờng thì thẻ là một
vật nhỏ gọn và chứa đựng thông tin của chủ sở hữu chiếc thẻ đó nhằm sử dụng vào
một hoặc nhiều mục đích nhất định. Định nghĩa về từ “thẻ” trong Từ điển Tiếng
Việt cũng cho thấy nhƣ vậy: “Thẻ là giấy chứng nhận một tƣ cách nào đó, thƣờng
có dạng nhỏ gọn” [9, tr. 930]. Với khái niệm này, thẻ luôn gắn liền với chủ thể nhất
định và đƣợc chủ thể đó sử dụng nhƣ là một bằng chứng chứng tỏ tƣ cách chủ thể
khi tham gia giao dịch mà không phải xuất trình nhiều giấy tờ liên quan. Tính năng
này đặc biệt hữu ích khi các chủ thể tham gia các giao dịch liên quan đến ngân
hàng, những giao dịch đòi hỏi nhiều trình tự, thủ tục xác nhận nhân thân, xác nhận
căn cƣớc để tránh rủi ro nhầm lẫn, thất thoát tiền. Do đó, cụm từ “thẻ ngân hàng”
hoặc “thẻ thanh toán” hoặc “thẻ tín dụng” đƣợc đề cập đến thƣờng xuyên trong đời
sống xã hội, không chỉ trên thế giới mà cả ở Việt Nam hiện nay.
Hoạt động tín dụng là chức năng đặc trƣng của các ngân hàng nên thẻ tín
dụng thƣờng do các ngân hàng phát hành. Chính vì vậy phần lớn thẻ tín dụng cũng
là thẻ ngân hàng. Bên cạnh đó, mục đích sử dụng của thẻ tín dụng là thanh toán

hàng hóa dịch vụ nên thẻ tín dụng cũng là một trong những loại thẻ thanh toán. Với
những đặc tính chung đó, thẻ tín dụng sẽ mang những tính chất, đặc điểm của cả thẻ
ngân hàng và thẻ thanh toán.
Theo các quan điểm kinh tế học, thẻ thanh toán có thể đƣợc hiểu là “chìa khóa
đa năng để Chủ thẻ kết nối với các chủ thể khác tham gia hệ thống thanh toán thẻ
phục vụ quá trình lƣu chuyển hàng hóa, tiền tệ đƣợc thỏa thuận trƣớc nhằm thực
hiện các dịch vụ thỏa mãn nhu cầu của mình” [23, tr. 9]. Thẻ thanh toán “là công cụ
thanh toán do TCPHT cấp cho khách hàng sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá dịch
vụ hoặc rút tiền mặt trong phạm vi số dƣ của mình ở tài khoản tiền gửi hoặc hạn
mức tín dụng đƣợc cấp theo hợp đồng ký kết giữa TCPHT và Chủ thẻ” [25, tr. 6].
Xét từ góc độ luật học, khái niệm thẻ thanh toán đã xuất hiện trong văn bản pháp
luật Việt Nam từ năm 1994 mặc dù chƣa đƣợc định nghĩa chính thức. Tại Điều 24 của
Thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt, đƣợc ban hành kèm theo Quyết định số 22/QĐNH1 ngày 21-02-1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nƣớc, thẻ thanh

16


toán mới chỉ đƣợc giải thích là “do Ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng
sử dụng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ, các khoản thanh toán khác và rút tiền mặt tại
các Ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy trả tiền mặt tự động.” Cũng tại Điều
24 Thể lệ này, thẻ thanh toán đƣợc phân loại gồm thẻ ghi nợ, thẻ ký quỹ thanh toán
và thẻ tín dụng. Thẻ tín dụng, mặc dù chƣa đƣợc định nghĩa trong văn bản này,
nhƣng cũng đã đƣợc mô tả nhƣ sau: “Thẻ tín dụng áp dụng đối với khách hàng có
đủ điều kiện được Ngân hàng đồng ý cho vay tiền. Khách hàng chỉ được thanh toán
số tiền trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng chấp thuận bằng văn
bản.”
Đến năm 1999, các khái niệm về thẻ đã đƣợc pháp quy hóa trong Quy chế
phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng (đƣợc ban hành kèm theo Quyết
định số 371/1999/QĐ-NHNN ngày 19-10-1999 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nƣớc). Quy chế này đƣa ra khái niệm thẻ ngân hàng nhƣ sau: Thẻ ngân hàng “ là

