Tải bản đầy đủ (.docx) (117 trang)

Nghiên cứu, phát hiện những bất cập trong chế định thừa kế của bộ luật dân sự 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.05 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VƢƠNG THỊ VÂN ANH

NGHIÊN CỨU, PHÁT HIỆN NHỮNG
BẤT CẬP TRONG CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ
CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VƢƠNG THỊ VÂN ANH

NGHIÊN CỨU, PHÁT HIỆN NHỮNG BẤT
CẬP TRONG CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ CỦA
BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005
Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHÙNG TRUNG TẬP

HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vƣơng Thị Vân Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
Chƣơng 1.........................................................................................................6
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ..........................................6
1.1.

KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở
VIỆT NAM.......................................................................................... 6

1.1.1. Khái niệm Pháp luật về thừa kế............................................................6
1.1.2. Đặc điểm Pháp luật thừa kế Việt Nam................................................. 8
1.2.

NHỮNG NGUYÊN TẮC PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT
NAM 9
1.2.1. Nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công
dân......................................................................................................10
1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về thừa kế........11
1.2.3. Nguyên tắc tôn trọng ý chí của người có quyền thừa kế....................12
1.2.4. Nguyên tắc cá nhân người thừa kế phải còn sống vào thời điểm
mở thừa kế..........................................................................................15
1.3.

KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT
VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM............................................................16

1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng 8/1945.........................................17
1.3.2. Giai đoạn từ Cách mạng Tháng 8/1945 đến trước 01/7/1996............27
1.3.3. Giai đoạn từ 01/07/1996 đến nay....................................................... 33
Kết luận Chƣơng 1.......................................................................................37


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM .....
2.1.

PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆ

2.1.1.

Nhóm quy phạm pháp luật quy định

thừa kế .............................................
2.1.2.


Nhóm quy phạm pháp luật quy định

(bao gồm 28 điều, từ Điều 646 đến Đ
2.1.3.

Nhóm quy phạm pháp luật quy định

2.2.

NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG Á

VỀ THỪA KẾ TRONG THỰC TIỄ

QUYẾT CÁC VỤ ÁN THỪA KẾ ..
2.2.1.

Phần những quy định chung ............

2.2.2.

Những quy định về Thừa kế theo Di

2.2.3.

Những quy định về Thừa kế theo ph

2.2.4.

Những quy định về thanh toán và ph


Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỪA

KẾ Ở VIỆT NAM..........................
3.1.

NGƯỜI THỪA KẾ ..........................

3.2.

TỪ CHỐI DI SẢN ..........................

3.3.

VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN.........

3.4.

THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT.......

3.4.1.

Thừa kế thế vị ...................................

3.4.2.

Quan hệ thừa kế giữa con riêng và b

3.5.


HẠN CHẾ PHÂN CHIA DI SẢN ...

3.6.

THỪA KẾ THEO DI CHÚC ...........

3.6.1.

Truất quyền hưởng di sản của người

3.6.2.

Di sản dùng vào việc thờ cúng ........
5


3.7.

THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT................................................92

3.8.

GIẢI QUYẾT THỪA KẾ CỔ PHẦN NGÂN HÀNG PHẢI
PHÙ HỢP VỚI PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN

96

3.8.1. Xác định hình thức thừa kế và người thừa kế.....................................97
3.8.2. Một số tồn tại thực tế thường gặp trong hồ sơ thừa kế cổ phần

ngân hàng

99

KẾT LUẬN..................................................................................................102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................104

6


BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BLDS
CHXHCN
CNXH
DSTC
HĐTP
HNGĐ
HVLL
Luật HN & GĐ
NN
NVTS
PLTK
PLVTK
QTHL
Quyết định
TAND
TANDTC
Ths
Tố tụng dân sự

Ts
TTLK
UBND
XHCN


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam, Thừa kế là một trong những
chế định có vai trò quan trọng trong việc dịch chuyển tài sản của người chết
để lại cho những người thừa kế của họ theo di chúc hoặc theo quy định của
pháp luật.
Có thể nói, Chế định Thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 2005 được
Quốc hội khóa XI thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực từ ngày
01/01/2006 là một chế định khá hoàn chỉnh. Để đảm bảo việc thi hành Bộ
luật, hiện nay Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ đang soạn
thảo, chuẩn bị ban hành các luật chuyên ngành, các pháp lệnh và nghị định
hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm
2005 hiện nay vẫn chưa có kế hoạch sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng các văn
bản dưới luật quy định chi tiết hay hướng dẫn thi hành. Trong khi đó, việc áp
dụng chế định này trong thực tiễn vẫn còn gặp nhiều vướng mắc do đa số các
vụ việc về thừa kế đều khá phức tạp, qui định của pháp luật trong việc điều
chỉnh các quan hệ về thừa kế chưa thật sự đầy đủ và mang tính cụ thể nên quá
trình áp dụng pháp luật về thừa kế để giải quyết các tranh chấp còn gặp nhiều
khó khăn. Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ từng ngày, từng giờ của đời
sống kinh tế - xã hội của đất nước, nên pháp luật về thừa kế hiện hành vẫn
chưa dự liệu hết những trường hợp, tình huống xảy ra trên thực tế. Một số quy
định pháp luật về thừa kế chung chung, mang tính chất khung, chưa chi tiết,
chưa rõ ràng, lại chưa có văn bản hướng dẫn thi hành cho từng vấn đề cụ thể.
Theo thống kê của Ngành Tòa án nhân dân, hiện nay các tranh chấp về thừa