công cụ thanh toán do TCPHT cấp cho khách hàng sử dụng theo hợp đồng ký kết
giữa TCPHT và Chủ thẻ”. Sau đó, tại Điều 3 của Quy chế này, thẻ ngân hàng đƣợc
phân loại thành thẻ thanh toán và thẻ tín dụng. Thẻ thanh toán là thẻ ngân hàng
“được Chủ thẻ sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, rút tiền mặt trong
phạm vi số dư trên tài khoản tiền gửi của mình tại TCPHT” và thẻ tín dụng “là loại
thẻ cho phép Chủ thẻ thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, rút tiền mặt trong hạn mức
tín dụng được TCPHT chấp thuận theo hợp đồng”
Mới đây nhất, năm 2007, khái niệm về các loại thẻ đã đƣợc sửa đổi lại trong
Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ
ngân hàng, đƣợc ban hành kèm theo Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15-52007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nƣớc. Theo đó, không sử dụng khái niệm thẻ
thanh toán mà sử dụng khái niệm thẻ ngân hàng và thẻ ngân hàng đƣợc hiểu là
“phương tiện do tổ chức phát hành thẻ phát hành để thực hiện giao dịch thẻ theo
các điều kiện và điều khoản được các bên thỏa thuận”. Thẻ ngân hàng sẽ bao gồm
thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng và thẻ trả trƣớc. Khoản 5 Điều 2 Quy chế này có định nghĩa
“Thẻ tín dụng (credit card): Là thẻ cho phép Chủ thẻ thực hiện giao dịch thẻ trong
phạm vi hạn mức tín dụng được cấp theo thỏa thuận với tổ chức phát hành thẻ”.
Trong đó, khái niệm “giao dịch thẻ” đƣợc hiểu là “việc sử dụng thẻ để gửi, nạp, rút
tiền mặt, thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, sử dụng các dịch vụ khác do tổ chức
phát hành thẻ, tổ chức thanh toán thẻ cung ứng”.
17


Mặc dù thẻ tín dụng đã đƣợc định danh trong các văn bản quy phạm pháp
luật, song các nhà nghiên cứu luật học vẫn đƣa ra các quan điểm khác nhau về khái
niệm “thẻ thanh toán” “thẻ tín dụng”. Theo Thạc sỹ Phạm Danh Chƣơng, Thẻ thanh
toán là “một công cụ thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hàng, các tổ chức tài
chính hoặc các công ty phát hành được người sở hữu thẻ sử dụng để thỏa mãn nhu
cầu tiêu dùng của mình, kể cả rút tiền mặt, thực hiện các dịch vụ tự động do ngân
hàng hoặc các tổ chức khác cung cấp thông qua hệ thống thanh toán điện tử.” [24,
tr. 11][24]. Cách tiếp cận của mỗi tác giả nêu trên đều có những hạt nhân cơ bản thể

hiện bản chất của thẻ tín dụng. Tuy nhiên theo chúng tôi, thẻ tín dụng cần đƣợc
định nghĩa sát với bản chất pháp lý của thẻ hơn nữa. Vì lý do đó, chúng tôi đƣa ra
định nghĩa sau về thẻ tín dụng. “Thẻ tín dụng là phƣơng tiện thanh toán do ngân
hàng hoặc tổ chức phi ngân hàng phát hành theo thỏa thuận với Chủ thẻ để
đáp ứng các nhu cầu tín dụng, thanh toán trong một hạn mức tiền nhất định
thông qua việc xác lập quan hệ thanh toán giữa Chủ thẻ với Đơn vị chấp nhận
thẻ, đồng thời cũng xác lập quan hệ vay nợ giữa Chủ thẻ với tổ chức đã phát
hành thẻ”.
1.1.2.2. Đặc điểm của thẻ tín dụng
Từ định nghĩa nhƣ đã nêu trên, Thẻ tín dụng mang những đặc trƣng pháp lý
nhƣ sau:
Thứ nhất, thẻ tín dụng luôn gắn liền với một chủ thể nhất định. Chủ thể này
chính là chủ sở hữu của thẻ tín dụng. Tên, hình ảnh của Chủ thẻ đƣợc in ngay trên
thẻ và Chủ thẻ cũng phải ký tên lên mặt sau của thẻ ngay khi nhận thẻ trƣớc sự
chứng kiến của nhân viên Tổ chức phát hành thẻ (TCPHT). Việc ký tên trên thẻ là
rất cần thiết vì mỗi khi thanh toán tại Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT), Chủ thẻ phải
ký vào các hóa đơn bán hàng để ĐVCNT đối chiếu chữ ký trên hóa đơn và chữ ký
trên thẻ. Ngoài ra, ĐVCNT còn đối chiếu ảnh của Chủ thẻ đƣợc in trên thẻ với
ngƣời đang sử dụng thẻ. Nếu có yếu tố không trùng khớp thì ĐVCNT có thể từ chối
nhận thanh toán bằng thẻ vì không đủ yếu tố xác định chính xác ngƣời cầm thẻ là
Chủ thẻ. Chính vì vậy, có thể coi thẻ tín dụng là giấy chứng nhận tƣ cách của Chủ
thẻ đúng nhƣ định nghĩa về “thẻ” trong Từ điển Tiếng Việt mà chúng tôi đã dẫn ở
trên. Đây cũng chính là bằng chứng chứng tỏ khả năng tài chính của Chủ thẻ, bằng
chứng chứng tỏ khả năng thực hiện đƣợc nghĩa vụ thanh toán của Chủ thẻ sau khi

18


mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ tại Đơn vị chấp nhận thẻ. Bên cạnh khả năng tài
chính, đƣơng nhiên Chủ thẻ cũng phải có năng lực chủ thể để tự mình xác lập các

giao dịch từ giao dịch thƣơng mại, dân sự với ĐVCNT đến các giao dịch thanh
toán, tín dụng liên quan tới ngân hàng. Do đó, phải có tổ chức trung gian thẩm định
và xác nhận cho tƣ cách của Chủ thẻ, tổ chức này không ai khác ngoài TCPHT.
Thứ hai, thẻ tín dụng đƣợc phát hành từ một thỏa thuận giữa Chủ thẻ với
TCPHT. Thỏa thuận này có hình thức pháp lý là Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng. Để
đi đến ký kết đƣợc Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng, Chủ thẻ phải chứng minh đƣợc
năng lực chủ thể, khả năng tài chính, khả năng trả nợ của mình. Là một đơn vị kinh
doanh chuyên nghiệp về trung gian thanh toán và tín dụng, TCPHT sẽ đặt ra các
điều kiện để thẩm định các khả năng này của Chủ thẻ. Ví dụ nhƣ: đủ độ tuổi, có địa
chỉ rõ ràng, có nguồn thu nhập ổn định, có tài sản bảo đảm, có uy tín trong quan hệ
tín dụng. Tất cả các yếu tố đó tạo nên khả năng tài chính của Chủ thẻ và bằng việc
phát hành thẻ, TCPHT đã xác nhận cho Chủ thẻ khả năng này. Việc xác nhận khả
năng tài chính cho Chủ thẻ thông qua thẻ tín dụng cũng đồng nghĩa với việc TCPHT
phải cam kết thanh toán hộ cho Chủ thẻ mỗi khi phát sinh giao dịch. Do đó, ngoài
các nội dung thỏa thuận về các yếu tố tạo lập khả năng tài chính của Chủ thẻ, Hợp
đồng sử dụng thẻ tín dụng còn đề cập đến điều kiện, trình tự, thủ tục để thực hiện
thanh toán qua trung gian nhƣ: mở tài khoản thẻ, cam kết thanh toán... Thời điểm
thanh toán hộ cho Chủ thẻ cũng chính là thời điểm Chủ thẻ nhận nợ với TCPHT,
cũng là thời điểm phát sinh quan hệ tín dụng giữa hai bên. Vì thế, một nội dung
quan trọng nữa trong Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng là các điều khoản về xác nhận
nợ, tài sản bảo đảm, nguồn trả nợ, hạn mức tín dụng, …
Thứ ba, thẻ tín dụng luôn gắn liền với một tài khoản ngân hàng nhất định. Đó là
tài khoản của chính Chủ thẻ mở tại TCPHT - nếu TCPHT cũng là ngân hàng - hoặc tại
một ngân hàng mà TCPHT ủy quyền - nếu TCPHT không phải là ngân hàng. Khi sử
dụng thẻ tín dụng, ngƣời mua - Chủ thẻ - không chi trả bằng tiền mặt và bên bán hàng
– Đơn vị chấp nhận thẻ - cũng không thu tiền mặt. Giá trị các hàng hóa dịch vụ mua và
sử dụng đƣợc tính bằng “tiền điện tử”. Giao dịch bằng tiền điện tử phải gắn với hệ
thống thanh toán điện tử do các tổ chức trung gian thanh toán, thƣờng là các ngân
hàng, tham gia và cung cấp dịch vụ. Dịch vụ thanh toán không sử dụng tiền mặt đƣợc
thực hiện trên các tài khoản của các bên giao dịch mà biểu hiện là việc tăng số dƣ tiền