kế có xu hướng ngày càng gia tăng và phức tạp hơn. Sự nhận thức không đầy
đủ, việc áp dụng pháp luật về thừa kế không thống nhất giữa các cấp Tòa án
làm cho việc giải quyết các tranh chấp thừa kế gặp nhiều khó khăn, thời gian
1


giải quyết kéo dài, vụ việc giải quyết không đươc triệt để, không giải quyết
được dứt điểm được những mâu thuẫn về lợi ích của các bên tranh chấp, bên
cạnh đó một số quyết định của cơ quan có thẩm quyền khi giải quyết các
tranh chấp về thừa kế gây hoang mang cho người dân.
Nhu cầu cụ thể hóa và hoàn thiện các qui định của pháp luật về thừa kế là
một nhu cầu cấp thiết. Việc tìm ra những vướng mắc, bất cập của chế định thừa
kế trong Bộ luật dân sự năm 2005 là một việc làm thiết thực, nhằm hướng tới
việc sửa đổi và hoàn thiện hơn nữa chế định thừa kế, đáp ứng được việc giải
quyết các mâu thuẫn về thừa kế, đảm bảo việc giải quyết các tranh chấp về thừa
kế nhanh chóng, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề: "Nghiên cứu,
phát hiện những bất cập trong chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005"
để làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan
trọng cấp bách cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thừa kế là một chế định quan trọng và phức tạp trong hệ thống pháp
luật dân sự Việt Nam. Chế định này có lịch sử hình thành và phát triển khá
phong phú. Do vậy, Thừa kế đã được nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm
nghiên cứu.
Các đề tài nghiên cứu về Thừa kế khá nhiều và được thực hiện ở các cấp
độ khác nhau như khóa luận tốt nghiệp, luận văn cao học, luận án tiến sĩ…

Trước khi BLDS được ban hành, đã có rất nhiều nghiên cứu về thừa kế

dưới góc độ sách pháp luật thường thức như: "Câu hỏi và giải đáp PLTK"
năm 1994 của Luật sư Lê Kim Quế; "Hỏi đáp về PLTK" năm 1995 của Trần
Hữu Bền và TS. Đinh Văn Thành.
Sau khi BLDS 1995 được ban hành thì việc nghiên cứu đề tài về Thừa
kế vẫn nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Có rất nhiều tác giả nghiên cứu về

2


Thừa kế để làm luận văn thạc sĩ, tiến sĩ. Tiểu biểu là: TS. Phùng Trung Tập
với đề tài "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam" năm 2001; TS.
Phạm Ánh Tuyết với đề tài "Thừa kế theo di chúc theo quy định BLDS Việt
Nam" năm 2003; Ths. Nguyễn Hải An nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề về
thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt Nam" năm 2004;
Ths. Nguyễn Hồng Nam nghiên cứu đề tài "Các điều kiện có hiệu lực di
chúc" năm 2005... Ngoài ra, đề tài về Thừa kế còn được nghiên cứu và đăng
trên các báo, tạp chí như Tạp chí Luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, Đặc san
khoa học pháp lý… Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu của các tác giả
nói trên mới dừng lại phân tích các quy định của pháp luật về Thừa kế ở một
góc độ, một khía cạnh nhất định. Các công trình nghiên cứu dưới góc độ lý
luận hoàn thiện PLVTK còn ít, chưa có tính chất hệ thống, khái quát. Vì vậy,
có thể khẳng định rằng, luận văn này là một công trình khoa học đầu tiên,
nghiên cứu chuyên sâu phát hiện những vướng mắc, bất cập trong chế định
thừa kế của BLDS năm 2005 là một đề tài hoàn toàn độc lập, không có sự
trùng lắp với bất kỳ một công trình nào của người khác.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
*

Mục đích: Phân tích cơ sở lý luận chế định thừa kế trong BLDS năm


2005 và đánh giá thực trạng PLVTK ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, nêu
lên những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện PLVTK ở nước ta hiện nay.
*

Nhiệm vụ của luận văn

Luận văn có nhiệm vụ phân tích những qui định của pháp luật về Thừa
kế trong BLDS năm 2005 để tìm ra những vướng mắc, bất cập của chế định
này. Qua đó, đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, nội dung, bản
chất qui định của pháp luật về Thừa kế trong BLDS năm 2005 nhằm phát hiện
ra những vướng mắc, bất cập của chế định thừa kế.
3