trên tài khoản của chủ thể này và giảm số dƣ tiền trên tài

19


khoản của chủ thể kia. Khi sử dụng thẻ tín dụng, tài khoản của Chủ thẻ sẽ đƣợc báo
“nợ” và tài khoản của ĐVCNT sẽ đƣợc báo “có”. Đây cũng là một đặc điểm chung
của tất cả các loại thẻ ngân hàng, trong đó có thẻ tín dụng.
Thứ tư, Thẻ tín dụng làm phát sinh quan hệ cam kết thanh toán “liên hoàn”.
Cam kết thanh toán “liên hoàn” là các cam kết thanh toán của các Tổ chức trung
gian cho ĐVCNT. Ngay tại thời điểm dùng thẻ tín dụng để thanh toán giá trị hàng
hóa dịch vụ vừa sử dụng, tài khoản của Chủ thẻ tín dụng đã bị ghi nợ nhƣng Chủ
thẻ không phải thanh toán ngay cho TCPHT. Tài khoản của ĐVCNT cũng chƣa
đƣợc báo “có” ngay lúc đó. ĐVCNT mới chỉ nhận đƣợc các cam kết sẽ thanh toán
của các đơn vị trong hệ thống thanh toán thẻ (là TCPHT, các TCTTT, tổ chức thẻ
quốc tế…). Trƣớc tiên, đó là cam kết của Tổ chức thanh toán thẻ, là đơn vị trực tiếp
quan hệ với ĐVCNT, là đơn vị quản lý tài khoản của ĐVCNT và cung cấp dịch vụ
thanh toán cho ĐVCNT. Đây cũng là đơn vị sẽ có trách nhiệm ghi tăng cho số dƣ
trong tài khoản của ĐVCNT. Sau đó là cam kết của TCPHT, là đơn vị trực tiếp quan
hệ với Chủ thẻ, là đơn vị quản lý tài khoản của Chủ thẻ và cung cấp dịch vụ thanh
toán cho Chủ thẻ. TCPHT căn cứ vào số dƣ nợ trong tài khoản của Chủ thẻ để biết
đã có phát sinh giao dịch và cam kết sẽ thanh toán cho TCTTT. Trƣờng hợp TCPHT
và TCTTT không có mối liên hệ trực tiếp thì các cam kết thanh toán này còn phát
sinh thêm tại các đơn vị trung gian khác nữa nhƣ: Ngân hàng đầu mối (Ví dụ: Ngân
hàng Ngoại thƣơng Việt Nam – VCB…), Tổ chức thẻ quốc tế (Ví dụ nhƣ:
Mastercard International, Visacard International…). Trƣờng hợp đơn giản nhất là
trƣờng hợp TCPHT cho Chủ thẻ cũng chính là TCTTT cho ĐVCNT. Khi đó chỉ có
ba chủ thể tham gia hệ thống thanh toán thẻ này, đó là Chủ thẻ, Ngân hàng và
ĐVCNT và chỉ có một cam kết thanh toán đƣợc đƣa ra bởi một ngân hàng duy
nhất, là ngân hàng của cả Chủ thẻ và ĐVCNT. Tuy nhiên trƣờng hợp này là không

phổ biến bởi vì một tổ chức chỉ có khả năng giới hạn trong việc phát triển số lƣợng
thẻ và số lƣợng ĐVCNT, trong khi các Chủ thẻ tín dụng thì lại có nhu cầu thanh
toán thẻ tín dụng tại bất cứ cửa hàng, khách sạn … nào, tức là bao gồm cả ĐVCNT
của các tổ chức khác nữa.
Nhƣ vậy, TCPHT có thể không có liên hệ với ĐVCNT nhƣng thông qua hệ
thống trung gian thanh toán thẻ, TCPHT sẽ cam kết thanh toán cho các đơn vị trung
gian thanh toán. Các đơn vị trung gian thanh toán thì cam kết thanh toán cho
TCTTT và TCTTT thì cam kết thanh toán cho ĐVCNT. Chính vì vậy mà thẻ tín
20


dụng mang một đặc điểm khá nổi bật là việc làm phát sinh quan hệ cam kết thanh
toán “liên hoàn”.
Thứ năm, Thẻ tín dụng làm phát sinh quan hệ vay nợ giữa Chủ thẻ với
TCPHT. Cùng với việc hình thành các cam kết thanh toán “liên hoàn” giữa ĐVCNT
với các đơn vị trong hệ thống thanh toán thẻ, thì quan hệ vay nợ cũng đƣợc phát
sinh giữa TCPHT và Chủ thẻ tín dụng. Khi đó, tài khoản của Chủ thẻ sẽ bị báo
“nợ”, tức là số dƣ âm trên tài khoản và Chủ thẻ có trách nhiệm nộp trả TCPHT vào
một thời điểm mà TCPHT ấn định. Chính vì có phát sinh quan hệ vay nợ mà từ “tín
dụng” đƣợc dùng để đặt tên cho loại thẻ này.
Trong quan hệ vay nợ vừa phát sinh, để bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh
doanh của TCPHT, Chủ thẻ sẽ chỉ đƣợc chi tiêu, thanh toán đến một giới hạn nhất
định gọi là hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng này có tính chất tuần hoàn, tức là
dƣ nợ phát sinh tối đa bằng giá trị của hạn mức tín dụng và nếu Chủ thẻ thanh toán
toàn bộ hoặc một phần dƣ nợ phát sinh thì hạn mức tín dụng lại đƣợc khôi phục và
chủ thể lại có thể dùng thẻ tín dụng để phát sinh tiếp dƣ nợ mới. Thông thƣờng thì
thời gian để Chủ thẻ trả nợ là khoảng 1 tháng đến 2 tháng, tức là khoản vay này có
thể đƣợc coi là khoản vay ngắn hạn. Còn hạn mức tín dụng thông thƣờng thì dao
động trong một phạm vị rộng, tùy từng TCPHT và năng lực tài chính của Chủ thẻ,
có thể từ năm triệu đồng đến hơn một trăm triệu đồng.

Để tránh rủi ro cho hoạt động kinh doanh tín dụng nói chung và kinh doanh
thẻ tín dụng nói riêng, các TCPHT thƣờng yêu cầu khách hàng phải có tài sản bảo
đảm. Việc ấn định hạn mức tín dụng cho Chủ thẻ còn liên quan đến tài sản bảo đảm
của Chủ thẻ nữa. Tuy nhiên, do mục đích sử dụng thẻ tín dụng thƣờng là tiêu dùng
cá nhân nên dƣ nợ phát sinh không lớn, mặt khác yêu cầu về tài sản bảo đảm cũng
làm hạn chế đến số lƣợng thẻ tín dụng đƣợc phát hành nên trong thực tế hiện nay
nhiều thẻ tín dụng đƣợc phát hành trên cơ sở không có tài sản bảo đảm với hạn mức
tín dụng thấp (ví dụ không quá ba tháng lƣơng của Chủ thẻ). Nhƣ vậy là vẫn có thể
góp phần giảm thiểu đƣợc rủi ro tín dụng khi kinh doanh loại hình thẻ này.
Chính vì các yếu tố trên nên việc làm phát sinh quan hệ vay nợ - quan hệ tín
dụng - trở thành một đặc điểm riêng của thẻ tín dụng mà các loại thẻ thanh toán
khác không có. Ví dụ nhƣ với các loại thẻ ghi nợ hoặc thẻ trả trƣớc, tài khoản của
Chủ thẻ bắt buộc phải có đủ số dƣ để thực hiện việc chi trả cho hàng hóa, dịch vụ
21


mà chủ thể đó sử dụng. Số dƣ trên tài khoản thẻ bị trừ ngay khi Chủ thẻ dùng thẻ để
thanh toán tại Đơn vị chấp nhận thẻ. TCPHT chỉ cung cấp dịch vụ thanh toán thông
thƣờng mà không phải ứng trƣớc tiền cho Chủ thẻ. Cả nghiệp vụ thanh toán và
nghiệp vụ tín dụng đều thuộc lĩnh vực truyền thống, đặc thù của các ngân hàng nên
các TCPHT chủ yếu là các ngân hàng cũng là điều dễ hiểu.
1.2.