4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước
về pháp luật. Đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về sở hữu tư
nhân, về thừa kế trong thời kỳ đổi mới.
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra, một số phương
pháp khoa học chuyên ngành khác như: phương pháp lịch sử, phương pháp
logic, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng
hợp...cũng được sử dụng trong việc nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
5. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu, phát hiện những bất cập trong
chế định thừa kế của Bộ luật dân sự 2005” trong luận văn này có những
điểm mới như sau:
Trên cơ sở phân tích ưu nhược điểm của những qui định pháp luật về

thừa kế trong BLDS năm 2005 về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng, qua đó
nêu lên những vướng mắc, bất cập của chế định thừa kế và đưa ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện chế định thừa kế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn
-

Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm cơ sở lý

luận cho việc sửa đổi, bổ sung BLDS 2005. Ngoài ra, luận văn còn là tài liệu
tham khảo phục vụ công việc nghiên cứu giảng dạy và học tập của cán bộ,
giáo viên và sinh viên các Trường đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên
nghiệp.
-

Về thực tiễn: Luận văn đề ra các giải pháp cụ thể hoàn thiện PLVTK,

giúp cho việc áp dụng pháp luật về thừa kế có hiệu quả.

4


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ
lục, luận văn được bố cục 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của chế định thừa kế
Chương 2. Thực trạng pháp luật về thừa kế ở Việt Nam
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam

5



Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm Pháp luật về thừa kế
Theo pháp luật dân sự Việt Nam, Thừa kế chính là việc chuyển dịch tài
sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức
có quyền hưởng thừa kế.
Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế, có mầm mống và xuất
hiện ngay từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người. Ở thời kỳ này, việc thừa kế
nhằm di chuyển tài sản của người chết cho những người còn sống được tiến
hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục, tập quán riêng của
từng bộ lạc, thị tộc quyết định. Nghiên cứu về thừa kế, Ph.Ăngghen viết:
Theo chế độ mẫu quyền nghĩa là chừng nào mà huyết tộc chỉ
kể về bên mẹ theo tập tục thừa kế nguyên thuỷ trong thị tộc mới
được thừa kế những người trong thị tộc chết. Tài sản phải để lại
trong thị tộc, vì tài sản để lại không có giá trị lớn, nên lâu nay trong
thực tiễn có lẽ người ta vẫn trao tài sản đó cho những bà con thân
thích nhất, nghĩa là trao cho những người cùng huyết tộc với người
mẹ [50, tr.79].
Như vậy, thời kỳ đầu của xã hội loài người, việc thừa kế được hình
thành theo tập quán của Thị tộc. Thừa kế được phát sinh dựa trên quan hệ
huyết thống theo dòng máu của người mẹ. Khi người mẹ chết đi thì di sản
được chuyển cho những người thân thích trong thị tộc. Sự thừa kế tài sản
trong thị tộc, bộ lạc theo chế độ mẫu hệ đã đặt nền móng ban đầu cho sự hình
thành và phản ánh tính tất yếu của việc thừa kế tài sản theo huyết thống.
Quá trình phát triển của xã hội loài người đã dần làm thay đổi địa vị

6



của người đàn ông trong xã hội. Người đàn ông đã tạo ra được nhiều của cải
hơn, không những đủ nuôi sống gia đình mà còn dư thừa, nhờ đó địa vị của
người đàn ông trong gia đình và thị tộc, bộ lạc dần được thiết lập. Khi người
đàn ông đã chiếm vị trí chủ đạo của đời sống xã hội thì chế độ mẫu hệ mờ
nhạt dần và được thay thế bằng chế độ phụ hệ. Các con trong gia đình có
huyết thống với người cha mang họ của cha và được thừa kế tài sản của cha.
Như vậy, tương ứng với mỗi giai đoạn lịch sử phát triển nhất định là sự phát
triển của lực lượng sản xuất, hình thức gia đình,.. sự thay đổi quan hệ sở hữu
và theo đó việc thừa kế tài sản cũng thay đổi.
Ngay từ khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ sở hữu và
thừa kế đã xuất hiện như một yếu tố khách quan và nó thuộc về phạm trù kinh
tế. Thừa kế xuất hiện dựa trên chế độ sở hữu. Sở hữu và thừa kế có mối quan
hệ vô cùng mật thiết, nếu yếu tố sở hữu là tiền đề phát sinh thừa kế thì thừa kế
chính là phương tiện duy trì, củng cố quan hệ sở hữu.
Theo tiến trình phát triển của xã hội, cùng với sự phát triển của lực
lượng sản xuất, năng suất lao động ngày càng được nâng cao, của cải xã hội
ngày càng được làm ra nhiều hơn, không chỉ đảm bảo cho sinh hoạt gia đình
và cộng đồng thị tộc, bộ lạc mà còn dư thừa sản phẩm. Từ khi có của cải dư
thừa, những người có quyền hành trong thị tộc, bộ lạc đã lợi dụng địa vị của
mình để chiếm hữu số của cải dư thừa đó làm của riêng. Chế độ tư hữu xuất
hiện, xã hội nguyên thuỷ bắt đầu tan rã và nhường chỗ cho một chế độ xã hội
mới trong đó đã có sự phân hoá giai cấp.
Khi giai cấp đã xuất hiện trong xã hội, các giai cấp có quyền lợi đối lập
nhau (giai cấp thống trị và giai cấp bị trị), sự đối kháng giai cấp là điều tất
yếu. Các giai cấp luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt để bảo vệ lợi ích của
giai cấp mình. Tổ chức thị tộc trở nên bất lực trước yêu cầu giải quyết mâu
thuẫn xã hội, lúc này "xã hội đó đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức để