QUAN HỆ PHÁP LUẬT VỀ THẺ TÍN DỤNG

1.2.1. Các chủ thể liên quan đến việc sử dụng Thẻ tín dụng ở Việt Nam
Qua khảo sát quá trình phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ tín dụng [Phụ lục
III], các chủ thể tham gia là rất đa dạng, tuy nhiên các chủ thể trực tiếp và chủ yếu
thì bao gồm: Chủ thẻ, Tổ chức phát hành thẻ, Tổ chức thanh toán thẻ, Đơn vị chấp
nhận thẻ, Tổ chức thanh toán trung gian, Tổ chức thẻ quốc tế.

Chủ thẻ là cá nhân hoặc tổ chức đƣợc Tổ chức phát hành thẻ cấp thẻ để sử
dụng. Trong trƣờng hợp Tổ chức phát hành thẻ cấp thẻ cho một cá nhân thì cá nhân
này vừa là chủ tài khoản thẻ vừa là ngƣời trực tiếp sử dụng thẻ. Một tài khoản thẻ
cũng có thể đƣợc mở cho nhiều thẻ cùng sử dụng trong đó có một thẻ chính và một
hoặc nhiều thẻ phụ. Chủ thẻ chính là ngƣời đứng tên đề nghị TCPHT cấp thẻ đồng
thời là chủ tài khoản thẻ. Do đó Chủ thẻ chính phải chịu hoàn toàn trách nhiệm
thanh toán, xử lý các vấn đề liên quan đến việc sử dụng thẻ chính và thẻ phụ của
mình. Chủ thẻ phụ là ngƣời đƣợc cấp thẻ theo đề nghị của Chủ thẻ chính, đƣợc sử
dụng thẻ trong hạn mức tín dụng của Chủ thẻ chính.
Trong trƣờng hợp Tổ chức phát hành thẻ cấp thẻ cho một tổ chức thì tổ chức
này là chủ tài khoản thẻ nhƣng phải ủy quyền cho một hoặc nhiều cá nhân trực tiếp
sử dụng thẻ.
Tổ chức phát hành thẻ (TCPHT) là đơn vị cấp thẻ tín dụng cho các Chủ thẻ sử
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán, tín dụng liên quan đến thẻ đó. Tổ chức
này phải đƣợc Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam cho phép thực hiện các nghiệp vụ
trên. Trong trƣờng hợp phát hành thẻ tín dụng quốc tế, tổ chức này còn phải đƣợc
sự cho phép của các tổ chức thẻ quốc tế. Trên thế giới, đa số các Tổ chức phát hành
thẻ là các ngân hàng. Thực tế ở Việt Nam hiện nay, các Tổ chức phát hành thẻ đều là
các ngân hàng mặc dù pháp luật Việt Nam không hạn chế điều đó.

22


Tổ chức thanh toán thẻ (TCTTT) là đơn vị cung ứng dịch vụ thanh toán cho
Khách hàng của mình là những Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT). Thông qua hệ
thống thanh toán điện tử, TCTTT sẽ đảm nhận chức năng trung gian thanh toán giữa
TCPHT và ĐVCNT. Để thực hiện đƣợc việc thanh toán này, TCTTT phải có mối
liên hệ với TCPHT theo các cấp độ sau:
-


TCTTT chính là TCPHT: Đây là trƣờng hợp đơn giản nhất, việc thanh

toán chỉ là việc bù trừ giữa các tài khoản trong cùng một tổ chức.
-

TCTTT đã có thỏa thuận thanh toán với TCPHT: Việc thanh toán đƣợc bù

trừ giữa các tài khoản do hai tổ chức này quản lý.
-

TCTTT không có thỏa thuận trực tiếp với TCPHT nhƣng phải cùng ký kết

với một tổ chức trung gian hoặc cùng thuộc một liên minh thẻ: đây là trƣờng
hợp phổ biến nhất. Ví dụ nhƣ ở Việt Nam, một số ngân hàng cùng ký kết và
tham gia liên minh thẻ do VCB làm đấu mối. Hoặc đối với thẻ tín dụng quốc
tế, các TCPHT và TCTTT phải có thỏa thuận trƣớc với cùng một tổ chức thẻ
quốc tế (Visacard, Mastercard…) tức là phải là thành viên chính thức hoặc
thành viên liên kết của một Tổ chức thẻ quốc tế và phải thực hiện dịch vụ
thanh toán theo các Hợp đồng đã ký kết với Tổ chức thẻ quốc tế đó.
Về phía TCTTT, TCTTT phải trực tiếp ký hợp đồng với các ĐVCNT để tiếp
nhận và xử lý các giao dịch tại ĐVCNT, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, hƣớng dẫn
cho các ĐVCNT nghiệp vụ xử lý cũng nhƣ chuyển tải các thông tin cần thiết trong
quá trình giao dịch.
Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) là tổ chức hoặc cá nhân cung ứng hàng hóa
dịch vụ cho ngƣời tiêu dùng và có khả năng chấp nhận cho ngƣời tiêu dùng thanh
toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ bằng thẻ tín dụng. Để có khả năng này, ĐVCNT
phải ký kết Hợp đồng đơn vị chấp nhận thẻ với TCTTT và đƣợc TCTTT trang bị
máy móc kỹ thuật nhƣ máy EDC hoặc máy cà thẻ để kiểm tra tài khoản của Chủ thẻ
và thực hiện thanh toán qua tài khoản đó. ĐVCNT có thể là nhà hàng, khách sạn,
sân bay, cửa hàng, siêu thị… ngoài ra có thể là các đơn vị nhận ứng tiền mặt, ngân

hàng đại lý đƣợc TCPHT ủy quyền ứng tiền mặt cho Chủ thẻ…
Tổ chức thanh toán trung gian là đơn vị cung cấp dịch vụ thanh toán qua thẻ tín
dụng bao gồm việc trao đổi dữ liệu bằng điện tử hoặc bằng chứng từ và bù trừ các
nghĩa vụ tài chính phát sinh từ các giao dịch thẻ cho các TCPHT, TCTTT và ĐVCNT

23


theo thoả thuận bằng văn bản giữa các bên liên quan. Ở Việt Nam, nổi bật nhất
trong vai trò trung gian đầu mối là Ngân hàng Ngoại thƣơng Việt Nam… Các tổ
chức thanh toán trung gian này thƣờng là TCPHT hoặc TCTTT có sản phẩm thẻ
riêng, có uy tín, có thƣơng hiệu, có thị phần lớn về kinh doanh thẻ… do đó có lợi
thế để đứng ra ký kết Hợp đồng đại lý dịch vụ với từng TCTTT, TCPHT và trở
thành tổ chức đầu mối thanh toán trung gian cho cả một mạng lƣới nhiều TCPHT,
TCTTT trên thị trƣờng.
Tổ chức thẻ quốc tế (TCTQT) là một tổ chức hoạt động theo mô hình công ty
hoặc Hiệp hội, gồm một hoặc một số các ngân hàng, định chế tài chính hoặc tổ chức
phi tài chính gắn với một thƣơng hiệu độc quyền sản phẩm thẻ (nhƣ Visa
International, Mastercard International, American Express, Diner Club, JCB…).
Trên cơ sở thương hiệu đó, các Tổ chức thẻ quốc tế có thể ủy quyền cho các ngân
hàng, tổ chức khác phát hành thẻ dưới thương hiệu của mình. TCTQT có điều lệ và
quy chế hoạt động riêng, chịu trách nhiệm tổ chức và hướng dẫn các thành viên
của mình thực hiện theo đúng quy chế, quy định đề ra cũng như có trách nhiệm
phân xử, hòa giải những tranh chấp trong quá trình vận hành [23, tr. 20]. [23]
TCTQT sẽ cấp phép thành viên cho các TCPHT và TCTTT. Khác với các tổ chức
thành viên, TCTQT không có quan hệ trực tiếp với Chủ thẻ hay ĐVCNT mà chức
năng chủ yếu của TCTQT là: cung cấp một mạng lƣới viễn thông toàn cầu phục vụ
cho quy trình thanh toán, cấp phép giao dịch của các tổ chức thành viên; đƣa ra các
quy định đặc thù về thẻ tín dụng mang thƣơng hiệu của mình; là trung gian giải
quyết các tranh chấp khiếu nại giữa các thành viên; xây dựng các chƣơng trình