7


dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy hoặc cùng lắm là để cho
cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi
là hợp pháp. Tổ chức đó là nhà nước và nhà nước đã xuất hiện" [15, tr.38].
Thừa kế được hình thành từ khi xã hội chưa phân chia giai cấp, nhưng
khái niệm pháp luật về thừa kế chỉ ra đời và tồn tại trong những xã hội đã
phân chia giai cấp và có nhà nước. Mỗi xã hội khác nhau thì quy định về thừa
kế cũng khác nhau. Thậm chí, trong cùng một chế độ xã hội của một nhà
nước, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, để cho phù hợp với sự phát triển của
xã hội thì pháp luật về thừa kế cũng được quy định khác nhau. Như vậy, Thừa
kế là một phạm trù pháp luật khả biến. Tùy thuộc vào sự phát triển của xã hội
mà Thừa kế có những quy định khác nhau trong việc điều chỉnh mối quan hệ
thừa kế. Pháp luật của Nhà nước ta bảo vệ lợi ích cơ bản của mỗi người lao
động trên cơ sở bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội,
góp phần xóa bỏ những tàn tích của chế độ thừa kế do xã hội thực dân phong
kiến để lại. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi, làm cho nhân dân lao động yên
tâm lao động sản xuất tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội.
1.1.2. Đặc điểm Pháp luật thừa kế Việt Nam
Căn cứ vào những qui định của pháp luật về thừa kế Việt Nam từ
Thông tư số 81 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết những tranh
chấp về quyền thừa kế, Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Bộ luật dân sự năm 1995
và Bộ luật dân sự năm 2005 đang có hiệu lực thi hành, luật thừa kế Việt Nam
có những đặc điểm sau đây:
Đặc điểm thứ nhất, thừa kế theo pháp luật Việt Nam là chuyển dịch di
sản thừa kế và quyền sở hữu di sản được thừa kế cho chủ thể có quyền hưởng
di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật (Riêng đất đai là chuyển dịch quyền sử
dụng). Như vậy, thừa kế là căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế
mà người thừa kế được hưởng [84, phần 4].


8


Đặc điểm thứ hai, căn cứ vào qui định tại Điều 676 Bộ luật dân sự, các
hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam được xác định theo quan hệ huyết
thống và trong hàng thừa kế thứ hai và thứ ba, các cháu nội, cháu ngoại, chắt
nội, chắt ngoại của người để lại di sản được xác định là những người thừa kế
theo hàng nhận di sản của ông, bà nội, ngoại, các cụ nội, ngoại. Đây là một
qui định rất đặc thù, bởi vì cháu, chắt của người để lại di sản đã là những
người thừa kế thế vị theo qui định tại điều 677 rồi. Lợi ích của cháu, của chắt
nội, ngoại của người để lại di sản được bảo đảm thực hiện theo những qui
định tại các Điều 676 và 677 Bộ luật dân sự [84, phần 4].
Đặc điểm thứ ba, pháp luật thừa kế Việt Nam quan tâm đến phong tục
phổ biến trong nhân dân và bảo đảm cho phong tục tốt đẹp đó được thực hiện
theo qui định của pháp luật. Pháp luật thừa kế Việt Nam qui định về người lập
di chúc có quyền để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng theo qui định
tại Điều 670. Đây là một qui định mang tính kế thừa các luật Cổ Việt Nam,
nhưng được qui định rộng rãi và có thể áp dụng một cách linh hoạt hơn những
qui định về di sản thờ cúng trong các đạo luật của các thời kỳ trước đây [84,
phần 4].
1.2. NHỮNG NGUYÊN TẮC PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ Ở VIỆT NAM
Nguyên tắc PLVTK là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt

trong quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện PLVTK. Từ khi hình thành đến
nay, những nguyên tắc PLVTK ở nước ta có sự thay đổi phù hợp với bản chất
của nhà nước ở từng giai đoạn lịch sử. Những nguyên tắc pháp luật thừa kế ở
Việt Nam được áp dụng chung cho hai hình thức thừa kế theo di chúc và thừa
kế theo pháp luật. Những nguyên tắc này xuất hiện trong các văn bản pháp
luật đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Dựa trên Hiến pháp năm 1946, Sắc lệnh số 97-SL ngày 22.5.1950 đã
qui định những nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ: “đàn bà ngang quyền