khuyếch trƣơng mở rộng thƣơng hiệu của mình; phát triển các sản phẩm mới. Mỗi
TCTQT đều có tên sản phẩm thẻ của mình dù TCPHT có thể khác nhau.
+ Ngoài các chủ thể chủ yếu nêu trên, còn có các chủ thể liên quan đến quá

trình phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ tín dụng nhƣ: Đại lý phát hành thẻ,
Ngƣời bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Chủ thẻ, Hội thẻ ngân hàng Việt Nam.
Đại lý phát hành thẻ là đơn vị thay mặt cho TCPHT phát hành thẻ cho Chủ
thẻ. Đại lý phát hành thẻ có thể là một ngân hàng, một doanh nghiệp hoặc tổ chức
khác miễn là có ký kết hợp đồng đại lý phát hành thẻ với TCPHT.

24


Người bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Chủ thẻ là cá nhân, tổ chức cầm cố,
thế chấp tài sản của mình hoặc bảo lãnh cho Chủ thẻ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
của Chủ thẻ đối với TCPHT.
Hội thẻ ngân hàng Việt Nam là một tổ chức do các ngân hàng kinh doanh thẻ
thanh toán thành lập để hoạch định chiến lược và định hướng phát triển dịch vụ thẻ
trên thị trường Việt Nam, là diễn đàn trao đổi kinh nghiệm, tạo sự hợp tác tương trợ
giữa các ngân hàng thành viên [18], cùng phối hợp với các thành viên tìm ra giải
pháp, thỏa thuận những vấn đề liên quan trong hoạt động cạnh tranh, bảo đảm cạnh
tranh lành mạnh công bằng giữa các ngân hàng, trên cơ sở các bên cùng có lợi.
+ Liên quan đến việc phát hành, sử dụng thanh toán thẻ tín dụng còn một chủ thể

đặc biệt là Ngân hàng Nhà nước do các hoạt động của chủ thể này gắn liền với quyền
lực nhà nƣớc. Với chức năng quản lý nhà nƣớc về lĩnh vực tiền tệ ngân hàng, khi tham
gia vào các quan hệ phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ tín dụng, Ngân hàng Nhà
nƣớc có nhiệm vụ cấp thu hồi các giấy phép liên quan; kiểm tra, thanh tra hoạt động
ngân hàng về thẻ tín dụng; kiểm soát tín dụng; quản lý ngoại hối, xử lý các
vi phạm…


1.2.2. Các quan hệ xã hội liên quan đến Thẻ tín dụng ở Việt Nam
Với việc tham gia của nhiều loại hình chủ thể nhƣ đã đề cập ở trên thì các mối
quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể này liên quan đến thẻ tín dụng là rất phức
tạp. Trong phạm vi công trình nghiên cứu này, chúng tôi chỉ tìm hiểu các mối quan
hệ cơ bản và chủ yếu, bao gồm:
1.2.2.1. Nhóm các quan hệ liên quan trực tiếp đến giao dịch thẻ tín dụng
* Quan hệ giữa TCPHT và Chủ thẻ:

Quan hệ giữa Chủ thẻ với TCPHT là một trong những quan hệ cơ bản liên
quan đến thẻ tín dụng. Khi phát sinh nhu cầu sử dụng thẻ tín dụng, khách hàng sẽ
lựa chọn một TCPHT và đề nghị tổ chức này phát hành thẻ tín dụng cho mình. Trên
cơ sở thẩm định các thông tin mà khách hàng cung cấp, nếu đủ điều kiện, TCPHT
và khách hàng tiến hành ký kết Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng, đánh dấu sự hình
thành của mối quan hệ giữa TCPHT và khách hàng. Tính chất cơ bản của mối quan
hệ này thể hiện ở các yếu tố:

25


×