9


với đàn ông về mọi phương diện” [48, Điều 5]. Nguyên tắc này được coi như
một định hướng chủ đạo trong việc xây dựng các qui phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ dân sự nói chung và quan hệ thừa kế tài sản nói riêng trong
các văn bản pháp luật sau này.
Những nguyên tắc pháp luật thừa kế đã thể hiện rõ bản chất và những
đặc trưng pháp luật về thừa kế ở nước ta, có thể nói, từ năm 1945 đến nay về
cơ bản những nguyên tắc đó không thay đổi. Pháp luật về thừa kế ở Việt Nam
có những nguyên tắc cơ bản sau đây:
1.2.1. Nguyên tắc pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân

Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được nhà
nước bảo vệ. Gắn liền với các bản Hiến pháp, quyền thừa kế cũng như các quyền
khác của công dân được qui định khá cụ thể. Tuy Hiến pháp năm 1946 chưa quy
định rõ ràng về quyền thừa kế, nhưng quyền tư hữu về tài sản được thừa nhận.
Tại Điều 12 Hiến pháp năm 1946 quy định “Quyền tư hữu tài sản của công dân
Việt Nam được bảo hộ” [54, Điều 12]. Hiến pháp 1959 Nhà nước ta đã quy định
rõ ràng hơn về quyền thừa kế. Tại Hiến pháp 1959, Nhà nước đã chính thức ghi
nhận về quyền thừa kế, tại Điều 19 Hiến pháp 1959 “Nhà nước chiếu theo pháp
luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân” [55, Điều 19]; đến Hiến
pháp 1980 kế thừa và phát huy Hiến pháp 1946, 1959, tiếp tục khẳng định về
quyền tư hữu tài sản của công dân và đến Hiến pháp 1992 quyền thừa kế tiếp tục
khẳng định tại Điều 58 Hiến pháp 1992 "Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp
pháp và quyền thừa kế của công dân" [65, Điều 58].
Trên cơ sở các qui định của Hiến pháp, ngay điều luật đầu tiên trong phần

thừa kế (Điều 631 BLDS 2005) đã đưa ra nguyên tắc chung nhất, đó là “Quyền
thừa kế cá nhân”. Nguyên tắc này được thể hiện như sau: pháp luật đảm bảo cho
mọi cá nhân đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, đều có
quyền để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật, mỗi cá nhân đều

10


có quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Cá nhân không
những có quyền để lại tài sản hay được hưởng di sản mà còn quyền từ chối di
sản thừa kế. Nhà nước bảo hộ quyền thừa kế còn thể hiện trong việc đảm bảo
cho mọi công dân có quyền sở hữu hợp pháp như của cải để dành, nhà ở, tư
liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, không giới hạn về số lượng hay giá trị ... Tất
cả mọi tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân là di sản thừa kế khi
người đó chết, được Nhà nước tôn trọng và pháp luật bảo vệ [67, Điều 631].
1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về thừa kế
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân là một trong những
nguyên tắc Hiến định. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên đã qui định “Tất cả công
dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế,văn hóa”.
Hiến pháp 1959, 1980, 1992 đều kế thừa và phát triển nguyên tắc này.

Ngay khi Sắc Lệnh 97-SL ra đời, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng
của công dân về thừa kế đã được ghi nhận. Theo Điều 11 của Sắc lệnh 97
Trong lúc sinh thời, người chồng góa hay người vợ góa, các con
đã thành niên có quyền xin chia phần tài sản thuộc quyền sở hữu của
người chết, sau khi đã thanh toán tài sản chung. Sắc lệnh cũng quy định
rằng “vợ và chồng có địa vị bình đẳng trong gia đình” và “người đàn bà
có chồng có toàn năng lực về hộ” [48, Điều 11].
So với các qui định của chế độ thực dân, phong kiến thì qui định này đã
loại bỏ được quan điểm trọng nam khinh nữ, đảm bảo quyền công dân.

Kế thừa và phát huy các văn bản pháp luật trước đó, trải qua nhiều lần
sửa đổi, bổ sung, trong các văn bản pháp luật nguyên tắc này vẫn được ghi
nhận và ngày càng cụ thể hóa hơn. Nguyên tắc này là sự cụ thể hóa một phần
các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật dân sự. Điều 52 Hiến pháp 1992 ghi nhận
"mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật" [65, Điều 52] và Điều 5 BLDS
2005 qui định "trong quan hệ dân sự các bên đều bình đẳng, không được lấy
lý do về khác biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín
11


ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng
với nhau" [67, Điều 5].
Trên cơ sở các nguyên tắc định hướng, chế định thừa kế qui định trong
BLDS và một số qui định trong Luật HN&GĐ năm 2000 đã xác định nội dung
nguyên tắc này như sau: "Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của
mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật"
[63, Điều 32]. "Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau" [63, Điều 31] "có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung [63, Điều 27, Khoản 1].
“Khi một bên chết trước, nếu cần chia tài sản chung của vợ chồng thì chia đôi,
phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật. Những qui
định trên của pháp luật nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của vợ chồng trong việc
để lại di sản thừa kế và nhận di sản thừa kế. Pháp luật cũng qui định, không phân
biệt là con đẻ hay con nuôi, con trong giá thú, con ngoài giá thú, không phân biệt
con trai hay con gái, độ tuổi, có năng lực hành vi dân sự hay không có năng lực
hành vi dân sự... đều có quyền thừa kế tài sản của cha mẹ, đều được hưởng thừa
kế bằng nhau, nếu di sản thừa kế được chia theo pháp luật.

Những gì phân tích ở trên cho thấy, nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ
thể trong việc để lại di sản và nhận di sản thừa kế nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của công dân trong quan hệ tài sản, qua đó củng cố, nâng cao

tinh thần đoàn kết tình thân tộc, loại trừ tư tưởng trọng nam khinh nữ, phân
biệt đối xử giữa các thành viên trong gia đình, góp phần xây dựng một gia
đình ấm no, hạnh phúc, bền vững, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1.2.3. Nguyên tắc tôn trọng ý chí của ngƣời có quyền thừa kế
Đây là một trong các nguyên tắc vô cùng quan trọng, nguyên tắc này
vừa ghi nhận sự bảo hộ của pháp luật đối với quyền thừa kế, vừa thể hiện
quyền của mỗi cá nhân trong việc định đoạt toàn bộ tài sản của mình.
Theo qui định của pháp luật Việt Nam, người có quyền thừa kế là công

12


dân, tổ chức. Quyền thừa kế thuộc về cá nhân được hiểu theo hai chủ thể nhất
định, đó là chủ thể để lại tài sản và chủ thể hưởng thừa kế di sản.
Trên cơ sở của nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận được
qui định tại Điều 7 BLDS, pháp luật thừa kế tôn trọng ý chí của người có
quyền thừa kế và bảo đảm một cách nhất quán nguyên tắc này với các qui
định cụ thể về quyền của cá nhân để lại tài sản và quyền của cá nhân hưởng
thừa kế [67, Điều 7].
-

Đối với cá nhân người để lại tài sản với tư cách là chủ sở hữu hợp

pháp đối với những tài sản của mình, cá nhân có quyền lập di chúc để thực
hiện quyền định đoạt tài sản của mình sau khi chết. Pháp luật không cho phép
bất kỳ ai có hành vi cản trở, cưỡng ép, đe doạ... người lập di chúc. Người để
lại thừa kế có thể thực hiện quyền định đoạt thông qua hình thức di chúc viết
hoặc di chúc miệng, có thể nhờ người làm chứng cho việc lập di chúc, có thể
yêu cầu công chứng viên đến chỗ ở của mình để lập di chúc. Di chúc chính là
hình thức xác định ý chí của một người định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu

của họ trước khi chết. Quyền định đoạt này được nêu tại Điều 648 BLDS, khi
thực hiện quyền định đoạt trong di chúc, người lập di chúc có quyền chỉ định
người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; phân định phần di
sản cho từng người thừa kế, dành một phần tài sản trong khối di sản để di
tặng, thờ cúng, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, chỉ định người giữ di chúc;
người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Quyền định đoạt của người có tài sản lập di chúc có hiệu lực pháp luật
khi di chúc thỏa mãn các điều kiện được qui định tại Điều 652 BLDS.
Trong trường hợp di chúc đã được xác lập, nếu muốn, người lập di
chúc vẫn có quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc huỷ bỏ di chúc vào bất kỳ
lúc nào [67, Điều 662].
Ý chí của cá nhân người để lại di sản được pháp luật bảo hộ và tôn trọng,
tuy nhiên, trong một số trường hợp, pháp luật qui định quyền của những người
13


thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc và như vậy quyền định
đoạt của người để lại di sản cũng chỉ mang tính tương đối [67, Điều 9].
Quyền định đoạt của cá nhân để lại di sản được thể hiện không những
trong việc lập di chúc để định đoạt tài sản của họ, mà còn thể hiện ngay trong
việc họ không lập di chúc để định đoạt tài sản để lại sau khi họ chết. Đây cũng
là một cách thể hiện ý chí của cá nhân bằng việc không lập di chúc để định
đoạt tài sản của họ, mà ý chí đó thể hiện ở việc chỉ để lại di sản của họ cho
những người có quyền thừa kế theo pháp luật.
-

Đối với cá nhân có quyền hưởng di sản, pháp luật quy định người

thừa kế có quyền nhận di sản hoặc từ chối quyền nhận di sản của người để lại
thừa kế nếu sự từ chối quyền hưởng di sản của người thừa kế phù hợp với

những điều kiện, nguyên tắc, thời hạn mà pháp luật đã quy định. Tuy nhiên,
nếu người được thừa kế từ chối hưởng di sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ về tài
sản của bản thân cá nhân họ với người khác thì pháp luật không chấp nhận.
"Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản trừ trường hợp việc từ chối
nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác",
"việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản, người từ chối phải báo
cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phải chia di sản,
công chứng nhà nước, UBND xã, phường nơi có địa điểm mở thừa kế về việc
từ chối nhận di sản", "thời điểm từ chối nhận di sản là 6 tháng kể từ thời điểm
mở thừa kế" [67, Điều 642].
Trước năm 1945, ở nước ta quyền định đoạt của người được hưởng di
sản bị hạn chế rất nhiều so với pháp luật hiện hành. Theo Điều 376 Dân luật
Bắc kỳ và Điều 308 Dân luật Trung kỳ, những người thừa kế thuộc diện là
con, cháu, vợ hay chồng của người chết không có quyền từ chối nhận di sản.
Dân luật Trung kỳ buộc vợ hay chồng và con, cháu trai phải nhận di sản. Ở
miền Nam, theo án lệ đã định con không có quyền khước từ di sản của người
cha để lại, con cháu của người khước từ không được hưởng di sản do cha mẹ
14


của mình đã khước từ. Hình thức khước từ phải thực hiện ở phòng lục sự Tòa
sơ thẩm tại địa điểm mở thừa kế của người chết [4, Điều 376].
Như vậy, trong thời kỳ phong kiến, do tục lệ cổ hủ mà con cháu, vợ hay
chồng của người chết bắt buộc nhận lấy tài sản riêng của mình để trả các
khoản nợ của người chết vô thời hạn. Chỉ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa nay là Nước CHXHCN Việt Nam được thiết lập thì quyền công dân
nói chung và quyền tự định đoạt về thừa kế nói riêng ngày càng được bảo đảm
một cách thực tế.
1.2.4. Nguyên tắc cá nhân ngƣời thừa kế phải còn sống vào thời
điểm mở thừa kế

Quan hệ thừa kế hình thành với những đặc thù riêng của nó. Đặc thù đó
được ghi nhận ngay trong các quy định của pháp luật như là một nguyên tắc.
Nguyên tắc này đã được quy định ở Điều 11 Sắc lệnh số 97-SL: "Trong lúc
sinh thời, người chồng góa hay người vợ góa, các con đã thành niên có quyền
xin chia tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết sau khi đã thanh toán tài
sản chung" [48, Điều 11].
Pháp luật không quy định về độ tuổi và năng lực nhận di sản thừa kế,
mà chỉ quy định quyền của cá nhân được hưởng di sản. Do vậy, người có
năng lực hành vi hay không có năng lực hành vi dân sự đều được nhận di sản
thừa kế theo pháp luật phần ngang nhau nếu họ cùng thuộc hàng thừa kế được
hưởng.
Đối với người đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì chưa có năng lực
pháp luật dân sự. Bởi vì, theo qui định của pháp luật thì: "Năng lực pháp luật
dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết"
[67, Điều 13]. Pháp luật cũng có quy định bảo vệ quyền thừa kế của người
con ra đời sau khi người bố chết, mà người con đó còn sống thì được hưởng di
sản của bố. Quy định tại khoản 1 Điều 635 BLDS phù hợp và thống nhất

15


với Điều 63 Luật HN & GĐ: "Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do
người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng" [67, Điều 634].
Dựa trên nguyên tắc này, Điều 685 BLDS có quy định: "Khi phân chia di sản
nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra, thì phải
dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng, để
nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra, thì được hưởng; nếu chết trước khi
sinh ra, thì những người thừa kế khác được hưởng" [67, Điều 685]. Pháp luật
còn qui định: "Trẻ em sinh ra sống được 24 giờ trở lên rồi mới chết, thì cũng
phải đăng ký khai sinh theo qui định của Nghị định này, nếu chết trước khi

khai sinh (chết lưu) hoặc sinh ra mà sống chưa được 24 giờ, thì không phải
đăng ký khai sinh" [22, Điều 20]. Như vậy, trong trường hợp đứa trẻ sinh ra
được 24 giờ trở lên rồi sau đó chết, thì đứa trẻ đó vẫn là người được thừa kế.
Người thừa kế là người có khả năng được hưởng theo quy định của
pháp luật và là người phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế để được hưởng
di sản. Nguyên tắc này đã loại trừ những người có quyền thừa kế di sản của
nhau nhưng đều chết trong cùng một thời điểm hoặc được coi là chết trong
cùng một thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước, thì họ
không được thừa kế di sản của nhau [67, Điều 641]. Những người theo quy
định tại khoản 1 Điều 643 BLDS, cũng không phải là người thừa kế theo pháp
luật do đã bị tước quyền thừa kế. Những người từ chối nhận di sản thừa kế
hợp pháp cũng không được hưởng thừa kế di sản [67, Điều 642]. Người thừa
kế theo quy định của BLDS không thể nhường quyền hưởng di sản cho người
thừa kế khác, như đã từng được quy định tại Điều 31 PLTK.
1.3. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ
THỪA KẾ Ở VIỆT NAM
Pháp luật luôn nắm giữ vai trò quan trọng trong bất kỳ Nhà nước nào.
Để quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giai cấp thống trị luôn đặt ra các qui
định buộc các giai cấp khác tuân thủ, trong lĩnh vực thừa kế cũng vậy.
16


PLVTK ở Việt Nam có bề dày lịch sử, phát triển cùng với quá trình
dựng nước và giữ nước.
Để có cơ sở cho việc xem xét đối chiếu, so sánh với những quy định
của pháp luật về thừa kế hiện hành, theo tác giả việc nêu sơ lược về pháp luật
thừa kế thời kỳ trước năm 1945 là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, tác giả không
có tham vọng nghiên cứu toàn diện về vấn đề này mà chỉ xin điểm qua những
mốc thời gian quan trọng có ý nghĩa liên quan đến lịch sử xây dựng, kế thừa
và phát triển các quy định về thừa kế.

Quá trình phát triển PLVTK ở Việt Nam có thể chia làm 3 giai đoạn sau:

1.3.1. Giai đoạn trƣớc Cách mạng Tháng 8/1945
*

Thừa kế trong giai đoạn chế độ phong kiến Việt Nam

Chế độ phong kiến Việt Nam tồn tại qua rất nhiều thế kỷ, mỗi Nhà
nước phong kiến đều ban hành các văn bản pháp luật để củng cố quyền lực và
phục vụ cho công việc quản lý đất nước.
Khó có thể xác định chính xác thời điểm xuất hiện những quy định về
thừa kế trong pháp luật Việt Nam. Có ý kiến cho rằng: "PLVTK ở nước ta đã
có từ thời Hùng Vương - trước Công nguyên". Thời Hùng Vương đã quy định
việc chia tài sản... luật dân sự và tranh chấp dân sự dưới thời Hùng Vương đã
có những quy định bắt buộc [90, tr.40]. Tuy nhiên, ý kiến trên lại chưa có đủ
cơ sở để khẳng định mà chỉ là sự suy đoán logic của quá trình luật hoá các
quan hệ thừa kế. Có tác giả khác lại dựa vào sách Hậu Hán Thư để khẳng định
dưới thời Trưng Vương (40 - 43) đã có pháp luật. Trong quyển Cổ luật Việt
Nam Thông Khảo quyển 1, ông Vũ Văn Mẫn trích trong sách Hậu Hán Thư
"Mã Viện đi xứ nào, liền đặt thành quận, huyện, xây thành quách..." Có điều
trần tấu về luật viết của người Việt, so sánh với luật Hán hơn mười điều và
ông kết luận "Thời ấy đã có luật thành văn như nhà Hán". Tuy nhiên, đây chỉ
là sự phỏng đoán của ông Mẫn, cho rằng dưới thời Trưng Vương đã có

17


luật thành văn, nhưng lại không biết rõ nội dung của pháp luật thời kỳ này
quy định về những vấn đề gì.
Tuy nhiên, có thể khẳng định ở nước ta pháp luật thành văn về thừa kế

đã có từ rất sớm, đáng chú ý là các bộ luật của các triều đại phong kiến.
Thời nhà Trần, nhà nước đã ban hành pháp luật như: "Quốc Triều
Thống Chế", "Quốc Triều Thống Lễ", "Bộ Hình Thư"... tuy nhiên những bộ
luật này bị thất truyền nên không thể xác định được nội dung PLVTK.
Đến thời nhà Lê (1428 - 1787), với những thành tựu rực rỡ trên nhiều
lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, đặc biệt trong lĩnh vực lập
pháp và điển chế đã để lại nhiều văn bản pháp lý, đó chính là các bộ luật sau:
QTHL, Luật Thư (1440 - 1442), Quốc Triều Luật Lệnh (1440 - 1442), Hồng
Đức, Thiện Chính Thư (1470 - 1497), Quốc Triều Chiếu Lệnh Thiện Chính
(1619 - 1705), Cảnh Hưng Điều luật (1740 - 1786).
Trong số các bộ luật trên, có thể nói QTHL là văn bản sớm nhất hiện
còn lưu giữ được, đã chứa đựng nhiều quy định khá hoàn chỉnh về thừa kế.
QTHL là di sản văn hóa đồ sộ, đặc sắc, độc nhất vô nhị của Việt Nam và có vị
trí xứng đáng trong lịch sử lập pháp thế giới. Đây là bộ luật bao trùm nhiều
nội dung khác nhau, có sức sống lâu bền và tác động mạnh mẽ, toàn diện, sâu
sắc tới tới các lĩnh vực của xã hội đương thời.
QTHL được xem là bộ luật quan trọng và chính thống nhất. Chính vì
vậy, khi nghiên cứu những quy định về thừa kế của pháp luật Việt Nam, các
nhà khoa học pháp lý đã lấy QTHL làm cơ sở để kết luận rằng: "PLVTK ở
Việt Nam được hình thành chính thức từ triều Hậu Lê (1428 - 1788), cụ thể
được ghi nhận trong QTHL" [91, tr.9].
Trong QTHL, các quy định thừa kế được quy định trong chương Điền
sản từ Điều 374 đến Điều 399. Theo đó, có 2 hình thức thừa kế được qui định,

18


×